*****
Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīvibhaṅga) là phần thứ hai của bộ Phân Tích Giới Bổn (Suttavibhaṅga) thuộc về Tạng Luật (Vinayapiṭaka), phần thứ nhất là Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhaṅga) được trình bày với tên gọi là Đại Phân Tích (Mahāvibhaṅga).
Tổng cộng điều học của các tỳ khưu ni gồm có 311 điều được phân chia như sau:
1/- 8 Pārājika (bất cộng trụ)
2/- 17 Saṅghādisesa (tăng tàng)
3/- 30 Nissaggiya Pācittiya (ưng xả đối trị)
4/- 166 Pācittiya (ưng đối trị)
5/- 8 Pāṭidesanīya (ưng phát lộ)
6/- 75 Sekhiya (ưng học)
7/- 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā (các pháp dàn xếp tranh tụng).
Tuy nhiên chỉ có những điều học quy định riêng (asādhāraṇapaññatti) được trình bày trong tập này, còn những điều quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni (sādhāraṇapaññatti) cần phải xem ở Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhaṅga). Ngài Buddhaghosa trong Chú Giải Tạng Luật Samantapāsādikā đã giúp chúng ta xác định những điều học chung này, tuy nhiên thứ tự các điều học trong giới bổn đầy đủ của các tỳ khưu ni được trình bày như thế nào không thấy ngài đề cập đến.
Sau khi hoàn tất phần nghiên cứu tài liệu này, chúng tôi có lưu ý một số vấn đề như sau:
1/- Tỳ khưu ni không có phần giới aniyata (bất định). Tỳ khưu và tỳ khưu ni đều có 30 điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị), tuy có số lượng giống nhau nhưng một số điều học lại khác nhau, 75 điều sekhiya (ưng học) và 7 pháp dàn xếp tranh tụng hoàn toàn giống nhau.
2/- Đức Phật quy định các điều học cho các tỳ khưu ni thông qua các tỳ khưu. Mỗi khi có sự việc sanh khởi, các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc cho các tỳ khưu rồi các tỳ khưu mới trình lên đức Phật. Khi đức Phật quy định điều học, ngài cũng quy định gián tiếp qua các tỳ khưu: "... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này ..." Cũng nên lưu ý về thể của động từ sử dụng trong lời nói của đức Phật: Động từ "uddissantu" trong trường hợp của các tỳ khưu ni thuộc mệnh lện cách hàm ý sự chỉ thị, sự ra lệnh, nên được dịch là "hãy," còn "uddisseyyātha" áp dụng cho các tỳ khưu thuộc giả định cách có ý nghĩa khuyên bảo nhẹ nhàng được dịch là "nên;" chúng tôi chưa tìm ra được lý giải về văn phạm cho điểm này, cũng có thể việc nói gián tiếp hay trực tiếp là lý do của sự khác biệt này. Và trong các câu chuyện ở Tạng Luật, dường như chỉ có bà Mahāpajāpati Gotamī là chủ động thưa chuyện cùng đức Phật, còn các tỳ khưu ni chỉ lắng nghe và trả lời mỗi khi đức Phật hỏi đến.
3/- Các tỳ khưu ni khi đến với đức Phật đều đứng cho dù nghe Pháp. Điều này được ghi nhận ở các đoạn văn "... rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên..." Và khi từ giã đức Phật, chỉ có phần mô tả việc các tỳ khưu ni đảnh lễ đức Phật, hướng vai phải nhiễu quanh và ra đi, không có đoạn "... từ chỗ ngồi đứng dậy..." Riêng đối với các tỳ khưu, vị tỳ khưu ni cần phải xin phép khi ngồi xuống ở phía trước (pācittiya điều 94).
4/- Tội quy định cho tỳ khưu thường được giảm nhẹ so với các tỳ khưu ni trong khi cả hai đều thực hiện hành động phạm tội giống nhau. Ví dụ như việc che giấu tội pārājika của vị khác, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng đối trị) điều 64 tỳ khưu ni lại phạm pārājika (bất cộng trụ) điều 2, hoặc vị xu hướng theo tà kiến và vẫn không dứt bỏ sau khi được nhắc nhở, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng đối trị) điều 68 còn tỳ khưu ni phạm pārājika (bất cộng trụ) điều 3, v.v...
5/- Tuy nhiên, tỳ khưu ni cũng được 2 điều giảm nhẹ là chỉ hầu cận ni sư tế độ 2 năm trong khi tỳ khưu tối thiểu phải 5 năm hoặc hơn và tỳ khưu ni không phải hành parivāsa khi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng), bù lại phải thực hành mānatta nửa tháng ở cả hai hội chúng (trong khi đó tỳ khưu phải hành parivāsa tùy theo số ngày che giấu và chỉ 6 đêm mānatta). Phải chăng điều này chứng tỏ bản chất người nữ không biết giấu diếm tội của bản thân nên hành phạt parivāsa không cần thiết?
6/- Vấn đề xuất gia cho người nữ có phần phức tạp hơn, ví dụ như ni sư tế độ phải 12 năm thâm niên (so với tỳ khưu chỉ 10 năm), mỗi năm chỉ có thể cho tu lên bậc trên 1 nữ đệ tử (không thấy quy định cho tỳ khưu). Sau khi cho tu lên bậc trên xong, cần phải di chuyển vị tân tỳ khưu ni đi xa để tránh trường hợp người chồng bắt lại (pācittiya điều 70).
7/- Về phần giới tử ni muốn tu lên bậc trên phải có sự cho phép của cha mẹ và người chồng (đã xuất giá vẫn còn lệ thuộc vào cha mẹ), phải tròn đủ hai mươi tuổi, đã thực hành sáu pháp trong hai năm, và sự truyền pháp tu lên bậc trên cần được tiến hành lần lượt ở cả hai hội chúng. Giới tử ni được chia làm hai hạng: Kumārībhūtā có thể hiểu là hạng người nữ chưa có sự tiếp xúc thể xác với người nam và hạng thứ nhì là Gihigatā (nghĩa là người nữ đã đi đến nhà) được dịch là người nữ đã kết hôn; ở phần giải nghĩa từ ngữ ghi là "người nữ đã đi đến ở giữa (những) người nam" (lối nói bóng bẩy của sự tiếp xúc thể xác với người nam). Nếu vị tỳ khưu ni cho tu lên bậc trên hạng người nữ gihigatā chưa đủ 12 năm (ūnadvādasavassā) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) điều 65. Nên hiểu như thế nào về việc chưa đủ 12 năm? Học giả I. B. Horner lý luận lòng vòng về vấn đề này: Là kém 12 tuổi? Hay kết hôn chưa đủ 12 năm? Lời giải thích của ngài Buddhaghosa cũng không soi sáng được vấn đề. Chúng tôi đã suy nghĩ về lời giải thích của đức Phật về lý do không thể cho tu lên bậc trên hạng người nữ này khi chưa đủ 12 năm "không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, ..." và hiểu theo nghĩa đơn giản của lời giải nghĩa từ ngữ ở trên: người nữ "có sự tiếp xúc thể xác với người nam" khi bản thân chưa đủ 12 tuổi. Do thể chất và tâm lý của người nữ vào lứa tuổi ấy chưa được chuẩn bị đầy đủ nên việc người nam xâm phạm tiết hạnh sẽ gây ra những tác hại về tâm sinh lý khiến khả năng chịu đựng của hạng người nữ ấy bị kém đi (Dịch giả I.B. Horner cho biết rằng ở Ấn Độ có những địa phương vẫn duy trì tập tục cưới gả các cô gái lúc còn 8 tuổi).
8/- Xã hội Ấn Độ thời đó có vẻ rất nguy hiểm đối với nữ giới qua những sự việc bất trắc xảy ra cho các tỳ khưu ni đi riêng lẻ hay nhóm.
9/- Vấn đề thâu hồi Kaṭhina lại được tìm thấy ở bộ Luật này (pācittiya điều 30, [253]) thay vì được kết tập ở chương Kaṭhina (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VII).
Chúng tôi chỉ liệt kê một số vấn đề nổi bật đã được đánh dấu trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, chúng tôi còn có các thắc mắc như sau:
1/- Phải chăng bộ Luật chúng ta đang nghiên cứu ở đây đã được rút gọn lại? Hay nói cách khác, phải chăng có một bộ Luật được kết tập đầy đủ cho tỳ khưu ni để tiện việc học tập? Theo Đại Phẩm - Mahāvagga, vào ngày lễ Uposatha các tỳ khưu không được đọc tụng giới bổn Pātimokkha khi có sự hiện diện của vị tỳ khưu ni (chương II, [201]). Như thế, các tỳ khưu ni đã đọc tụng riêng theo như ở lời mở đầu và kết thúc của mỗi loại điều học, hoặc ở lời kết thúc giới bổn đã xác định rõ. Ngoài ra, cần phải có sự chuyển đổi về văn tự ở các điều học đã được quy định chung, ví dụ ở điều pārājika thứ nhất phải đọc "yā pana bhikkhunī" thay vì đọc "yo pana bhikkhu," "antamaso tiracchānagatena" thay vì "antamaso tiracchānagatāya" v.v... cho thấy việc lưu truyền một bộ giới bổn đầy đủ của các tỳ khưu ni là hợp lý. Nếu chấp nhận giả thiết như vậy, phải chăng bộ Luật của tỳ khưu ni đã được rút gọn lại sau khi sự tồn tại của các tỳ khưu ni không còn nữa? Vào thời gian nào?
2/- Ngoại trừ một số sinh hoạt của các tỳ khưu ni qua các câu chuyện, chúng tôi vẫn không nghiệm ra được các hành sự của các tỳ khưu ni đã được tiến hành như thế nào? Ví dụ như các tỳ khưu ni tụng đọc giới bổn vào lúc nào trong ngày lễ Uposatha? Trước hay sau khi đi nghe giáo giới? Ni viện có xác định ranh giới (sīmā) riêng hay không? Nếu có, các tỳ khưu ni sẽ tự thực hiện lấy hay cần phải có sự giúp đỡ của các tỳ khưu? Trong lúc tra cứu cách giải quyết cho một số vấn đề, chúng tôi đã không tìm được lời giải thích của ngài Buddhaghosa hoặc lời giải thích không rõ ràng. Chúng tôi tự hỏi rằng: Phải chăng ngài đã không có sự tham khảo với các tỳ khưu ni thời đó? Hay nói theo sự suy diễn là không còn sự sinh hoạt của tỳ khưu ni vào thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên ở đảo Laṅkā?
Nếu xem xét kỹ lưỡng hai bộ Luật của tỳ khưu và tỳ khưu ni, chúng ta có thể tìm ra những sự khác biệt về tâm lý giữa hai giới tính đã được đức Phật nghiệm ra bằng sự tu chứng và giác ngộ của bản thân, trong khi hiện nay môn Tâm Lý Học phải tốn nhiều công sức với các sự nghiên cứu để tìm ra nguyên lý và áp dụng vào thực tế. Chúng tôi nghĩ rằng còn nhiều vấn đề lý thú khác mà bản thân chúng tôi đã bỏ sót hay không đủ khả năng để phát hiện.
*
Bản dịch Phân Tích Giới Bổn – Suttavibhaṅga của chúng tôi được thực hiện và trình bày theo văn bản Pali La tinh từ Compact Disk BUDSIR IV của trường đại học Mahidol ở thủ đô Bangkok, Thái Lan. Phần mục lục chúng tôi thực hiện theo các chữ số đánh dấu ở đầu mỗi vấn đề; trình bày theo cách này sẽ giúp quý vị tiết kiệm được thời gian trong việc xác định vấn đề cần tham khảo. Tuy đã nỗ lực tối đa nhưng chúng tôi biết rằng bản dịch này vẫn còn nhiều sai sót, rất mong nhận được những sự chỉ dạy và ý kiến đóng góp của quý vị. Xin email về: dinda@u.washington.edu
Xin chân thành ghi nhận công đức của Thượng Tọa Tiến Sĩ Bửu Chánh về CD Tam Tạng BUDSIR IV. Chúng tôi cũng xin tán dương công đức của Đại Đức Giác Hạnh về CD Tam Tạng Chattha Saṅgāyana, đồng thời đã cho mượn dài hạn các bản dịch tiếng Anh của Cô I. B. Horner. CD Buddhasāsanā quà biếu của Dr. Bình Anson đã đóng góp phần công đức không nhỏ với hai bản dịch từ Hán tạng: Luật Tỳ-khưu ni bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Quang và Luật Ma-ha Tăng-kỳ của Pháp sư Phật-đà Bạt-đà-la (Thích Phước Sơn dịch).
Chúng tôi cũng xin ghi nhận sự ủng hộ nhiệt tình của Đại Đức Hộ Phạm đã hy sinh nhiều thời gian cùng chúng tôi suy nghĩ để tìm ra phương thức giải quyết cho những điểm khó về văn phạm cũng như từ ngữ. Cũng cần nhắc đến các sự ủng hộ và lời động viên thăm hỏi của các vị: Ven. Chánh Minh, Ven. Cittānanda, Ven. Khánh Hỷ, Ven. Chánh Kiến, Dr. Bình Anson, bà Diệu Đài, anh Phạm Trọng Độ, đạo hữu Lương Xuân Lộc, chú Nguyễn Hữu Danh, gia đình Nguyễn Ngọc Vivian, gia đình Lê Thị Tích, cô Trần Liêng. Không có sự khích lệ của quý vị, bản dịch này không thể hoàn thành. Mong sao các ước nguyện của quý vị sẽ được thành tựu như ý và nhanh chóng y như việc chúng tôi đã hoàn tất bản dịch này.
Công đức này xin dâng đến Hòa Thượng trụ trì và chư tỳ khưu chùa Sri Jayawardhanaramaya, Colombo, Tích Lan đã bảo bọc và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong công việc học tập và nghiên cứu Phật Pháp trong thời gian qua.
Mong sao hết thảy chúng sanh đều được tiến hóa trong ánh hào quang của Chánh Pháp.
Colombo, ngày 31 tháng 03 năm 2004
Bhikkhu Indacanda
(Trương đình Dũng)
(Hiệu đính lần thứ nhất hoàn tất ngày 10/10/2004)
(PĀRĀJIKAKAṆḌAṂ)
ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ NHẤT:
[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Vào lúc bấy giờ, Sāḷha cháu trai của Migāra [1]có ý định xây dựng trú xá cho hội chúng tỳ khưu ni. Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và nói điều này:
- Thưa các ni sư, tôi muốn xây dựng trú xá cho hội chúng tỳ khưu ni. Hãy giao cho tôi vị tỳ khưu ni là vị phụ trách công trình mới.
Vào lúc bấy giờ, có bốn chị em đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni là: Nandā, Nandavatī, Sundarīnandā, Thullanandā. Trong số các cô ấy, tỳ khưu ni Sundarīnandā đã xuất gia lúc còn trẻ, đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, trí tuệ, kinh nghiệm, thông minh, sắc sảo, cần cù, biết cách suy xét tính toán, có khả năng để xây dựng, có khả năng để hoàn thành công việc ấy. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni đã chỉ định tỳ khưu ni Sundarīnandā làm vị phụ trách công trình mới rồi bàn giao cho Sāḷha cháu trai của Migāra.
Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā thường xuyên đi đến nhà của Sāḷha cháu trai của Migāra (nói rằng):
- Hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục.
Sāḷha cháu trai của Migāra cũng thường xuyên đi đến ni viện để biết được việc đã làm xong hoặc chưa làm xong. Do sự thường xuyên gặp gỡ, hai người đã sanh tâm quyến luyến. Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra trong khi không có được cơ hội để gần gũi thân mật với tỳ khưu ni Sundarīnandā nên đã làm bữa trai phạn dâng hội chúng tỳ khưu ni nhằm đạt được mục đích ấy. Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra trong khi xếp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn (nghĩ rằng): “Chừng này vị tỳ khưu ni là thâm niên hơn ni sư Sundarīnandā” rồi đã sắp xếp chỗ ngồi phía bên này, “Chừng này vị là non trẻ hơn” rồi đã sắp xếp chỗ ngồi ở phía bên kia, và đã sắp xếp chỗ ngồi cho tỳ khưu ni Sundarīnandā ở góc tường là nơi đã được che khuất. Như thế, các tỳ khưu ni trưởng lão có thể tin rằng: “Cô ta đang ngồi ở chỗ các tỳ khưu ni mới tu,” còn các tỳ khưu ni mới tu có thể tin rằng: “Cô ta đang ngồi ở chỗ các tỳ khưu ni trưởng lão.” Sau đó, Sāḷha cháu trai của Migāra đã cho người thông báo thời giờ đến hội chúng tỳ khưu ni rằng:
- Thưa các ni sư, đã đến giờ, bữa ăn đã chuẩn bị xong.
Tỳ khưu ni Sundarīnandā đã xét đoán ra rằng: “Sāḷha cháu trai của Migāra đã làm bữa trai phạn dâng hội chúng tỳ khưu ni không phải vì phước báu, anh ta có ý muốn gần gũi thân mật với ta; nếu ta đi thì ta sẽ bị mất thể diện!” nên đã bảo vị tỳ khưu ni học trò rằng:
- Hãy đi và mang về thức ăn cho ta. Và ai hỏi ta thì cho hay rằng: “Cô bị bệnh.”
- Thưa ni sư, xin vâng. Vị tỳ khưu ni ấy đã trả lời tỳ khưu ni Sundarīnandā.
Vào lúc bấy giờ, Sāḷha cháu trai của Migāra đứng ở bên ngoài cánh cổng ra vào hỏi han về tỳ khưu ni Sundarīnandā rằng:
- Thưa ni sư, ni sư Sundarīnandā ở đâu? Thưa ni sư, ni sư Sundarīnandā ở đâu?
Khi được nói như thế, vị tỳ khưu ni học trò của tỳ khưu ni Sundarīnandā đã nói với Sāḷha cháu trai của Migāra điều này:
- Này đạo hữu, (ni sư) bị bệnh. Tôi sẽ mang thức ăn về.
Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra (nghĩ rằng): “Sở dĩ ta đã làm bữa trai phạn dâng hội chúng tỳ khưu ni có nguyên nhân là ni sư Sundarīnandā” nên đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Hãy dâng bữa trai phạn đến hội chúng tỳ khưu ni,” nói xong đã đi đến tu viện của các tỳ khưu ni.
Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā đứng ở bên ngoài cổng ra vào của tu viện trông ngóng Sāḷha cháu trai của Migāra. Rồi tỳ khưu ni Sundarīnandā đã nhìn thấy Sāḷha cháu trai của Migāra từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã đi vào tu viện lấy thượng y trùm đầu lại rồi nằm xuống ở chiếc giường. Sau đó, Sāḷha cháu trai của Migāra đã đi đến gặp tỳ khưu ni Sundarīnandā, sau khi đến đã nói với tỳ khưu ni Sundarīnandā điều này:
- Thưa ni sư, có phải ni sư không được khoẻ? Sao lại nằm?
- Này đạo hữu, bởi vì điều ấy là như vậy! Là khi nàng thích chàng mà chàng lại không thích!
- Thưa ni sư, sao tôi lại không thích ni sư được? Ngặt là tôi không có được cơ hội để gần gũi thân mật với ni sư.
Rồi Sāḷha cháu trai của Migāra nhiễm dục vọng đã thực hiện việc xúc chạm cơ thể với tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ yếu đuối già cả bị bệnh ở bàn chân đang nằm không xa tỳ khưu ni Sundarīnandā. Vị tỳ khưu ni ấy đã thấy Sāḷha cháu trai của Migāra nhiễm dục vọng đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng, sau khi thấy mới phàn nàn phê phán chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?
Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy dã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu ấy phàn nàn phê phán chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn đối với tỳ khưu ni Sundarīnandā, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau đó, khi đã khiển trách tỳ khưu ni Sundarīnandā bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã chê trách về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hòa nhã, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những tỳ khưu ni ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu ni hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng ưng thuận sự sờ vào hoặc sự vuốt ve hoặc sự nắm lấy hoặc sự chạm vào hoặc sự ôm chặt từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên của người nam nhiễm dục vọng, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ sờ phần trên đầu gối.”
[2] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào có mối quan hệ như vầy, có giai cấp như vầy, có tên như vầy, có họ như vầy, có giới hạnh như vầy, có trú xứ như vầy, có hành xứ như vầy (yathāgocarā), là vị trưởng lão ni (trên mười năm tỳ khưu ni), mới tu (dưới năm năm), hoặc trung niên (trên năm năm); vị ni ấy được gọi là “vị ni nào.”
[3] Tỳ khưu ni: “Người nữ đi khất thực” là tỳ khưu ni. “Người nữ chấp nhận việc đi khất thực” là tỳ khưu ni. “Người nữ mặc y đã được cắt rời” là tỳ khưu ni. Là tỳ khưu ni do sự thừa nhận. Là tỳ khưu ni do tự mình xác nhận. Là tỳ khưu ni khi được (đức Phật) nói rằng: “Này tỳ khưu ni, hãy đi đến (ehi bhikkhunī).” “Người nữ đã tu lên bậc trên bằng Tam Quy” là tỳ khưu ni. “Người nữ hiền thiện” là tỳ khưu ni. “Người nữ có thực chất” là tỳ khưu ni. “Người nữ thánh hữu học” là tỳ khưu ni. “Người nữ thánh vô học” là tỳ khưu ni. “Người nữ đã được tu lên bậc trên bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư không sai sót, đáng được duy trì với cả hai hội chúng có sự hợp nhất” là tỳ khưu ni. Ở đây, vị tỳ khưu ni đã được tu lên bậc trên bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư không sai sót, đáng được duy trì với cả hai hội chúng có sự hợp nhất; vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Nữ) nhiễm dục vọng nghĩa là người nữ có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
(Nam) nhiễm dục vọng nghĩa là người nam có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng thực hiện việc xúc chạm cơ thể.
Từ xương đòn (ở cổ) trở xuống: là phía dưới xương đòn (ở cổ).
Từ đầu gối trở lên: là phía trên đầu gối.
Sự sờ vào nghĩa là việc được cọ xát vào.
Sự vuốt ve nghĩa là sự di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác.
Sự nắm lấy nghĩa là việc được nắm lấy.
Sự chạm vào nghĩa là việc được đụng vào.
Hoặc ưng thuận sự ôm chặt: sau khi nắm lấy phần thân thể rồi ưng thuận việc ôm chặt vào.
Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.[2]
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như người đàn ông bị chặt đứt đầu không thể sống bám víu vào thân thể ấy; tương tợ như thế, vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng ưng thuận sự sờ vào hoặc sự vuốt ve hoặc sự nắm lấy hoặc sự chạm vào hoặc sự ôm chặt từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên của người nam nhiễm dục vọngthì không còn là nữ sa-môn, không phải là Thích nữ; vì thế được gọi “là vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ni ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[3] Khi cả hai nhiễm dục vọng, (đối với đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên, vị[3]dùng thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội pārājika. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[4] (Đối với đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[5] Khi một bên nhiễm dục vọng,[4](đối với đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[6] (Đối với đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[7] Khi cả hai nhiễm dục vọng, đối với dạ-xoa nam hoặc ma nam hoặc thú đực, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên, thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[8] (Đối với đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[9] Khi một bên nhiễm dục vọng, (đối với đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[10] (Đối với đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[11] Không cố ý, vị ni thất niệm, vị ni không hay biết,[5]vị ni không ưng thuận, vị ni bị điên, vị ni có tâm bị rối loạn, vị ni bị thọ khổ hành hạ, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều pārājika thứ nhất.
*******
ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ NHÌ:
[12] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā đã mang thai do Sāḷha cháu trai của Migāra. Khi bào thai còn non tháng, cô ta đã che giấu. Khi bào thai đã được tròn tháng, cô ta đã hoàn tục và sanh con. Các tỳ khưu ni đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Này ni sư, Sundarīnandā hoàn tục không bao lâu đã sanh con. Chẳng lẽ cô ta đã mang thai ngay khi còn là tỳ khưu ni?
- Này các ni sư, đúng vậy.
- Này ni sư, vì sao cô biết vị tỳ khưu ni đã vi phạm tội pārājika lại không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm?
- Điều không đức hạnh nào của cô ấy, điều không đức hạnh ấy là của tôi. Điều ô danh nào của cô ấy, điều ô danh ấy là của tôi. Điều không vinh dự nào của cô ấy, điều không vinh dự ấy là của tôi. Điều thất lợi nào của cô ấy, điều thất lợi ấy là của tôi. Này các ni sư, tại sao tôi lại thông báo cho những người khác về điều không đức hạnh của bản thân, điều ô danh của bản thân, điều không vinh dự của bản thân, điều thất lợi của bản thân?
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā dầu biết vị tỳ khưu ni đã vi phạm tội pārājika lại không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy sau khi triệu tập hội chúng tỳ khưu lại đã thuyết Pháp thoại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā dầu biết vị tỳ khưu ni đã vi phạm tội pārājika vẫn không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā dầu biết vị tỳ khưu ni đã vi phạm tội pārājika vẫn không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin. ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào dầu biết vị tỳ khưu ni đã vi phạm tội pārājika vẫn không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm khi vị ni kia hãy còn tồn tại, hoặc bị chết đi, hoặc bị trục xuất, hoặc bỏ đi. Sau này, vị ni ấy nói như vầy: ‘Này các ni sư, chính trước đây tôi đã biết rõ tỳ khưu ni kia rằng:—Sư tỷ ấy là như thế và như thế—mà tôi không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm;’ vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ che giấu tội.”
[13] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là vị tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho cô ấy, hoặc cô kia thông báo.
Đã vi phạm tội pārājika: đã vi phạm một tội pārājika nào trong tám tội pārājika.
Không tự chính mình khiển trách: là không đích thân khiển trách.
Không thông báo cho nhóm: là không thông báo cho các tỳ khưu ni khác.
[14] Khi vị ni kia hãy còn tồn tại: còn tồn tại nghĩa là còn tồn tại trong hiện tướng (tỳ khưu ni) được đề cập đến.
Bị chết đi nghĩa là bị qua đời được đề cập đến.
Bị trục xuất nghĩa là tự mình hoàn tục hoặc bị trục xuất bởi các vị khác.
Bỏ đi nghĩa là chuyển sang sinh hoạt với tu sĩ ngoại đạo được đề cập đến.
[15] Sau này, vị ni ấy nói như vầy: “Này các ni sư, chính trước đây tôi đã biết rõ tỳ khưu ni kia rằng: ‘Sư tỷ ấy là như thế và như thế’ mà tôi không tự chính mình khiển trách”: Tôi không đích thân buộc tội.
(Tôi) không thông báo cho nhóm: Tôi không thông báo cho các tỳ khưu ni khác.
[16] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như chiếc lá vàng đã lìa khỏi cành không thể xanh trở lại; tương tợ như thế, vị tỳ khưu ni biết vị tỳ khưu ni đã vi phạm tội pārājika (nghĩ rằng): “Ta sẽ không tự chính mình khiển trách cũng sẽ không thông báo cho nhóm.” Khi trách nhiệm đã được buông bỏthì không còn là nữ sa-môn, không phải là Thích nữ; vì thế được gọi là “vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ni ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[17] Vị ni (nghĩ rằng): “Sẽ xảy ra sự xung đột, hoặc sự cãi cọ, hoặc sự tranh luận, hoặc sự tranh cãi đến hội chúng” rồi không thông báo, vị ni (nghĩ rằng): “Sẽ xảy ra sự chia rẽ hội chúng hoặc sự bất đồng trong hội chúng” rồi không thông báo, vị ni (nghĩ rằng): “Vị ni này hung bạo thô lỗ sẽ gây nguy hiểm đến mạng sống hoặc nguy hiểm đến Phạm hạnh” rồi không thông báo, trong khi không nhìn thấy các tỳ khưu ni thích hợp khác rồi không thông báo, vị ni không có ý định che giấu rồi không thông báo, vị ni (nghĩ rằng): “Sẽ được nhận biết do hành động của chính cô ấy” rồi không thông báo, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều pārājika thứ nhì.
*******
ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ BA:
[18] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (là vị) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (là vị) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (là vị) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (là vị) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào xu hướng theo vị tỳ khưu đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, vị tỳ khưu ấy đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Này ni sư, chớ có xu hướng theo vị tỳ khưu ấy.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ xu hướng theo kẻ bị phạt án treo.”
[19] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được thiết lập trong cùng ranh giới (sīmā).
Bị phạt án treo nghĩa là bị phạt án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
Theo Pháp, theo Luật: theo Pháp nào đó, theo Luật nào đó.
Theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư: theo lời giáo huấn của đức Phật, theo lời giáo huấn của đấng Chiến Thắng.
Không tôn trọng nghĩa là vị không tuân theo hội chúng hoặc (không tuân theo) cá nhân hoặc (không tuân theo) hành sự.
Không hối cải nghĩa là bị phạt án treo chưa được thu hồi.
Không thể hiện tình đồng đạo nghĩa là các tỳ khưu có sự đồng cộng trú giống nhau được gọi là các đồng đạo. Vị ấy không có điều ấy với các vị ấy, vì thế được gọi là “không thể hiện tình đồng đạo.”
Xu hướng theo vị ấy: vị ấy có quan điểm gì, có điều mong mỏi gì, có sự thích ý gì thì cô ni ấy cũng có quan điểm ấy, có điều mong mỏi ấy, có sự thích ý ấy.
[20] Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni xu hướng theo vị bị phạt án treo.
Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, vị tỳ khưu ấy đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Này ni sư, chớ có xu hướng theo vị tỳ khưu ấy.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, vị tỳ khưu ấy đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Này ni sư, chớ có xu hướng theo vị tỳ khưu ấy.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[21] Vị tỳ khưu ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu ni này tên (như vầy) xu hướng theo vị tỳ khưu đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu ni này tên (như vầy) xu hướng theo vị tỳ khưu đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[22] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya (trọng tội). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội pārājika.
[23] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như tảng đá lớn bị bể làm hai không thể gắn liền lại được; tương tợ như thế, vị tỳ khưu ni khi đang được nhắc nhở đến lần thứ ba vẫn không chịu từ bỏ thì không còn là nữ sa-môn, không phải là Thích nữ; vì thế được gọi “là vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ni ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[24] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pārājika.
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pārājika.
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pārājika.
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[25] Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều pārājika thứ ba.
*******
ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ TƯ:
[26] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư nhiễm dục vọng thích thú sự nắm lấy cánh tay của người nam nhiễm dục vọng, thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng (của người nam), đứng chung, trò chuyện, đi đến nơi hẹn hò, thích thú sự viếng thăm của người nam, đi vào nơi che khuất, kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy là nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy.[6]Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư nhiễm dục vọng lại thích thú sự nắm lấy cánh tay của người nam nhiễm dục vọng, thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng (của người nam), đứng chung, trò chuyện, đi đến nơi hẹn hò, thích thú sự viếng thăm của người nam, đi vào nơi che khuất, kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy là nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư nhiễm dục vọng thích thú sự nắm lấy cánh tay của người nam nhiễm dục vọng, thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng (của người nam), đứng chung, trò chuyện, đi đến nơi hẹn hò, thích thú sự viếng thăm của người nam, đi vào nơi che khuất, kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy là nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư nhiễm dục vọng lại thích thú sự nắm lấy cánh tay của người nam nhiễm dục vọng, thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng (của người nam), đứng chung, trò chuyện, đi đến nơi hẹn hò, thích thú sự viếng thăm của người nam, đi vào nơi che khuất, kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy là nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng thích thú sự nắm lấy cánh tay của người nam nhiễm dục vọng, hoặc thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng (của người nam), hoặc đứng chung, hoặc trò chuyện, hoặc đi đến nơi hẹn hò, hoặc thích thú sự viếng thăm của người nam, hoặc đi vào nơi che khuất, hoặc kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy là nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ liên quan tám sự việc.”
[27] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Nữ) nhiễm dục vọng nghĩa là người nữ có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
(Nam) nhiễm dục vọng nghĩa là người nam có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng thực hiện việc xúc chạm cơ thể.
Hoặc thích thú sự nắm lấy cánh tay: cánh tay nghĩa là tính từ cùi chỏ cho đến đầu móng tay. Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni thích thú sự nắm lấy từ xương đòn (ở cổ) trở lên và đầu gối trở xuống thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hoặc thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng: Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni thích thú sự nắm lấy hoặc tấm choàng dưới hoặc tấm choàng trên thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hoặc đứng chung: Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni đứng trong tầm tay[7]của người nam thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hoặc trò chuyện: Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni đứng trò chuyện trong tầm tay của người nam thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hoặc đi đến nơi hẹn hò: Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni đi đến địa điểm tên (như vầy) đã được người nam nói ra thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) theo mỗi bước đi, khi đã vào ở trong tầm tay của người nam thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hoặc thích thú sự viếng thăm của người nam: Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni thích thú sự viếng thăm của người nam thì phạm tội dukkaṭa (tác ác), khi đã vào ở trong tầm tay của người nam thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hoặc đi vào nơi che khuất: Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, khi đã vào trong chỗ được che kín bởi bất cứ vật gì thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Hoặc kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy: Nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni đứng trong tầm tay của người nam kề sát cơ thể thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[28] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như cây thốt nốt bị chặt ở ngọn không thể tăng trưởng được nữa; tương tợ như thế, vị tỳ khưu ni khi làm đủ tám sự việc thì không còn là nữ sa-môn, không phải là Thích nữ; vì thế được gọi “là vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ni ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”
[29] Không cố ý, vị ni thất niệm, vị ni không hay biết, vị ni không thích thú, vị ni bị điên, vị ni có tâm bị rối loạn, vị ni bị thọ khổ hành hạ, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều pārājika thứ tư.
*******
[30] Bạch chư đại đức ni, tám điều pārājika[8]đã được đọc tụng xong. Vị tỳ khưu ni vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì không có được sự cộng trú cùng với các tỳ khưu ni,[9]trước đây như thế nào thì sau này là như vậy; (vị ni ấy) là vị ni phạm tội pārājika không được cộng trú.
Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Pārājika.
*******
[1]Migāranattā: lúc đầu chúng tôi hiểu theo văn tự nghĩ rằng Sāḷha là cháu cố của bà Visākhā, nhưng ngài Buddhaghosa giải thích rằng chữ ở giữa đã bị bỏ bớt nên cần phải hiểu rằng: “Migāramātuyā pana nattā hoti” nghĩa là cháu trai (nội hoặc ngoại) của Migāramātā tức là bā Visākhā.
[2]Tính luôn các tỳ khưu ni đã vi phạm bốn điều pārājika của tỳ khưu nên gọi là các vị ni trước đây (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[3]Vấn đề vị tỳ khưu ni hay đối tượng nam là người tạo tác thật sự làm chúng tôi bối rối. Bản dịch của Cô I.B. Horner ghi rõ chính vị tỳ khưu ni là người thực hiện các hành động sờ vào, vuốt ve, v.v... ở trên cơ thể của phái nam. Chúng tôi đã xem xét kỹ đoạn [1, 2] về nhiều phương diện: văn phạm, ngữ cảnh, thành ngữ và xác định rằng các hành động trên là của phái nam. Như trong câu chuyện, tỳ khưu ni Sundarīnandā chỉ tiếp nhận và ưng thuận (sādiyati) hành động từ phía đối tượng thay vì thực hiện (samāpajjati), so sánh “purisapuggalassa kāyasaṃsaggaṃ” và “mātugāmena saddhiṃ kāyasaṃsaggaṃ,” và điều quy định cũng sử dụng từ sādiyeyya (đồng ý, chấp thuận, thích thú, ...); nếu vị tỳ khưu ni là người tạo tác, các động từ sẽ dùng phải là āmaseyya, parāmaseyya, ... Tuy nhiên đến phần [3] này, văn phạm không xác định rõ giới tính nam hay nữ trong câu văn là điều ít khi xảy ra đối với loại ngôn ngữ này. Ngài Buddhaghosa giải thích rằng vị tỳ khưu ni sờ vào thân người nam hay ưng thuận việc người nam sờ vào thân (của mình) cũng bị phạm tội tương đương tùy theo vị trí sờ vào ở trên thân thể. Như vậy, câu văn ở trên có thể hiểu theo hai cách. Và điều quy định này cần hiểu luôn cả 2 khía cạnh, vị tỳ khưu ni ưng thuận hành động của phái nam hoặc chính vị ni thực hiện các hành động trên. Chúng tôi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa nên dùng chữ “vị” và “(đối tượng),” quý độc giả nên hiểu theo cả hai cách.
[4]Ekato avassute: khi một bên đầy dục vọng. Cô I.B. Horner dịch rằng người thực hiện hành động là vị tỳ khưu ni. Về điểm này, văn phạm cũng không xác định rõ giới tính. Ngài Buddhaghosa giải thích như đã được ghi ở trên. Chúng tôi xin phân tích thêm như sau: Trường hợp vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng và chủ động thì phạm tội theo quy định; trường hợp người nam nhiễm dục vọng sờ vào cơ thể của vị tỳ khưu ni, nếu vị tỳ khưu ni không ưng thuận thì không phạm tội theo phần [11] ở bên dưới. Từ avassute được hiểu là danh tĩnh từ, trung tánh, định sở cách, số ít. (Ở phần [1,2] có thể nghĩ rằng vị tỳ khưu ni đóng vai trò thụ động, nhưng từ phần [3] trở đi tuy không xác định rõ ràng qua văn phạm nhưng việc vị tỳ khưu ni đóng vai trò chủ động được thể hiện qua ngữ cảnh; có lẽ đây là điểm để cô I.B. Horner xác định lối dịch của cô). Chúng tôi chọn lời giải thích của ngài Buddhaghosa vì bao quát được mọi tình huống có thể xảy ra trong trường hợp này
[5]Asatiyā: vị ni thất niệm nghĩa là tâm đang bận suy nghĩ việc khác, ajānantiyā: vị ni không biết đây là người nam hay người nữ (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[6]Theo ngài Buddhaghosa, điều không tốt đẹp là nói đến sự xúc chạm cơ thể (kāyasaṃsagga) chứ không phải sự thực hiện việc đôi lứa (methunadhamma).
[7]Hatthapāsa: tầm tay, có chiều dài vào khoảng 1,25 mét.
[8]Tỳ khưu ni phải thọ trì bốn điều pārājika đã được quy định cho tỳ khưu được gọi là điều quy định chung và bốn điều quy định riêng được trình bày ở đây; như thế, tổng cộng là 8 điều pārājika.
[9]Theo ngài Buddhaghosa, vị ấy không còn được tham dự các lễ Uposatha, Pavāraṇā, việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và các hành sự của hội chúng (saṅghakamma).
(SATTARASAKAṆḌAṂ)
Bạch chư đại đức ni, mười bảy điều saṅghādisesa (tăng tàng) này được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ NHẤT:
[31] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ sau khi dâng kho chứa đồ đạc đến hội chúng tỳ khưu ni rồi đã qua đời. Người ấy có hai người con trai: một người không có niềm tin và không mộ đạo, một người có niềm tin và mộ đạo. Họ đã chia đều tài sản thuộc về người cha. Khi ấy, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm tin và mộ đạo điều này:
- Cái kho chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.
Khi được nói như thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy đã nói với người không có niềm tin và không mộ đạo ấy điều này:
- Này anh, chớ nói như thế. cha chúng ta đã dâng đến hội chúng tỳ khưu ni rồi.
Đến lần thứ nhì, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm tin và mộ đạo điều này:
- Cái kho chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.
Khi được nói như thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy đã nói với người không có niềm tin và không mộ đạo ấy điều này:
- Này anh, chớ nói như thế. cha chúng ta đã dâng đến hội chúng tỳ khưu ni rồi.
Đến lần thứ ba, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm tin và mộ đạo điều này:
- Cái kho chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.
Khi được nói như thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy (nghĩ rằng): “Nếu thuộc về ta, ta cũng sẽ dâng đến hội chúng tỳ khưu ni” rồi đã nói với người không có niềm tin và không mộ đạo ấy điều này:
- Chúng ta hãy chia.
Khi ấy, cái kho chứa đồ đạc ấy, trong lúc được phân chia bởi những người ấy, đã thuộc về người không có niềm tin và không mộ đạo ấy. Sau đó, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã đi đến gặp hội chúng tỳ khưu ni và đã nói điều này:
- Thưa các ni sư, xin hãy đi ra. Kho chứa đồ đạc là của chúng tôi.
Khi được nói như thế, tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với người đàn ông ấy điều này:
- Này ông, chớ nói như thế. Cha các ông đã dâng đến hội chúng tỳ khưu ni rồi.
- Vật đã được dâng! Vật chưa được dâng!
Họ đã hỏi các vị quan đại thần lo việc xử án.
Các vị quan đại thần đã nói như vầy:
- Thưa ni sư, người nào biết là đã được dâng đến hội chúng tỳ khưu ni.
Khi được nói như thế, tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các vị quan đại thần ấy điều này:
- Thưa các ngài, ngay cả các ngài cũng đã được thấy hoặc đã được nghe sau khi xác định tận mắt và trong khi vật thí đang được dâng cúng mà.
Khi ấy, các vị quan đại thần ấy (nói rằng):
- Ni sư đã nói đúng sự thật.
Rồi đã xử hội chúng tỳ khưu ni được kho chứa đồ đạc ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy bị thua cuộc nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Những bà cạo đầu khả ố này không phải là các nữ sa-môn, tại sao các bà lại cho (người) cướp đoạt kho chứa đồ đạc của chúng tôi?
Tỳ khưu ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các vị quan đại thần. Các vị quan đại thần đã ra lệnh đánh đòn người đàn ông ấy. Sau đó, người đàn ông ấy bị đánh đòn nên đã bảo xây dựng chỗ ngụ cho các đạo sĩ lõa thể ở nơi không xa tu viện của các tỳ khưu ni rồi đã xúi giục các đạo sĩ lõa thể rằng:
- Hãy lăng mạ các tỳ khưu ni ấy.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các vị quan đại thần. Các vị quan đại thần đã ra lệnh giam giữ người đàn ông ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lần đầu làm cho (người ta) bị cướp đoạt kho chứa đồ đạc, đến lần thứ nhì làm cho bị đánh đập, đến lần thứ ba làm cho bị giam giữ, bây giờ sẽ làm cho chết?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại sống làm người thưa kiện?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sống làm người thưa kiện, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại sống làm người thưa kiện vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sống làm người thưa kiện với nam gia chủ, hoặc với con trai của nam gia chủ, hoặc với người nô tỳ, hoặc với người làm công, hoặc ngay cả với sa-môn du sĩ, vị tỳ khưu ni này phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng.”
[32] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người thưa kiện nghĩa là người gây ra vụ xử án được đề cập đến.
Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Con trai của gia chủ nghĩa là bất cứ những người nào là con trai hoặc anh em trai.
Người nô tỳ nghĩa là được bẩm sanh (antojāto), được mua bằng của cải, bị bắt đi làm công việc.
Người làm công nghĩa là người làm thuê, người khuân vác.
Sa-môn du sĩ nghĩa là bất cứ người nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ thưa kiện” rồi tìm kiếm người thứ hai hoặc (đích thân) đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Nói với người thứ nhất thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Nói với người thứ nhì thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Khi kết thúc vụ xử án thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[33] Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): Chỉ có hội chúng–không phải một số tỳ khưu ni, không phải một tỳ khưu ni–ban cho hành phạt mānatta của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, cho giải tội; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[34] Vị ni đi trong khi bị những người khác lôi kéo đi, vị ni yêu cầu sự bảo vệ, vị ni nói ra không nêu rõ (người nào), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
********
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ NHÌ:
[35] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở thành Vesālī cô vợ của một người dòng dõi Licchavi nọ ngoại tình. Khi ấy, người Licchavi ấy đã nói với người đàn bà ấy điều này:
- Tốt hơn cô hãy chừa. Tôi sẽ làm điều thất lợi cho cô.
Mặc dầu được nói như thế, cô ta đã không lưu tâm đến. Vào lúc bấy giờ, nhóm người Licchavi tụ họp lại ở Vesālī vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, người Licchavi ấy đã nói với những người Licchavi ấy điều này:
- Thưa quý vị, quý vị hãy cho phép tôi đối với một người đàn bà.
- Cô ấy tên là gì?
- Vợ của tôi ngoại tình. Tôi sẽ giết cô ta.
- Ngươi tự biết lấy.
Người đàn bà ấy đã nghe được rằng: “Nghe nói chồng có ý định giết ta” rồi đã lấy đồ đạc quý giá đi đến thành Sāvatthi gặp các tu sĩ ngoại đạo và đã cầu xin sự xuất gia. Các tu sĩ ngoại đạo đã không chịu cho xuất gia. Cô ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu ni cũng đã không chịu cho xuất gia. Cô ấy đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā đưa cho xem gói đồ đạc rồi cầu xin sự xuất gia. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nhận lấy gói đồ đạc rồi đã cho xuất gia.
Khi ấy, người Licchavi ấy trong lúc tìm kiếm người đàn bà ấy đã đi đến thành Sāvatthi. Sau khi thấy (cô ấy) đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni liền đi đến gặp đức vua Pasenadi xứ Kosala, sau khi đến đã nói với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này:
- Tâu bệ hạ, vợ của thần đã lấy đi đồ đạc quý giá và đã đến thành Sāvatthi. Xin bệ hạ hãy cho phép thần đối với cô ấy.
- Này khanh, nếu thế thì hãy tìm kiếm rồi trình báo.
- Tâu bệ hạ, đã tìm thấy. Cô ta đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni.
- Này khanh, nếu đã được xuất gia nơi các tỳ khưu ni thì không được phép làm gì cô ta cả. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để cô ta thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Khi ấy, người Licchavi ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại cho nữ tặc xuất gia?
Các tỳ khưu ni đã nghe được người Licchavi ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cho nữ tặc xuất gia?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cho nữ tặc xuất gia, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cho nữ tặc xuất gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào biết được nữ đạo tặc có tội tử hình được loan báo mà vẫn nhận vào cho tu khi chưa xin phép đức vua, hoặc hội chúng, hoặc nhóm, hoặc phường hội, hoặc phường thợ, ngoại trừ có sự được phép; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[36] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là vị tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho cô ấy, hoặc cô kia thông báo.
Nữ đạo tặc nghĩa là cô nào lấy đi theo lối trộm cắp vật không được cho trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka; cô ấy gọi là nữ đạo tặc.
Có tội tử hình nghĩa là sau khi thực hiện việc khiến cho cô ta đáng tội tử hình.
Được loan báo nghĩa là những người khác biết (về cô ta) rằng: “Cô này đáng tội tử hình.”
Khi chưa xin phép: do chưa hỏi.
Đức vua nghĩa là nơi nào đức vua cai quản thì nên xin phép đức vua.
Hội chúng nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến. Nên xin phép hội chúng tỳ khưu ni.
Nhóm nghĩa là nơi nào nhóm cai quản thì nên xin phép nhóm.
Phường hội nghĩa là nơi nào phường hội cai quản thì nên xin phép phường hội.
Cộng đồng nghĩa là nơi nào cộng đồng cai quản thì nên xin phép cộng đồng.
Ngoại trừ có sự được phép: trừ ra sự được phép.
Sự được phép nghĩa là có hai sự được phép: đã được xuất gia nơi các tu sĩ ngoại đạo hoặc là đã được xuất gia nơi các tỳ khưu ni khác. Ngoại trừ có sự được phép, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhận vào cho tu” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya (trọng tội). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, thầy tế độ phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[37] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[38] Nữ đạo tặc, nhận biết là nữ đạo tặc, vị ni nhận vào cho tu thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) ngoại trừ có sự được phép.
Nữ đạo tặc, có sự hoài nghi, vị ni nhận vào cho tu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ có sự được phép.
Nữ đạo tặc, (lầm) tưởng không phải là nữ đạo tặc, vị ni nhận vào cho tu thì vô tội ngoại trừ có sự được phép.
Không phải là nữ đạo tặc, (lầm) tưởng là nữ đạo tặc, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là nữ đạo tặc, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là nữ đạo tặc, nhận biết không phải là nữ đạo tặc thì vô tội.
[39] Vị ni không biết rồi nhận vào cho tu, sau khi xin phép rồi nhận vào cho tu, nhận vào cho tu người đã được phép, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ BA:
[40] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī [1]sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni đã đi đến gia đình thân quyến ở trong thôn. Bhaddā Kāpilānī không nhìn thấy vị tỳ khưu ni ấy nên đã hỏi các tỳ khưu ni rằng:
- Ni tên (như vầy) đâu rồi, không có thấy?
- Thưa ni sư, sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni thì không được thấy.
- Này các cô, hãy đi đến gia đình thân quyến này ở thôn kia rồi tìm kiếm ở nơi đó.
Các tỳ khưu ni sau khi đi đến nơi ấy đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni ấy và đã nói điều này:
- Này ni sư, sao cô lại đi mỗi một mình? Chắc hẳn cô không bị xâm phạm?
- Này các ni sư, tôi không bị xâm phạm.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại đi vào trong làng một mình?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni đi vào trong làng một mình, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại đi vào trong làng một mình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[41] Vào lúc bấy giờ, có hai tỳ khưu ni đang đi đường xa từ Sāketa đến thành Sāvatthi. Giữa đường đi có con sông cần phải băng qua. Khi ấy, hai tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các người chèo đò và đã nói điều này:
- Này đạo hữu, tốt thay hãy đưa chúng tôi sang.
- Thưa các ni sư, không thể đưa sang cả hai người cùng một lần.
Một người (chèo đò) đã đưa một (vị tỳ khưu ni) sang. Người đưa sang đã làm nhơ vị ni được đưa sang. Người không đưa sang đã làm nhơ vị ni chưa được đưa sang. Hai cô ni ấy sau khi gặp lại nhau đã hỏi rằng:
- Này ni sư, chắc hẳn cô không bị xâm phạm?
- Này ni sư, tôi đã bị xâm phạm. Này ni sư, còn cô chắc không bị xâm phạm?
- Này ni sư, tôi đã bị xâm phạm.
Sau đó, hai tỳ khưu ni ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại đi sang bờ bên kia sông một mình?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni đi sang bờ bên kia sông một mình, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại đi sang bờ bên kia sông một mình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[42] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ni trong khi đang đi đến thành Sāvatthi thuộc xứ Kosala lúc tối trời đã ghé vào ngôi làng nọ. Trong số đó, có vị tỳ khưu ni đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Có người đàn ông nọ đã sanh lòng say đắm với hình dáng của vị tỳ khưu ni ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy trong khi sắp xếp chỗ ngủ cho các tỳ khưu ni ấy đã sắp xếp chỗ ngủ của vị tỳ khưu ni ấy ở một bên. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã xét đoán ra rằng: “Người đàn ông này đã bị ám ảnh rồi. Nếu trong đêm tối hắn ta đến thì ta sẽ bị mất thể diện” nên đã đi đến gia đình khác nữa rồi nằm ngủ (ở đó), không thông báo cho các tỳ khưu ni. Sau đó trong đêm tối, người đàn ông ấy đã đi đến và trong khi tìm kiếm vị tỳ khưu ni ấy đã chạm vào các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni trong lúc không nhìn thấy vị tỳ khưu ni ấy đã nói như vầy:
- Chắc chắn là vị tỳ khưu ni ấy đã đi ra ngoài với người đàn ông.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy vị tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ni ấy. Các tỳ khưu ni đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, vì sao cô đã đi ra ngoài với người đàn ông?
- Này các ni sư, tôi đã không đi ra ngoài với người đàn ông.
Và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni ban đêm lại trú ngụ riêng một mình?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni ban đêm trú ngụ riêng một mình, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni ban đêm lại trú ngụ riêng một mình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình, hoặc ban đêm trú ngụ riêng một mình; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[43] Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni đang đi đường xa đến thành Sāvatthi trong xứ Kosala. Tại nơi ấy, có vị tỳ khưu ni nọ bị khó chịu vì việc đại tiện nên tách rời ra mỗi một mình rồi đã đi ở phía sau. Nhiều người đã nhìn thấy và đã làm nhơ vị tỳ khưu ni ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ni ấy. Các tỳ khưu ni đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, vì sao cô mỗi một mình lại tách rời ra khỏi nhóm vậy? Chắc hẳn cô đã không bị xâm phạm?
- Này các ni sư, tôi đã bị xâm phạm.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu ni một mình lại tách rời ra khỏi nhóm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni một mình tách rời ra khỏi nhóm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao vị tỳ khưu ni một mình lại tách rời ra khỏi nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình, hoặc ban đêm trú ngụ riêng một mình, hoặc một mình tách rời ra khỏi nhóm; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[44] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hoặc đi vào trong làng một mình: vị ni trong khi vượt qua hàng rào của ngôi làng được rào lại bước thứ nhất thì phạm tội thullaccaya (trọng tội), trong khi vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Vị ni trong khi vượt qua vùng phụ cận của ngôi làng không được rào lại bước thứ nhất thì phạm tội thullaccaya (trọng tội), trong khi vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình: Sông nghĩa là bất cứ ở nơi đâu làm ướt y nội của vị tỳ khưu ni, (được quấn) che khuất cả ba vòng,[2]trong lúc (vị ni ấy) lội qua nơi ấy. Vị ni trong khi vượt qua bước thứ nhất thì phạm tội thullaccaya (trọng tội), trong khi vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hoặc ban đêm trú ngụ riêng một mình: lúc mặt trời mọc lên, trong khi lìa khỏi tầm tay của vị tỳ khưu ni thứ hai thì phạm tội thullaccaya (trọng tội), khi đã lìa khỏi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hoặc một mình tách rời ra khỏi nhóm: không phải ở trong làng, ở trong rừng, vị ni trong khi lìa khỏi tầm nhìn hoặc tầm nghe của vị tỳ khưu ni thứ nhì thì phạm tội thullaccaya (trọng tội), khi đã lìa khỏi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[45] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[46] Trong lúc vị tỳ khưu ni thứ nhì bỏ đi hoặc hoàn tục hoặc qua đời hoặc chuyển sang phe khác, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ TƯ:
[47] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī là vị ni thường gây nên các sự xung đột, gây nên các sự cãi cọ, gây nên các sự tranh luận, gây nên các sự nói chuyện nhảm nhí, và gây nên các sự tranh tụng trong hội chúng. Trong lúc hành sự đang được tiến hành cho vị ni ấy, tỳ khưu ni Thullanandā đã phản đối. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vào làng vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vắng” nên đã phạt án treo tỳ khưu ni Caṇḍakālī trong việc không nhìn nhận tội. Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong làng đã quay trở về thành Sāvatthi. Trong khi tỳ khưu ni Thullanandā đi về, tỳ khưu ni Caṇḍakālī đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Caṇḍakālī điều này:
- Này cô ni, vì sao trong khi tôi đi về, cô đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống vậy?
- Thưa ni sư, bởi vì sự việc này là như vậy giống như là người không được sự quan tâm.
- Này cô ni, vì sao cô lại không được sự quan tâm?
- Thưa ni sư, các tỳ khưu ni này (nói rằng): “Cô này không được sự quan tâm lại ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối” rồi đã phạt án treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.
Tỳ khưu ni Thullanandā (nói rằng): “Những cô ấy thì ngu dốt! Những cô ấy không kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta mới biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta có thể thực hiện hành sự chưa được thực hiện hoặc có thể hủy bỏ hành sự đã được thực hiện” rồi đã triệu tập hội chúng tỳ khưu ni một cách vô cùng nhanh chóng và đã phục hồi cho tỳ khưu ni Caṇḍakālī.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[48] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được thiết lập trong cùng ranh giới (sīmā).
Bị phạt án treo nghĩa là bị phạt án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
Theo Pháp, theo Luật: theo Pháp nào đó, theo Luật nào đó.
Theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư: theo lời giáo huấn của đức Phật, theo lời giáo huấn của đấng Chiến Thắng.
Khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự: khi chưa hỏi hội chúng đã làm hành sự.
Không quan tâm đến ước muốn của nhóm:không biết đến ước muốn của nhóm.(Nghĩ rằng): “Ta sẽ phục hồi” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni) hoặc chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya (trọng tội). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[49] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[50] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni phục hồi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni phục hồi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni phục hồi thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[51] Vị ni phục hồi sau khi đã xin phép hội chúng thực hiện hành sự, phục hồi sau khi đã quan tâm đến ước muốn của nhóm, phục hồi vị ni đang thực hành các phận sự, phục hồi khi hội chúng thực hiện hành sự không còn tồn tại, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ NĂM:
[52] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Nhiều người, sau khi nhìn thấy tỳ khưu ni Sundarīnandā ở trong nhà ăn, bị nhiễm dục vọng rồi dâng đến tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng các thức ăn thượng hảo hạng. Tỳ khưu ni Sundarīnandā thọ thực được như ý thích. Các tỳ khưu ni khác không nhận lãnh được như ý. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại tự tay thọ nhận vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai và ăn?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng tự tay thọ nhận vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai và ăn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại tự tay thọ nhận vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai và ăn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng tự tay thọ nhận vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai hoặc ăn; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[53] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Nữ) nhiễm dục vọng nghĩa là người nữ có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
(Nam) nhiễm dục vọng nghĩa là người nam có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng bị dục chiếm ngự.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực (mềm), nước và tăm xỉa răng, phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[54] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[55] Khi một bên nhiễm dục vọng, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi cả hai nhiễm dục vọng, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận từ tay của dạ-xoa nam hoặc ma nam hoặc người nam vô căn hoặc loài thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi một bên nhiễm dục vọng, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[56] Cả hai không nhiễm dục vọng, vị ni biết rằng: “(Người đàn ông này) không nhiễm dục vọng” rồi thọ nhận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ SÁU:
[57] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Nhiều người, sau khi nhìn thấy tỳ khưu ni Sundarīnandā ở trong nhà ăn, bị nhiễm dục vọng rồi dâng đến tỳ khưu ni Sundarīnandā các thức ăn thượng hảo hạng. Tỳ khưu ni Sundarīnandā trong lúc ngần ngại nên không thọ nhận. Vị tỳ khưu ni đứng kế đã nói với tỳ khưu ni Sundarīnandā điều này:
- Này ni sư, vì sao ni sư lại không thọ nhận?
- Này ni sư, (những người đàn ông này) nhiễm dục vọng.
- Này ni sư, ni sư mới nhiễm dục vọng.
- Này ni sư, tôi không nhiễm dục vọng.
- Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu ni lại nói như vầy: “Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi”?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni nói như vầy: “Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao vị tỳ khưu ni lại nói như vầy: “Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi”? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nói như vầy: ‘Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi;’ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[58] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nói như vầy: Vị ni xúi giục rằng: “Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần (vị ni kia) nuốt xuống thì (vị ni xúi giục) phạm tội thullaccaya (trọng tội). Khi chấm dứt bữa ăn thì (vị ni xúi giục) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
Vị ni xúi giục rằng: “Hãy thọ nhận nước và tăm xỉa răng” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[59] Khi một bên nhiễm dục vọng, (trường hợp) vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của dạ-xoa nam hoặc ma nam hoặc người nam vô căn hoặc loài thú đực dạng người, vị ni xúi giục rằng: “Hãy nhai hoặc ăn đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần (vị ni kia) nuốt xuống thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt bữa ăn thì (vị ni xúi giục) phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vị ni xúi giục rằng: “Hãy thọ nhận nước và tăm xỉa răng” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[60] Vị ni biết rằng: “(Người đàn ông này) không nhiễm dục vọng” rồi xúi giục, vị ni (nghĩ rằng): “Cô ta (sẽ) nổi giận và không thọ nhận” rồi xúi giục, vị ni (nghĩ rằng): “Cô ta (sẽ) không thọ nhận vì lòng thương hại đến gia đình” rồi xúi giục, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ BẢY:
[61] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni đã nổi giận, bất bình rồi nói như vầy:
- Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng (Saṅgha), tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī khi nổi giận, bất bình lại nói như vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy”?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī khi nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī khi nổi giận, bất bình lại nói như vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy”? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[62] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nổi giận, bất bình:không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.
Nói như vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.”
[63] Vị tỳ khưu ni ấy: vị tỳ khưu ni nào nói như thế ấy.
Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[64] Vị tỳ khưu ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[65] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya (trọng tội). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.
[66] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[67] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[68] Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ TÁM:
[69] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy:
- Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi”?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi”? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[70] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong cuộc tranh tụng nào đó: Tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Bị xử thua nghĩa là bị thất bại được đề cập đến.
Nổi giận, bất bình:không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.
Nói như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.”
[71] Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni nói như thế ấy.
Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[72] Vị tỳ khưu ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[73] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya (trọng tội). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng), thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.
[74] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[75] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[76] Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂ NG TÀNG) THỨ CHÍN:
[77] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni học trò của tỳ khưu ni Thullanandā sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Hơn nữa, các tỳ khưu ni sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Các tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà các tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, các tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ các vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[78] Hơn nữa, các tỳ khưu ni: là các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.
Sống thân cận (với thế tục): sống thân cận bằng (hành động thuộc về) thân và khẩu không đúng đắn.
Có hạnh kiểm xấu xa: được hội đủ sở hành xấu xa.
Có tiếng đồn xấu xa: được lan rộng bởi lời đồn đãi về tiếng tăm xấu xa.
Có sự nuôi mạng xấu xa: các vị duy trì sự sống bằng việc nuôi mạng sai trái xấu xa.
Là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni: các vị phản đối trong khi hành sự đang được thực hiện cho từng vị.
Là những người che giấu tội lẫn nhau: các vị là những người che giấu tội qua lại cho nhau.
[79] Các tỳ khưu ni ấy: là các vị tỳ khưu ni sống thân cận.
Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Các tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[80] Các tỳ khưu ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Các vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Các vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[81] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya (trọng tội) . Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng), thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực. Hai ba vị ni nên được nhắc nhở chung (một lượt), không nên nhắc nhở nhiều hơn số lượng ấy.
[82] Các tỳ khưu ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: các vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[83] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, các vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, các vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, các vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[84] Các vị ni chưa được nhắc nhở, các vị ni dứt bỏ, các vị ni bị điên, các vị ni có tâm bị rối loạn, các vị ni bị thọ khổ hành hạ, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ MƯỜI:
[85] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā bị hội chúng cùng nhau khiển trách nên nói với các tỳ khưu ni như vầy:
- Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.”
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā khi được hội chúng cùng nhau khiển trách lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ?”
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā bị hội chúng cùng nhau khiển trách nên nói với các tỳ khưu ni như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi được hội chúng cùng nhau khiển trách lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ”? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, chớ nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng.”
[86] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nói như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng (đã nói) ...
Với sự không tôn trọng: với sự khinh khi.
Với sự xem thường: với sự chê bai.
Không lòng nhẫn nại: với sự nóng giận.
Theo lối nói tầm phào: việc nói tầm phào đã được thực hiện.
Có tính chất yếu nhược : có tính chất không phe nhóm.
(Hội chúng) đã nói như vầy: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.”
Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni nói như thế ấy.
Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, chớ nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, chớ nói như vầy: Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[87] Tỳ khưu ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi được hội chúng cùng nhau khiển trách lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: ‘Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi được hội chúng cùng nhau khiển trách lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[88] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya (trọng tội). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng), thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.
[82] Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.
Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): Chỉ có hội chúng–không phải một số vị, không phải một cá nhân–ban cho hành phạt mānatta của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, cho giải tội; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[90] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[91] Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
[92] Bạch chư đại đức ni, mười bảy điều saṅghādisesa (tăng tàng)[3]đã được đọc tụng xong, chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, tám điều (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba. Vị tỳ khưu ni vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì vị tỳ khưu ni ấy nên thực hành nửa tháng mānatta nơi có cả hai hội chúng. Vị tỳ khưu ni có hành phạt mānatta đã được hoàn tất thì vị tỳ khưu ni ấy nên được giải tội tại nơi nào có hội chúng tỳ khưu ni nhóm hai mươi vị. Nếu hội chúng tỳ khưu ni nhóm hai mươi vị chỉ thiếu đi một mà giải tội cho vị tỳ khưu ni ấy thì vị tỳ khưu ni ấy chưa được giải tội và các tỳ khưu ni ấy bị khiển trách. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.
Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Mười Bảy Pháp.
*******
[1]Không rõ lý do vì sao các vị kết tập Tam Tạng không dùng danh hiệu “tỳ khưu ni” cho vị ni này.
[2]Timaṇḍalaṃ: ba vòng nghĩa là vòng bụng ở rốn và hai vòng ở đầu gối.
[3]Ngài Buddhaghosa giải thích về 17 điều saṅghādisesa (tăng tàng) như sau: Phần phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm gồm có điều 5 (mai mối), 8 và 9 (hai điều về vu cáo) ở giới bổn của tỳ khưu và 6 điều ở đây. Phần phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba gồm 4 điều từ 10-13 ở giới bổn của tỳ khưu và 4 điều ở đây. Tổng cọng là 17 điều.
Bạch chư đại đức ni, ba mươi điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) này
được đưa ra đọc tụng.
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[93] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ nhiều bình bát. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc tích trữ nhiều bình bát? Không lẽ các tỳ khưu ni sẽ làm việc buôn bán bình bát hay sẽ lập nên gian hàng gốm sứ?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại thực hiện việc tích trữ bình bát?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ bình bát, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại thực hiện việc tích trữ bình bát vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào thực hiện việc tích trữ bình bát thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” [1]
[94] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bình bát nghĩa là có hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất. Bình bát có ba dạng: bình bát cỡ lớn, bình bát cỡ vừa, bình bát cỡ nhỏ. Bình bát cỡ lớn nghĩa là chứa được một nửa āḷhaka cơm,[2]một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ vừa nghĩa là chứa được một nāḷika cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ nhỏ nghĩa là chứa được một pattha[3]cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Lớn hơn các cỡ ấy không phải là bình bát, nhỏ hơn không phải là bình bát.
Thực hiện việc tích trữ: (bình bát) chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.
Nên được xả bỏ: Khi mặt trời mọc thì phạm vào nissaggiya, (bình bát ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy:
[95] Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch chư ni sư, bình bát này của tôi đã qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực. Bình bát đã xả bỏ nên được cho lại.
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về tỳ khưu ni tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại bình bát này đến tỳ khưu ni tên (như vầy).”
[96] Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến nhiều tỳ khưu ni, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Thưa các đại đức ni, bình bát này của tôi đã qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đại đức ni.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực. Bình bát đã xả bỏ nên được cho lại.
“Xin các đại đức ni hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về tỳ khưu ni tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến các đại đức ni. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức ni, các đại đức ni nên cho lại bình bát này đến tỳ khưu ni tên (như vầy).”
[97] Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu ni, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Thưa ni sư, bình bát này của tôi đã qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến đại đức ni.
Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni ấy. Bình bát đã xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại ni sư bình bát này.”
[98] Khi đã qua đêm, nhận biết là đã qua đêm, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi đã qua đêm, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi đã qua đêm, (lầm) tưởng là chưa qua đêm, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi chưa chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi chưa chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi không bị vỡ, (lầm) tưởng là đã bị vỡ, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
[99] Bình bát là vật vi phạm nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa qua đêm, (lầm) tưởng là đã qua đêm, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa qua đêm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa qua đêm, nhận biết là chưa qua đêm thì vô tội.
[100] Trong lúc rạng đông, vị ni chú nguyện để dùng riêng, vị ni chú nguyện để dùng chung, vị ni phân phát, (bình bát) bị mất trộm, (bình bát) bị hư hỏng, (bình bát) bị vỡ, (các người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy đi do sự thân thiết, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[101] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư không cho lại bình bát đã được xả bỏ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên không cho lại bình bát đã được xả bỏ; vị ni nào không cho lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[102] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu ni, khi trải qua mùa (an cư) mưa ở trú xứ là thôn làng, đã đi đến thành Sāvatthi. Các vị ni ấy có đầy đủ các pháp thực hành, đầy đủ oai nghi, (nhưng) mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu. Các cư sĩ sau khi nhìn thấy các tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Các tỳ khưu ni này có đầy đủ các pháp thực hành, đầy đủ oai nghi, (nhưng) mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu. Các tỳ khưu ni này sẽ bị rách rưới” rồi đã dâng y ngoài hạn kỳ đến hội chúng tỳ khưu ni. Tỳ khưu ni Thullanandā đã xác định rằng:
- Kaṭhina của chúng tôi đã được thành tựu, (vậy là) y trong thời hạn.
Rồi đã bảo phân chia. Các cư sĩ sau khi nhìn thấy các tỳ khưu ni ấy đã nói điều này:
- Có phải các ni sư cũng đã lãnh được y?
- Này các đạo hữu, chúng tôi không được lãnh y. Ni sư Thullanandā đã xác định rằng: “Kaṭhina của chúng tôi đã được thành tựu, (vậy là) y trong thời hạn,” rồi đã bảo phân chia.
Các cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ni sư Thullanandā lại xác định y ngoài hạn kỳ là: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia?
Các tỳ khưu ni đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại xác định y ngoài hạn kỳ là: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình lại sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā xác định y ngoài hạn kỳ là: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại xác định y ngoài hạn kỳ là: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào xác định y ngoài hạn kỳ là: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[103] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Y ngoài hạn kỳ nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì được phát sanh trong mười một tháng, khi Kaṭhina được thành tựu thì được phát sanh trong bảy tháng; (y) được dâng xác định trong thời gian trên thì (y) ấy gọi là y ngoài hạn kỳ. Vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia, khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, y này của tôi đã được bảo chia phần sau khi xác định y ngoài hạn kỳ là “Y trong thời hạn,” giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[104] Y ngoài hạn kỳ, nhận biết là y ngoài hạn kỳ, vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Y ngoài hạn kỳ, có sự hoài nghi, vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Y ngoài hạn kỳ, (lầm) tưởng là y trong thời hạn, vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Y trong thời hạn, (lầm) tưởng là y ngoài hạn kỳ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Y trong thời hạn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Y trong thời hạn, nhận biết là y trong thời hạn thì vô tội.
[105] Đối với y ngoài hạn kỳ vị ni nhận biết là y ngoài hạn kỳ rồi bảo phân chia, đối với y trong thời hạn vị ni nhận biết là y trong thời hạn rồi bảo phân chia, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[106] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với vị tỳ khưu ni nọ rồi đã sử dụng. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã xếp y ấy lại rồi để riêng. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, cái y đã được tôi trao đổi với cô đâu rồi?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã đem y ấy lại và đưa cho tỳ khưu ni Thullanandā thấy. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, hãy nhận lại y của cô đi. Y này là của tôi. Y nào của cô là của chính cô, y nào của tôi là của chính tôi. Hãy đưa đây, y này là của tôi. Hãy mang đi y của mình.
Rồi đã giật lại. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi trao đổi y với tỳ khưu ni rồi giật lại?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình lại sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với vị tỳ khưu ni rồi giật lại, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với tỳ khưu ni rồi giật lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi đã trao đổi y với tỳ khưu ni sau đó lại nói như vầy: ‘Này ni sư, hãy nhận lấy y của cô. Y này là của tôi. Y nào của cô là của chính cô, y nào của tôi là của chính tôi. Hãy đưa đây, y này là của tôi. Hãy mang đi y của mình’ rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[107] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Với vị tỳ khưu ni: với vị tỳ khưu ni khác.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y[4](có kích thước) tối thiểu[5]cần phải chú nguyện để dùng chung.
Khi đã trao đổi: sau khi trao đổi (y) lớn bằng (y) nhỏ hoặc là (y) nhỏ bằng (y) lớn.
Giật lại: vị ni tự mình giật lại thì phạm vào nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Bảo giật lại: vị ni ra lệnh người khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, (vị nghe lệnh) giật lại nhiều lần thì phạm (chỉ một) nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, y này của tôi sau khi trao đổi với tỳ khưu ni rồi đã giật lại, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[108] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vị ni trao đổi vật dụng khác rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni trao đổi y hoặc vật dụng khác với người nữ chưa tu lên bậc trên rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[109] Vị ni kia cho, hoặc vị ni lấy đi trong khi có sự thân thiết với vị ni kia, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[110] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā bị bệnh. Khi ấy, có nam cư sĩ nọ đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, có phải ni sư không được khoẻ? Vật gì cần được mang lại?
- Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về bơ lỏng.
Sau đó, nam cư sĩ ấy đã mang lại một đồng kahāpaṇa bơ lỏng từ nhà của chủ tiệm buôn nọ rồi dâng cho tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói như vầy:
- Này đạo hữu, tôi không có nhu cầu về bơ lỏng. Tôi có nhu cầu về dầu ăn.
Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp người chủ tiệm buôn ấy, sau khi đến đã nói với người chủ tiệm buôn ấy điều này:
- Này ông, nghe nói ni sư không có nhu cầu về bơ lỏng mà có nhu cầu về dầu ăn. Hãy nhận lấy bơ lỏng của ông và hãy cho tôi dầu ăn.
- Này ông, nếu chúng tôi nhận lại hàng hóa đã được bán ra thì khi nào hàng hoá của chúng tôi mới bán ra được? Với việc mua bơ lỏng thì bơ lỏng đã được mang đi. Ông hãy mang đến phần mua của dầu ăn rồi dầu ăn sẽ được mang đi.[6]
Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ni sư Thullanandā sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa?
Các tỳ khưu ni đã nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình lại sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa thì (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[111] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Sau khi yêu cầu vật khác: sau khi yêu cầu bất cứ vật gì.
Lại yêu cầu vật khác nữa: vị ni yêu cầu vật khác trừ ra vật ấy. Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, vật này của tôi là vật khác nữa đã được yêu cầu sau khi đã yêu cầu vật khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[112] Vật ấy, nhận biết là vật ấy, vị ni yêu cầu vật khác thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vật ấy, có sự hoài nghi, vị ni yêu cầu vật khác thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vật ấy, (lầm) tưởng không phải là vật ấy, vị ni yêu cầu vật khác thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là vật ấy, (lầm) tưởng là vật ấy, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vật ấy, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vật ấy, nhận biết không phải là vật ấy thì vô tội.
[113] Vị ni yêu cầu thêm chính vật ấy, vị ni (nhận vật ấy rồi) yêu cầu thêm vật khác, sau khi cho thấy sự lợi ích rồi yêu cầu,[7]vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[114] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā bị bệnh. Khi ấy, có nam cư sĩ nọ đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Này đạo hữu, sức khoẻ không khá. Mọi việc không được thuận tiện.
- Thưa ni sư, tôi sẽ để lại ở nhà của chủ tiệm buôn kia một đồng kahāpaṇa. Ni sư muốn vật gì ở tiệm buôn kia thì hãy bảo mang lại vật ấy.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã bảo cô ni tu tập sự nọ rằng:
- Này cô ni tu tập sự, hãy đi rồi mang lại một đồng kahāpaṇa dầu ăn từ nhà của chủ tiệm buôn kia.
Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đã mang lại một đồng kahāpaṇa dầu ăn từ nhà của chủ tiệm buôn ấy và dâng cho tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói như vầy:
- Này cô ni tu tập sự, tôi không có nhu cầu về dầu ăn. Tôi có nhu cầu về bơ lỏng.
Khi ấy, cô ni tu tập sự ấy đã đi đến gặp người chủ tiệm buôn ấy, sau khi đến đã nói với người chủ tiệm buôn ấy điều này:
- Này đạo hữu, nghe nói ni sư không có nhu cầu về dầu ăn mà có nhu cầu về bơ lỏng. Hãy nhận lấy dầu ăn của ông và hãy cho tôi bơ lỏng.
- Thưa sư cô, nếu chúng tôi nhận lại hàng hóa đã được bán ra thì khi nào hàng hoá của chúng tôi mới bán ra được? Với việc mua dầu ăn thì dầu ăn đã được mang đi. Sư cô hãy mang đến phần mua của bơ lỏng rồi bơ lỏng sẽ được mang đi.
Khi ấy, cô ni tu tập sự ấy đã đứng khóc lóc. Các tỳ khưu ni đã nói với cô ni tu tập sự ấy điều này:
- Này cô ni tu tập sự, vì sao cô lại khóc lóc?
Khi ấy, cô ni tu tập sự ấy đã kể lại sự việc cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa thì (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[115] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Sau khi bảo sắm vật khác: sau khi bảo sắm bất cứ vật gì.
Lại bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật ấy. Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, vật này của tôi là vật khác nữa đã được bảo sắm sau khi đã bảo sắm vật khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[116] Vật ấy, nhận biết là vật ấy, vị ni bảo sắm vật khác thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vật ấy, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Vật ấy, (lầm) tưởng không phải là vật ấy, vị ni bảo sắm vật khác thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Không phải là vật ấy, (lầm) tưởng là vật ấy, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vật ấy, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là vật ấy, nhận biết không phải là vật ấy thì vô tội.
[117] Vị ni bảo sắm thêm chính vật ấy, vị ni (nhận vật ấy rồi) bảo sắm thêm vật khác, sau khi cho thấy sự lợi ích rồi bảo sắm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[118] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về y của hội chúng tỳ khưu ni đã để lại phần tài vật ở nhà của người buôn vải nọ rồi đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và đã nói điều này:
- Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về y đã được để lại ở nhà của người buôn vải kia. Từ nơi ấy, các ni sư hãy bảo mang y lại rồi chia phần.
Với phần tài vật ấy, các tỳ khưu ni đã bảo sắm dược phẩm cho bản thân rồi thọ dụng. Các cư sĩ biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?
Các tỳ khưu ni đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác thì (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[119] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bằng phần tài vật đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đã được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về hội chúng: vì lợi ích của hội chúng không phải của nhóm không phải của một tỳ khưu ni.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đã được dâng theo ý định (của thí chủ). Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, vật này của tôi là vật khác nữa đã được bảo sắm bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[120] Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Sau khi nhận lại vật đã được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí (yathādāne).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác thì vô tội.
[121] Vị ni sử dụng phần còn lại (sau khi đã bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ý các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[122] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về y của hội chúng tỳ khưu ni đã để lại phần tài vật ở nhà của người buôn vải nọ rồi đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và đã nói điều này:
- Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về y đã được để lại ở nhà của người buôn vải kia. Từ nơi ấy, các ni sư hãy bảo mang y lại rồi chia phần.
Các tỳ khưu ni sau khi tự mình yêu cầu rồi đã bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy và thọ dụng. Các cư sĩ biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác ?
Các tỳ khưu ni đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác thì (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[123] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bằng phần tài vật đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đã được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về hội chúng: vì lợi ích của hội chúng không phải của nhóm không phải của một tỳ khưu ni.
Do tự mình yêu cầu: sau khi tự mình yêu cầu.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đã được dâng theo ý định (của thí chủ). Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, vật này của tôi là vật khác nữa đã được bảo sắm do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[124] Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Sau khi nhận lại vật đã được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí (yathādāne).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác thì vô tội.
[125] Vị ni sử dụng phần còn lại (sau khi đã bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ý các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[126] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni thường trú ở căn phòng của phường hội nọ bị thiếu thốn về cháo. Khi ấy, phường hội ấy sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về cháo của các tỳ khưu ni đã để lại phần tài vật ở nhà của chủ tiệm buôn nọ rồi đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và đã nói điều này:
- Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về cháo đã được để lại ở nhà của người chủ hiệu buôn kia. Từ nơi ấy, các ni sư hãy bảo mang gạo đến rồi bảo nấu cháo và thọ dụng.
Các tỳ khưu ni đã bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy rồi thọ dụng. Phường hội ấy biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác ?
Các tỳ khưu ni đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác thì (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[127] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bằng phần tài vật đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đã được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về nhóm: vì lợi ích của nhóm không phải của hội chúng không phải của một tỳ khưu ni.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đã được dâng theo ý định (của thí chủ). Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, vật này của tôi là vật khác nữa đã được bảo sắm bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[128] Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Sau khi nhận lại vật đã được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí (yathādāne).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác thì vô tội.
[129] Vị ni sử dụng phần còn lại (sau khi đã bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ý các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[130] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni thường trú ở căn phòng của phường hội nọ bị thiếu thốn về cháo. Khi ấy, phường hội ấy sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về cháo của các tỳ khưu ni đã để lại phần tài vật ở nhà của chủ tiệm buôn nọ rồi đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và đã nói điều này:
- Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về cháo đã được để lại ở nhà của người chủ hiệu buôn kia. Từ nơi ấy, các ni sư hãy bảo mang gạo đến rồi bảo nấu cháo và thọ dụng.
Các tỳ khưu ni sau khi tự mình yêu cầu rồi đã bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy và thọ dụng. Phường hội ấy biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác ?
Các tỳ khưu ni đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác thì (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[131] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bằng phần tài vật đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đã được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về nhóm: vì lợi ích của nhóm không phải của hội chúng không phải của một tỳ khưu ni.
Do tự mình yêu cầu: sau khi tự mình yêu cầu.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đã được dâng theo ý định (của thí chủ). Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, vật này của tôi là vật khác nữa đã được bảo sắm do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[132] Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Sau khi nhận lại vật đã được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí (yathādāne).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác thì vô tội.
[129] Vị ni sử dụng phần còn lại (sau khi đã bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ý các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÌNH BÁT - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[134] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Nhiều người thăm viếng tỳ khưu ni Thullanandā. Vào lúc bấy giờ, căn phòng của tỳ khưu ni Thullanandā bị hư hoại. Dân chúng đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, tại sao phòng ở này của ni sư bị hư hoại?
- Này các đạo hữu, không có các thí chủ, không có các nhân công.
Khi ấy, những người ấy sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về phòng ở của tỳ khưu ni Thullanandā rồi đã dâng lên phần tài vật thuộc về tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tự mình yêu cầu rồi đã bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy và thọ dụng. Dân chúng biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ni sư Thullanandā lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác thì (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[135] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bằng phần tài vật đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đã được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về cá nhân: vì lợi ích của một tỳ khưu ni không phải của hội chúng không phải của nhóm.
Do tự mình yêu cầu: sau khi tự mình yêu cầu.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đã được dâng theo ý định (của thí chủ). Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, vật này của tôi là vật khác nữa đã được bảo sắm do tự mình yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đã được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[136] Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Sau khi nhận lại vật đã được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí (yathādāne).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác thì vô tội.
[137] Vị ni sử dụng phần còn lại (sau khi đã bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ý các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN Y - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[138] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Khi ấy vào mùa lạnh, đức vua Pasenadi xứ Kosala sau khi khoác lên tấm choàng len đắt giá đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đã đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā rồi ngồi xuống ở một bên. Tỳ khưu ni Thullanandā đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được tỳ khưu ni Thullanandā chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, có nhu cầu về vật gì xin ni sư cứ nói.
- Tâu đại vương, nếu ngài có ý định bố thí đến tôi thì hãy dâng tấm choàng len này.
Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã dâng tỳ khưu ni Thullanandā tấm choàng len rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các tỳ khưu ni này ham muốn quá độ, không tự biết đủ! Tại sao lại yêu cầu đức vua tấm choàng len?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng len?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā yêu cầu đức vua tấm choàng len, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng len vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni, trong khi bảo sắm tấm choàng loại dày, nên bảo sắm tối đa là bốn kaṃsa. Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[139] Tấm choàng loại dày nghĩa là bất cứ loại tấm choàng nào vào mùa đông.
Trong khi bảo sắm: trong khi yêu cầu.
Nên bảo sắm tối đa là bốn kaṃsa: nên bảo sắm vật trị giá là mười sáu kahāpaṇa.[8]
Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy:vị ni yêu cầu vượt quá trị giá ấy, khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, tấm choàng loại dày này của tôi đã được bảo sắm vượt quá bốn kaṃsa, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[140] Hơn bốn kaṃsa, nhận biết là hơn, vị ni bảo sắm thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Hơn bốn kaṃsa, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Hơn bốn kaṃsa, (lầm) tưởng là kém, vị ni bảo sắm thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Kém bốn kaṃsa, (lầm) tưởng là hơn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Kém bốn kaṃsa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Kém bốn kaṃsa, nhận biết là kém thì vô tội.
[141] Vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa là bốn kaṃsa, vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa kém bốn kaṃsa, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bảo sắm vật có giá trị thấp đối với người có ý định bảo sắm vật giá trị cao, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN Y - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[142] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇd$ika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Khi ấy vào mùa nóng, đức vua Pasenadi xứ Kosala sau khi khoác lên tấm choàng sợi lanh đắt giá đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đã đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā rồi ngồi xuống ở một bên. Tỳ khưu ni Thullanandā đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được tỳ khưu ni Thullanandā chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, có nhu cầu về vật gì xin ni sư cứ nói.
- Tâu đại vương, nếu ngài có ý định bố thí đến tôi thì hãy dâng tấm choàng sợi lanh này.
Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã dâng tỳ khưu ni Thullanandā tấm choàng sợi lanh rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các tỳ khưu ni này ham muốn quá độ, không tự biết đủ! Tại sao lại yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni, trong khi bảo sắm tấm choàng loại nhẹ, nên bảo sắm tối đa là hai kaṃsa rưỡi. Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[143] Tấm choàng loại nhẹ nghĩa là bất cứ loại tấm choàng nào vào mùa nóng.
Trong khi bảo sắm: trong khi yêu cầu.
Nên bảo sắm tối đa là hai kaṃsa rưỡi: nên bảo sắm vật trị giá là mười kahāpaṇa.
Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy:vị ni yêu cầu vượt quá trị giá ấy, khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch chư ni sư, tấm choàng loại dày này của tôi đã được bảo sắm vượt quá hai kaṃsa rưỡi, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ...(như trên)... hội chúng nên cho lại ...(như trên)... các đại đức ni nên cho lại ...(như trên)... “Tôi cho lại ni sư.”
[144] Hơn hai kaṃsa rưỡi, nhận biết là hơn, vị ni bảo sắm thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Hơn hai kaṃsa rưỡi, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Hơn hai kaṃsa rưỡi, (lầm) tưởng là kém, vị ni bảo sắm thì phạm tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị).
Kém hai kaṃsa rưỡi, (lầm) tưởng là hơn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Kém hai kaṃsa rưỡi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Kém hai kaṃsa rưỡi, nhận biết là kém thì vô tội.
[145] Vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa là hai kaṃsa rưỡi, vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa kém hai kaṃsa rưỡi, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bảo sắm vật có giá trị thấp đối với người có ý định bảo sắm vật giá trị cao, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
[146] Bạch chư đại đức ni, ba mươi điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị)[9]đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Nissaggiya Pācittiya (Ưng Xả Đối Trị).
*******
[1]Nissaggiya pācittiya có hai phần: nissaggiya liên quan đồ vật cần được xả bỏ, pācittiya là tội ưng đối trị. Cụm từ này đã được các vị tiền bối dịch chung lại là “tội ưng xả đối trị.” Khi hai từ ấy đi chung, chúng tôi sẽ ghi là “tội ưng xả đối trị,” còn trường hợp phân tích riêng rẽ thì sẽ ghi như trên.
[2]Aḍḍhāḷhakodanaṃ = Aḍḍha-āḷhaka-odanaṃ. Aḍḍha là một nửa, āḷhaka là đơn vị đo thể tích, odanaṃ là cơm đã được nấu. Ngài Mahāsamaṇa Chao cho rằng “cơm được nấu từ ½ āḷhaka gạo” và phù hợp với lời giải thích của ngài Buddhaghosa. Cũng như người Việt chúng ta thường nói ăn hết 1 lon là ăn hết 1 lon gạo chứ không phải 1 lon cơm. Trong khi đó, dịch giả I.B. Horner hiểu rằng: “lượng cơm là ½ āḷhaka” theo văn phạm.
[3]Theo ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở Vinayamukha thì 1 āḷhaka = 4 nāḷi (nāḷika?)= 8 pattha (1 nāli = 2 pattha). Pattha là lượng chứa do hai tay bụm lại. Khi dùng các lượng ½ āḷhaka, 1 nāli, 1 pattha gạo rồi nấu lên thành cơm thì các lượng cơm ấy là sức chứa đựng của ba loại bình bát nói trên.
[4]Sáu loại y: loại bằng sợi lanh (khomaṃ), loại bằng bông vải (kappāsikaṃ), loại bằng tơ lụa (koseyyaṃ), loại bằng sợi len (kambalaṃ), loại bằng gai thô (sāṇam), loại bằng chỉ bố (bhaṅgaṃ).
[5]Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng chung y (có kích thước) tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn (Đại Phẩm – Mahāvagga tập 2, chương VIII, [160]).
[6]Chúng tôi nghĩ rằng người chủ hiệu buôn có ý chỉ trích tỳ khưu ni Thullanandā nên nói “mang đến ... mang đi.” Nếu chỉ trích người cận sự nam thì phải nói: “mang đi ... mang đến.”
[7]Dựa vào lời giải thích của ngài Buddhaghosa, chúng tôi hiểu được ý nghĩa của phần không phạm tội như sau: 1/ Vật được dâng chưa đủ nên phải yêu cầu thêm nữa, 2/ ngoài vật đã được dâng, vị ni còn cần thêm vật thứ hai nên yêu cầu, 3/ giải thích sự cần thiết phải có thêm vật thứ hai rồi yêu cầu.
[8]Theo ngài Buddhaghosa, kahāpaṇa là đơn vị tiền tệ thời bấy giờ. Cũng nên nhắc lại rằng vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni trộm cắp vật trị giá 5 māsaka = 1 pāda = ¼ kahāpaṇa là vi phạm tội cực nặng pārājika.
[9]Lời giải thích của ngài Buddhaghosa được tóm lược như sau: Tỳ khưu và tỳ khưu ni đều có 30 điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị). Phần của tỳ khưu ni gồm có 12 điều quy định riêng đã được trình bày ở trên, còn 18 được quy định chung đã được trình bày ở giới bổn của tỳ khưu là: Phần Y bỏ ra hai điều là điều 4 (bảo giặt y) và điều 5 (thọ lãnh y từ tay tỳ khưu ni) rồi thêm vào hai điều là điều 2 (phân chia y) và điều 3 (trao đổi y rồi giật lại) ở trên là đủ mười; Phần Tơ Tằm bỏ ra bảy điều học đầu rồi thay thế bằng bảy điều ở trên đây từ điều 4-10 rồi cọng thêm vào 3 điều còn lại của tỳ khưu là đủ mười; Phần Bình Bát bỏ ra 3 điều là điều 1 (cất giữ bình bát), điều 4 (y choàng tắm mưa), và điều 9 (ngụ ở rừng) rồi thêm vào điều đầu tiên ở trên (tích trữ bình bát) và hai điều sau cùng (tấm choàng loại dày và loại nhẹ) là đủ mười; như vậy tổng cộng là 30 điều học. Không rõ thứ tự đọc tụng sẽ như vậy hay thay đổi.
Bạch chư đại đức ni, một trăm sáu mươi sáu điều pācittiya (ưng đối trị) này
được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[147] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu ni về tỏi (nói rằng): “Các ni sư nào có nhu cầu về tỏi, tôi dâng tỏi.” Và người canh ruộng được ra lệnh rằng: “Nếu các tỳ khưu ni đi đến, hãy dâng cho mỗi một vị tỳ khưu ni hai ba bó.”
Vào lúc bấy giờ, trong thành Sāvatthi có lễ hội. Tỏi đã được đem lại bao nhiêu đều không còn. Các tỳ khưu ni đã đi đến nam cư sĩ ấy và đã nói điều này:
- Này đạo hữu, có nhu cầu về tỏi.
- Thưa các ni sư, không có. Tỏi đã được đem lại bao nhiêu đều hết cả. Xin hãy đi đến ruộng.
Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến ruộng đã không biết chừng mực và đã bảo mang đi nhiều tỏi. Người canh ruộng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến ruộng lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được người canh ruộng ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
[148] Sau đó, khi đã khiển trách tỳ khưu ni Thullanandā bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vào thời quá khứ tỳ khưu ni Thullanandā đã là vợ của người bà-la-môn nọ và có ba người con gái là Nandā, Nandavatī, và Sundarīnandā. Này các tỳ khưu, khi ấy người bà-la-môn ấy sau khi qua đời đã sanh vào bào thai của con chim thiên nga nọ. Con chim ấy có bộ lông được cấu tạo hoàn toàn bằng vàng. Nó đã cho các cô ấy mỗi người một lông chim. Này các tỳ khưu, khi ấy tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Con chim thiên nga này cho chúng ta mỗi người một lông chim” nên đã nắm lấy con chim thiên nga chúa ấy và đã vặt trụi lông. Bộ lông của con chim ấy trong khi được mọc lại đều là màu trắng. Này các tỳ khưu, ngày hôm ấy tỳ khưu ni Thullanandā vì quá tham lam khiến vàng đã bị tiêu tan; bây giờ tỏi sẽ bị mất đi.
[149]
Được gì nên hoan hỷ,
bởi kẻ ác quá tham
nắm lấy thiên nga chúa
khiến vàng bị tiêu tan.
[150] Sau đó, khi đã khiển trách tỳ khưu ni Thullanandā bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nhai tỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[151] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tỏi nghĩa là (loại thảo mộc) thuộc về xứ Magadha được đề cập đến.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[152] Tỏi, nhận biết là tỏi, vị ni nhai phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tỏi, có sự hoài nghi, vị ni nhai phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tỏi, (lầm) tưởng không phải tỏi, vị ni nhai phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải tỏi, (lầm) tưởng là tỏi, vị ni nhai phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải tỏi, có sự hoài nghi, vị ni nhai phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải tỏi, nhận biết không phải tỏi, vị ni nhai thì vô tội.
[153] Trong trường hợp củ hành (palaṇḍuko), củ hành đỏ (bhañjanako), củ hành tây (harītako), lá hẹ (cāpalasuno), nấu chung với xúp, nấu chung với thịt, nấu chung với dầu ăn, rau cải trộn, hương vị làm ngon miệng, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[154] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sau khi cạo lông ở chỗ kín rồi lõa thể tắm chung với các cô gái điếm ở một bến tắm nơi giòng sông Aciravatī. Các cô gái điếm phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại cạo lông ở chỗ kín, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được các cô gái điếm ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại cạo lông ở chỗ kín?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư cạo lông ở chỗ kín, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại cạo lông ở chỗ kín vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cạo lông ở chỗ kín thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[155] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chỗ kín nghĩa là hai nách và chỗ tiểu tiện.
Cạo: vị ni cạo (nhổ) chỉ một sợi lông thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni dầu cạo (nhổ) nhiều sợi lông cũng phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[156] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[157] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có hai tỳ khưu ni bị bực bội bởi sự không được thỏa thích mới đi vào phòng trong rồi thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay. Các tỳ khưu ni đã chạy lại vì tiếng động ấy rồi đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, sao các cô lại làm điều nhơ nhớp cùng với người nam vậy?
- Này các ni sư, chúng tôi không làm điều nhơ nhớp cùng với người nam.
Rồi đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Khi thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[158] Việc cọ xát bằng lòng bàn tay nghĩa là trong lúc thích thú sự xúc chạm, vị ni đánh (đập, vỗ) vào chỗ tiểu tiện mặc dầu chỉ bằng cánh hoa sen thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[159] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[160] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nọ trước đây là cung nữ của đức vua đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Có tỳ khưu ni nọ bị bực bội bởi sự không được thỏa thích đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, đức vua lâu lâu mới đến với cô, cô chịu đựng bằng cách nào?
- Này ni sư, với gậy ngắn bằng nhựa cây.
- Này ni sư, gậy ngắn bằng nhựa cây ấy là gì?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã giải thích gậy ngắn bằng nhựa cây cho vị tỳ khưu ni nọ. Sau đó, vị tỳ khưu ni nọ sau khi áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây rồi không nhớ để rửa và đã quăng bỏ ở một góc. Các tỳ khưu ni khi nhìn thấy vật bị các con ruồi bu quanh đã nói như vầy:
- Việc làm này là của ai?
Cô ni nọ đã nói như vầy:
- Việc làm này là của tôi.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “(Trường hợp) gậy ngắn bằng nhựa cây thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[161] Gậy ngắn bằng nhựa cây nghĩa là làm bằng nhựa cây, làm bằng gỗ, làm bằng bột gạo, làm bằng đất sét. Trong khi thích thú sự xúc chạm, vị ni đưa vào chỗ đường tiểu cho dù chỉ là cánh hoa sen thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[162] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[163] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya (Thích ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở phía dưới gió (nói rằng):
- Bạch Thế Tôn, người nữ có mùi thối.
Khi ấy, đức Thế Tôn (đã nói rằng): “Các tỳ khưu ni hãy áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước” rồi đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpati Gotamī bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc làm sạch sẽ bằng nước đến các tỳ khưu ni.
[164] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ (nghĩ rằng): “Việc làm sạch sẽ bằng nước đã được đức Thế Tôn cho phép” rồi trong khi áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu nên đã gây ra vết thương ở chỗ đường tiểu. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni trong khi áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước nên áp dụng tối đa hai lóng tay; vượt quá giới hạn ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[165] Việc làm sạch sẽ bằng nước nghĩa là việc rửa ráy chỗ đường tiểu được đề cập đến.
Trong khi áp dụng: trong khi rửa.
Nên áp dụng tối đa hai lóng tay: nên áp dụng tối đa hai khớp ở hai ngón tay.
Vượt quá giới hạn ấy:trong khi thích thú sự xúc chạm, vị ni vượt quá cho dù khoảng cách mảnh bằng sợi tóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[166] Khi hơn hai lóng tay, nhận biết là đã hơn, vị ni áp dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi hơn hai lóng tay, có sự hoài nghi, vị ni áp dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi hơn hai lóng tay, (lầm) tưởng là kém, vị ni áp dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi kém hai lóng tay, (lầm) tưởng là đã hơn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi kém hai lóng tay, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi kém hai lóng tay, nhận biết là kém thì vô tội.
[167] Vị ni áp dụng tối đa hai lóng tay, vị ni áp dụng tối đa kém hai lóng tay, vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[168] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần tên là Ārohanta đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người vợ cũ của vị ấy cũng đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu ni. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ấy nhận phần phân phát bữa ăn khi có sự hiện diện của tỳ khưu ni ấy. Sau đó, trong lúc vị tỳ khưu ấy đang thọ thực, vị tỳ khưu ni ấy đã đứng gần với nước uống và quạt rồi nói chuyện thế tục là nói về chuyện đùa giỡn tại gia. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã xua đuổi vị tỳ khưu ni ấy (nói rằng):
- Này sư tỷ, chớ làm như thế. Điều ấy không được phép.
- Trước đây, ông đã làm tôi như vầy và như vầy. Bây giờ, chỉ chừng ấy ông lại không chịu.
Rồi đã đổ tô nước uống lên đầu và đã dùng quạt đánh. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại đánh tỳ khưu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni đánh vị tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại đánh tỳ khưu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi vị tỳ khưu đang thọ thực, vị tỳ khưu ni nào đứng gần với nước uống hoặc với quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[169] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Đối với) vị tỳ khưu: (đối với) người nam đã tu lên bậc trên.
Đang thọ thực: đang thọ thực loại vật thực mềm nào đó thuộc về năm loại vật thực mềm.
Nước uống nghĩa là bất cứ loại nước uống nào.
Quạt nghĩa là bất cứ loại quạt nào.
Đứng gần: vị ni đứng trong khoảng tầm tay thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[170] Người nam đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni đứng gần với nước và quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni đứng gần với nước và quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni đứng gần với nước và quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni sau khi rời xa khỏi tầm tay rồi đứng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Trong lúc (vị tỳ khưu) đang nhai vật thực cứng, vị ni đứng gần thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni đứng gần người nam chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[171] Vị ni dâng, vị ni bảo (người khác) dâng, vị ni ra lệnh cho người (nữ) chưa tu lên bậc trên, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[172] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ trong khi mùa thu hoạch, các tỳ khưu ni sau khi yêu cầu lúa còn nguyên hạt rồi mang đi đến thành phố. Tại trạm gác cổng, (lính gác nói rằng):
- Thưa các ni sư, hãy đóng góp phần.
Họ đã giữ lại rồi đã thả ra. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến ni viện rồi đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu lúa còn nguyên hạt?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni yêu cầu lúa còn nguyên hạt, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu lúa còn nguyên hạt vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào yêu cầu, hoặc bảo yêu cầu, hoặc xay, hoặc bảo xay, hoặc giã, hoặc bảo giã, hoặc nấu, hoặc bảo nấu lúa còn nguyên hạt rồi thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[173] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Lúa còn nguyên hạtnghĩa là lúa gạo sāli, lúa gạo, lúa mạch, lúa mì, kê, đậu, hạt kudrūsaka (bắp?).
(Sau khi) yêu cầu: sau khi tự mình yêu cầu.
(Sau khi) bảo yêu cầu: sau khi bảo người khác yêu cầu.
(Sau khi) xay: sau khi tự mình xay.
(Sau khi) bảo xay: sau khi bảo người khác xay.
(Sau khi) giã: sau khi tự mình giã.
(Sau khi) bảo giã: sau khi bảo người khác giã.
(Sau khi) nấu: sau khi tự mình nấu.
(Sau khi) bảo nấu: sau khi bảo người khác nấu.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[174] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni yêu cầu rau cải, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[175] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ là lính được đức vua trả lương (nghĩ rằng): “Ta sẽ cầu xin tiền lương bằng số ấy” rồi gội đầu và đi đến hoàng cung dọc theo ni viện của các tỳ khưu ni. Có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đại tiện vào vật đựng rồi trong khi đổ bỏ phía bên kia bức tường đã làm rơi lên trên đầu của người bà-la-môn ấy. Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Những bà cạo đầu khả ố này không phải là nữ sa-môn. Tại sao lại đổ vật đựng chất thải lên đầu? Ta sẽ đốt cháy ni viện của mấy bà này.
Rồi đã cầm lấy cây lửa đi vào ni viện. Có nam cư sĩ nọ đang đi ra khỏi ni viện đã nhìn thấy người bà-la-môn ấy cầm cây lửa đang đi vào ni viện, sau khi nhìn thấy đã nói với người bà-la-môn ấy điều này:
- Này ông, vì sao ông lại cầm cây lửa và đi vào ni viện?
- Này ông, những bà cạo đầu khả ố này đổ vật đựng chất thải lên đầu tôi. Tôi sẽ đốt cháy ni viện của mấy bà này.
- Này ông, hãy đi. Điều này là điều may mắn. Và ông sẽ đạt được số tiền lương ấy là một ngàn.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã gội đầu rồi đi đến hoàng cung và đã đạt được số tiền lương ấy là một ngàn. Sau đó, nam cư sĩ ấy đã đi vào ni viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni rồi đã chê trách. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân phía bên kia bức tường?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đổ bỏ phân phía bên kia bức tường, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân phía bên kia bức tường vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ phân hoặc nước tiểu hoặc rác rến hoặc thức ăn thừa phía bên kia bức tường hoặc phía bên kia hàng rào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[176] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Phân nghĩa là chất thải được đề cập đến.
Nước tiểu nghĩa là nước thải được đề cập đến.
Rác rến nghĩa là rác quét dọn được đề cập đến.
Thức ăn thừa nghĩa là các vật được nhai thừa, hoặc các mẩu xương, hoặc nước dơ được đề cập đến.
Bức tường nghĩa là có ba loại tường: tường gạch, tường đá, tường gỗ.
Hàng ràonghĩa là có ba loại hàng rào: hàng rào gạch, hàng rào đá, hàng rào gỗ.
Phía bên kia bức tường: phía đối nghịch của bức tường.
Phía bên kia hàng rào:phía đối nghịch của hàng rào.
Đổ bỏ: vị ni mình đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo đổ bỏ: vị ni ra lệnh người khác đổ bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đổ nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[177] Vị ni đổ bỏ sau khi đã xem xét, vị ni đổ bỏ nơi không phải là lối đi, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[178] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ruộng lúa mạch của người bà-la-môn nọ là kề bên ni viện của các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa ở trong ruộng. Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại làm dơ ruộng lúa mạch của chúng tôi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ phân hoặc nước tiểu hoặc rác rến hoặc thức ăn thừa lên cỏ cây xanh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[179] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là vị “tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Phân nghĩa là chất thải được đề cập đến.
Nước tiểu nghĩa là nước thải được đề cập đến.
Rác rến nghĩa là rác quét dọn được đề cập đến.
Thức ăn thừa nghĩa là các vật được nhai thừa, hoặc các mẩu xương, hoặc nước dơ được đề cập đến.
Cỏ cây xanh nghĩa là loại hạt và rau cải nào được trồng để làm thực phẩm sử dụng cho loài người.
Đổ bỏ: vị ni tự mình đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo đổ bỏ: vị ni ra lệnh người khác đổ bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đổ nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[180] Cỏ cây xanh, nhận biết là cỏ cây xanh, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Cỏ cây xanh, có sự hoài nghi, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Cỏ cây xanh, (lầm) tưởng không phải là cỏ cây xanh, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là cỏ cây xanh, (lầm) tưởng là cỏ cây xanh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là cỏ cây xanh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là cỏ cây xanh, nhận biết không phải là cỏ cây xanh thì vô tội.
[181] Vị ni đổ bỏ sau khi đã xem xét, vị ni đổ bỏ ở góc ruộng, vị ni đổ bỏ sau khi hỏi ý sau khi xin phép người chủ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[182] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tại thành Rājagaha có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã đi để xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại đi để xem vũ ca tấu nhạc, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem vũ ca tấu nhạc?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đi để xem vũ ca tấu nhạc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem vũ ca tấu nhạc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi để xem vũ hoặc ca hoặc tấu nhạc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[183] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vũ nghĩa là bất cứ loại vũ gì.
Ca nghĩa là bất cứ bài ca gì.
Tấu nhạc nghĩa là bất cứ loại tấu nhạc gì (trống, kèn, đờn, v.v...).
Vị ni đi để xem thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng tại chỗ ấy rồi nhìn hoặc lắng nghe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi tầm nhìn, vị ni lại nhìn hoặc lắng nghe lần nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni đi để xem mỗi một (môn biểu diễn) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng tại chỗ ấy rồi nhìn hoặc lắng nghe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi tầm nhìn, vị ni lại nhìn hoặc lắng nghe lần nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[184] Vị ni đứng ở trong ni viện rồi nhìn thấy hoặc nghe, sau khi đi đến chỗ đứng hoặc chỗ ngồi hoặc chỗ nằm của vị tỳ khưu ni thì họ vũ hoặc họ ca hoặc họ tấu nhạc, vị ni nhìn thấy hoặc nghe trong khi đi ngược chiều, khi có việc cần phải làm vị ni đi rồi nhìn thấy hoặc nghe, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Tỏi là phần thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[185] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đã đi đến thành Sāvatthi vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy cùng người nam ấy một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nam với một nữ đứng chung hoặc chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[186] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong bóng tối ban đêm: khi mặt trời đã lặn.
Không có đèn: không có ánh sáng.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là cả người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[187] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[188] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đã đi đến thành Sāvatthi vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán cùng người nam một nam với một nữ đứng chung chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn” nên cùng chính người nam ấy một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nam với một nữ đứng chung hoặc chuyện trò ở chỗ được che khuất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[189] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chỗ được che khuất nghĩa là chỗ được che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật gì.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[190] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[191] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đã đi đến thành Sāvatthi vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán cùng người nam một nam với một nữ đứng chung chuyện trò ở chỗ được che khuất” nên đã cùng chính người nam ấy một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nam với một nữ đứng chung hoặc chuyện trò ở khoảng trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[192] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Khoảng trống nghĩa là không bị che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc là không bị che khuất bởi bất cứ vật gì.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng chung.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[193] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[194] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào ở đường có xe cộ, hoặc ở ngõ cụt, hoặc ở giao lộ cùng người nam một nam với một nữ hoặc đứng chung, hoặc chuyện trò, hoặc thầm thì vào tai, hoặc đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[195] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đường có xe cộ nghĩa là đường có xe kéo hàng được đề cập đến.
Ngõ cụt nghĩa là họ đi vào bằng chính lối nào thì đi ra bằng chính lối đó.
Giao lộ nghĩa là nơi ngã tư đường được đề cập đến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc thầm thì vào tai: vị ni nói vào lỗ tai của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì: vị ni có ý định hành xử sai nguyên tắc rồi đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi vị ni (kia) đang rời khỏi tầm nhìn hoặc tầm nghe thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã rời khỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[196] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni không có ý định hành xử sai nguyên tắc, vị ni đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì khi có việc cần làm, [1]vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[197] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có tỳ khưu ni nọ là vị thường tới lui với các gia đình và là vị nhận bữa ăn thường kỳ của gia đình nọ. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ni ấy đã mặc y cầm y bát rồi đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn rồi đã ra đi không thông báo chủ nhân. Người nữ nô tỳ của gia đình ấy trong lúc quét nhà đã bỏ chỗ ngồi ấy bên trong cái thùng. Trong khi không nhìn thấy chỗ ngồi ấy, mọi người đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Thưa ni sư, chỗ ngồi ấy đâu rồi?
- Này các đạo hữu, tôi không nhìn thấy chỗ ngồi ấy.
- Thưa ni sư, hãy đưa ra chỗ ngồi ấy.
Họ đã chê trách và đã ngưng lại bữa ăn thường kỳ. Sau đó, những người ấy trong khi làm sạch sẽ nhà đã nhìn thấy chỗ ngồi ấy ở bên trong cái thùng nên đã xin lỗi vị tỳ khưu ni ấy và thiết lập lại bữa ăn thường kỳ. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo chủ nhân?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo chủ nhân, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo chủ nhân vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo chủ nhân thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[198] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trước bữa ăn nghĩa là từ lúc mặt trời mọc cho đến giữa trưa.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ (khattiya), gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đã đến nơi ấy.
Chỗ ngồi nghĩa là chỗ của ghế nệm lông thú được đề cập đến.
(Sau khi) ngồi xuống: sau khi ngồi xuống ở nơi ấy.
Ra đi không thông báo chủ nhân: không thông báo cho người có sự hiểu biết ở gia đình ấy. Trong khi vượt qua mái che mưa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Ở ngoài trời, trong khi vượt qua vùng lân cận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[199] Khi chưa thông báo, nhận biết là chưa thông báo, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa thông báo, có sự hoài nghi, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa thông báo, (lầm) tưởng là đã thông báo, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là chỗ của ghế nệm lông thú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã thông báo, (lầm) tưởng là chưa thông báo, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã thông báo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã thông báo, nhận biết là đã thông báo thì vô tội.
[200] Vị ni đi có thông báo, ở chỗ ngồi không thể di động, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[201] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân rồi ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi. Mọi người trong khi khiêm tốn đối với tỳ khưu ni Thullanandā nên không ngồi xuống cũng không nằm xuống. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ni sư Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân rồi ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[202] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Sau bữa ăn nghĩa là khi đã quá giữa trưa cho đến khi mặt trời lặn.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đã đến nơi ấy.
Không hỏi ý chủ nhân: không hỏi ý người là chủ nhân ở gia đình ấy để cho phép.
Chỗ ngồi nghĩa là chỗ của ghế nệm lông thú được đề cập đến.
Ngồi xuống: vị ni ngồi xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nằm xuống: vị ni nằm xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[203] Khi chưa hỏi ý, nhận biết là chưa hỏi ý, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, có sự hoài nghi, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, (lầm) tưởng là đã hỏi ý, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là chỗ của ghế nệm lông thú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, (lầm) tưởng là chưa hỏi ý, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, nhận biết là đã hỏi ý thì vô tội.
[204] Vị ni có hỏi ý rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi, ở chỗ được quy định thường xuyên, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[205] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu ni trong khi đi đến thành Sāvatthi trong xứ Kosala nhằm lúc chiều tối đã ghé vào ngôi làng nọ và đi đến gia đình bà-la-môn nọ xin chỗ ngụ. Khi ấy, người nữ bà-la-môn đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, hãy chờ đến khi ông bà-la-môn về.
Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Đến khi ông bà-la-môn về” rồi đã trải ra chỗ nằm; một số đã ngồi xuống một số đã nằm xuống. Sau đó, người bà-la-môn ấy đã trở về vào ban đêm và đã nói với người nữ bà-la-môn điều này:
- Những cô này là ai?
- Thưa ông, là các tỳ khưu ni.
- Mấy người hãy lôi những bà cạo đầu khả ố này ra.
Rồi đã cho người lôi ra khỏi nhà. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[206] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Lúc trời tối nghĩa là khi mặt trời đã lặn cho đến lúc rạng đông.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đã đến nơi ấy.
Không hỏi ý chủ nhân: không hỏi ý người là chủ nhân ở gia đình ấy để cho phép.
Chỗ nằm nghĩa là ngay cả tấm trải nằm bằng lá.
(Sau khi) trải ra: sau khi tự mình trải ra.
(Sau khi) bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra.
Ngồi xuống: vị ni ngồi xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nằm xuống: vị ni nằm xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[207] Khi chưa hỏi ý, nhận biết là chưa hỏi ý, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, có sự hoài nghi, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, (lầm) tưởng là đã hỏi ý, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã hỏi ý, (lầm) tưởng là chưa hỏi ý, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, nhận biết là đã hỏi ý thì vô tội.
[208] Vị ni có hỏi ý sau đó trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[209] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī phục vụ Bhaddā Kāpilānī rất nghiêm chỉnh. Bhaddā Kāpilānī đã nói với các tỳ khưu ni điều này:
- Này các ni sư, tỳ khưu ni này phục vụ tôi rất nghiêm chỉnh. Tôi sẽ cho cô này y.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác rằng:
- Này ni sư, nghe nói tôi không phục vụ sư thầy nghiêm chỉnh. Nghe nói sư thầy sẽ không cho tôi y.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[210] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Do hiểu sai: do được hiểu cách khác.
Do xét đoán sai: do được xét đoán cách khác.
Với vị khác: vị ni than phiền với vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[211] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni than phiền thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni than phiền thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng chưa tu lên bậc trên, vị ni than phiền thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni than phiền với người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[212] Vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[213] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trong khi không nhìn thấy đồ đạc của bản thân đã nói với tỳ khưu ni Caṇḍakālī điều này:
- Này ni sư, ni sư có nhìn thấy đồ đạc của chúng tôi không?
Tỳ khưu ni Caṇḍakālī phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Chẳng lẽ chính tôi là nữ đạo tặc hay sao? Chẳng lẽ chính tôi là kẻ không biết xấu hổ hay sao? Những ni sư nào trong khi không nhìn thấy đồ đạc của bản thân những vị ni ấy đã nói với tôi như vầy: “Này ni sư, ni sư có nhìn thấy đồ đạc của chúng tôi không?” Này các ni sư, nếu tôi lấy đồ đạc của các cô, tôi không còn là nữ sa-môn, tôi bị tiêu hoại Phạm hạnh, tôi bị sanh vào địa ngục. Còn cô nào đã nói sai trái về tôi như thế, chính cô ấy hãy không còn là nữ sa-môn, hãy bị tiêu hoại Phạm hạnh, hãy bị sanh vào địa ngục.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī lại nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī lại nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nguyền rủa bản thân hoặc người khác về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[214] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bản thân: đối với cá nhân mình.
Người khác: vị ni nguyền rủa vị đã tu lên bậc trên về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[215] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni nguyền rủa về sự sanh làm loài thú hoặc về cảnh giới ngạ quỷ hoặc về phần số xui của loài người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni nguyền rủa người nữ chưa tu lên bậc trên về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[216] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[217] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni lại tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī lại tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī lại tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[218] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chính mình: đối với cá nhân mình. Vị ni sau khi đánh đấm rồi khóc lóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni đánh không khóc lóc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni khóc lóc không đánh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[219] Do sự mất mát về thân quyến, hoặc do sự mất mát về vật dụng, hoặc do sự bất hạnh vì bệnh hoạn, hoặc khi được hỏi đến vị ni khóc lóc không đánh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Bóng Tối là phần thứ nhì.
*******
[1]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Khi có việc cần làm là nhằm mục đích hoàn thành công việc rút thẻ cho bữa trai phạn, v.v... hoặc mục đích sắp xếp lại sự bề bộn ở trong trú xá.”
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[220] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu ni lõa thể tắm chung với các cô gái điếm ở một bến tắm nơi giòng sông Aciravatī. Các cô gái điếm đã chế giễu các tỳ khưu ni ấy rằng:
- Các bà đại đức ơi, vì điều gì mà các bà thực hành Phạm hạnh trong lúc đang còn trẻ vậy? Chớ không phải các dục lạc là nên được thỏa thích hay sao? Khi nào trở nên già cả, khi ấy các bà sẽ thực hành Phạm hạnh, như thế các bà sẽ vơ được cả hai mối lợi.
Trong khi bị các cô gái điếm chế giễu, các tỳ khưu ni đã xấu hổ. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi về ni viện và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ...(như trên)... và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào lõa thể tắm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[221] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Lõa thể tắm: vị ni không quấn y hoặc không choàng y rồi tắm. Trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi hoàn tất việc tắm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[222] Vị ni có y (choàng tắm) bị cướp đoạt, hoặc vị ni có y (choàng tắm) bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[223] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm của các tỳ khưu ni đã được đức Thế Tôn cho phép. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm đã được đức Thế Tôn cho phép” rồi đã mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước, trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi cho thực hiện vải choàng tắm, vị tỳ khưu ni nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (vải choàng tắm) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[224] Vải choàng tắm nghĩa là vật mà vị ni quấn vào rồi tắm.
Trong khi cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm. Nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. [1]Nếu vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[225] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị ni có được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[226] Vị ni làm theo kích thước, vị ni làm nhỏ hơn, do người khác làm quá kích thước sau khi có được thì cắt bớt rồi sử dụng, vị ni làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[227] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y bằng vải y đắt giá của vị tỳ khưu ni nọ đã được làm xấu xí, đã được may vụng về. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, vải y này của cô tuyệt đẹp nhưng y đã được làm xấu xí, đã được may vụng về.
- Này ni sư, tôi tháo rời ra, có phải cô sẽ may lại?
- Này ni sư, đúng vậy. Tôi sẽ may lại.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã tháo rời y ấy rồi đã trao cho tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Ta sẽ may lại, ta sẽ may lại” nhưng không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni, vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại, ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[228] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Của vị tỳ khưu ni: của vị tỳ khưu ni khác.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.
Khi đã tháo rời: sau khi tự mình tháo rời.
(Sau khi) bảo tháo rời: sau khi bảo người khác tháo rời.
Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại: khi không có trở ngại.
Vẫn không may lại: không tự mình may lại.
Không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại: không chỉ thị người khác.
Ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày: trừ ra trong bốn ngày hoặc năm ngày.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ không may lại, ta sẽ không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[229] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời vật phụ tùng khác sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y hoặc vật phụ tùng khác của người nữ chưa tu lên bậc trên sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[230] Trong khi có trở ngại, vị ni đã tầm cầu nhưng không có được (thời gian), trong khi làm vị ni ấy vượt quá bốn ngày hoặc năm ngày, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[231] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y. Các y ấy được để lại lâu ngày trở nên mốc meo. Các tỳ khưu ni đem phơi nắng các y ấy. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?
Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp (saṅghāṭi) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[232] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp (saṅghāṭi): đến ngày thứ năm vị ni không quấn hoặc không trùm hoặc không phơi nắng năm y, vị ni vượt quá ngày thứ năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).[2]
[233] Khi đã vượt quá năm ngày, nhận biết là đã vượt quá, phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là chưa vượt quá, phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là đã vượt quá, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa vượt quá năm ngày, nhận biết là chưa vượt quá thì vô tội.
[234] Vào ngày thứ năm vị ni quấn hoặc trùm hoặc phơi nắng năm y, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[235] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đi khất thực đã trải ra tấm y bị ẩm ướt rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ khưu ni khác đã choàng lên y ấy rồi đi vào làng để khất thực. Vị ni kia đi ra đã hỏi các tỳ khưu ni rằng:
- Này các ni sư, các vị có nhìn thấy y của tôi không?
Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho vị tỳ khưu ni ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu ni trùm y của tôi mà không hỏi ý?
Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà không hỏi ý?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni trùm y của vị tỳ khưu ni mà không hỏi ý, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà không hỏi ý vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sử dụng y căn bản (của vị ni khác) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[236] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Y căn bản nghĩa là y nào đó trong năm y của người nữ đã tu lên bậc trên. Vị ni quấn hoặc trùm y chưa được vị ni kia cho, hoặc chưa hỏi ý vị ni kia thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[237] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni sử dụng y căn bản (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sử dụng y căn bản (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sử dụng y căn bản (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni sử dụng y căn bản của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[238] Vị ni kia cho, hoặc có hỏi ý vị ni kia rồi quấn hoặc trùm lên, vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[239] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ cho tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã tạo chướng ngại (nói rằng):
- Các người có nhiều phận sự, có nhiều công việc cần phải làm.
Vào lúc bấy giờ, ngôi nhà của gia đình ấy bị cháy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ni sư Thullanandā lại cản trở việc bố thí của chúng tôi khiến chúng tôi bị xa lìa cả hai là tài sản và phước báu?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cản trở lợi lộc về y của nhóm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cản trở lợi lộc về y của nhóm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cản trở lợi lộc về y của nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cản trở lợi lộc về y của nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[240] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nhómnghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Cản trở: vị cản trở (hỏi rằng): “Các người bố thí y này như thế nào?” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị cản trở vật phụ tùng khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị cản trở y hoặc vật phụ tùng khác của nhiều vị tỳ khưu ni hoặc của một vị tỳ khưu ni hoặc của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[241] Vị ni cản trở sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[242] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến hội chúng tỳ khưu ni. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni có ý định phân chia y ấy nên tụ hội lại. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni học trò của tỳ khưu ni Thullanandā đang đi vắng. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, các tỳ khưu ni đang đi vắng, trong khi ấy y sẽ không được chia.
Rồi đã ngăn cản sự phân chia y. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Trong khi ấy y sẽ không được chia” nên đã ra đi. Đến khi các tỳ khưu ni học trò trở về lại, tỳ khưu ni Thullanandā đã bảo phân chia y ấy. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng pháp?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự phân chia y đúng pháp, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự phân chia y đúng pháp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[243] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Sự phân chia y đúng phápnghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi phân chia.
Ngăn cản: vị ni ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể phân chia y này như thế nào?” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[244] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị ni ngăn cản thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị ni ngăn cản thì vô tội.
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
[245] Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[246] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā cho y của sa-môn đến các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống (bảo rằng):
- Hãy nói lời khen ngợi về ta ở đám đông.
Các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống đã nói lời khen ngợi về tỳ khưu ni Thullanandā ở đám đông rằng:
- Ni sư Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Hãy bố thí đến ni sư. Hãy phục vụ cho ni sư.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cho y của sa-môn đến người nam tại gia?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cho y của sa-môn đến người nam tại gia, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cho y của sa-môn đến người nam tại gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cho y của sa-môn đến người nam tại gia hoặc nam du sĩ ngoại đạo hoặc nữ du sĩ ngoại đạo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[247] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nam tại gia nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Nam du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nam thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu và sa di.
Nữ du sĩ ngoại đạonghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, và sa di ni.
Y của sa-môn nghĩa là đề cập đến việc làm thành được phép đã được thực hiện. Vị ni cho thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[248] Vị ni cho đến cha mẹ, vị ni cho mượn (trong thời hạn), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[249] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trải qua mùa (an cư) mưa có ý định phân chia y nên đã tụ họp lại. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, hãy chờ đợi. Có niềm hy vọng về y cho hội chúng tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Này ni sư, hãy đi và tìm hiểu về y ấy.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã đi đến gặp gia đình ấy, sau khi đến đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.
- Thưa ni sư, chúng tôi không thể dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[250] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Niềm hy vọng về y không chắc chắn nghĩa là lời nói đã được phát ra rằng: “Nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y.”
Thời hạn về y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng.
Để cho vượt quá thời hạn về y: khi Kaṭhina không được thành tựu, vị ni để cho vượt quá ngày cuối cùng của mùa mưa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi Kaṭhina được thành tựu, vị ni để cho vượt quá ngày Kaṭhina hết hiệu lực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[251] Khi y không chắc chắn, nhận biết là y không chắc chắn,[3]vị ni để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi y không chắc chắn, có sự hoài nghi, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi y không chắc chắn, (lầm) tưởng là được chắc chắn, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y thì vô tội.
Khi y được chắc chắn, (lầm) tưởng là không chắc chắn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi y được chắc chắn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi y được chắc chắn, nhận biết là được chắc chắn thì vô tội.
[252] Vị ni cản trở sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[253] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có ngôi trú xá dành cho hội chúng đã được nam cư sĩ nọ cho xây dựng. Vào dịp lễ của ngôi trú xá ấy, người ấy có ý định dâng y ngoài hạn kỳ đến cả hai hội chúng. Vào lúc bấy giờ, kaṭhina của cả hai hội chúng đã được thành tựu. Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thâu hồi Kaṭhina. Và này các tỳ khưu, Kaṭhina nên được thâu hồi như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thâu hồi Kaṭhina. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng thâu hồi Kaṭhina. Đại đức nào đồng ý với việc thâu hồi Kaṭhina xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Kaṭhina đã được hội chúng thâu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[254] Sau đó, nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng tỳ khưu ni và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Sẽ có y cho chúng ta” nên đã ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại không cho sự thâu hồi Kaṭhina của chúng tôi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[255] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là vị “tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi thâu hồi.
Ngăn cản: vị ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể thâu hồi Kaṭhina này như thế nào?” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[256] Đúng pháp, nhận biết là đúng pháp, vị ni ngăn cản thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Đúng pháp, (lầm) tưởng là sai pháp, vị ni ngăn cản thì vô tội.
Sai pháp, (lầm) tưởng là đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sai pháp, nhận biết là sai pháp thì vô tội.
[257] Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Lõa Thể là phần thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[258] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni hai (người) nằm chung trên một chiếc giường. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc giường, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc giường?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni hai (người) nằm chung trên một chiếc giường, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc giường vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Các tỳ khưu ni nào hai (người) nằm chung trên một chiếc giường thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[259] Các vị ni nào: là bất cứ các vị ni nào ...(như trên)...
Các tỳ khưu ni: các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.
Hai (người) nằm chung trên một chiếc giường: khi một vị ni đang nằm vị ni kia nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai cùng nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đứng dậy rồi cùng nằm xuống lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[260] Khi một vị ni đang nằm thì vị ni kia ngồi, hoặc cả hai đều ngồi, các vị ni bị điên, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[261] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni hai (người) nằm chung một tấm trải tấm đắp. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung một tấm trải tấm đắp, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung một tấm trải tấm đắp?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni hai (người) nằm chung một tấm trải tấm đắp, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung một tấm trải tấm đắp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Các tỳ khưu ni nào hai (người) nằm chung một tấm trải tấm đắp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[262] Các vị ni nào: là bất cứ các vị ni nào ...(như trên)...
Các tỳ khưu ni: các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.
Hai (người) nằm chung một tấm trải tấm đắp: sau khi trải ra bằng chính tấm ấy họ lại đắp bằng chính tấm ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[263] Chung một tấm trải tấm đắp, nhận biết là chung một tấm trải tấm đắp, (hai vị ni) nằm chung thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chung một tấm trải tấm đắp, có sự hoài nghi, (hai vị ni) nằm chung thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chung một tấm trải tấm đắp, (lầm) tưởng là khác tấm trải tấm đắp, (hai vị ni) nằm chung thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chung tấm trải, khác tấm đắp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khác tấm trải, chung tấm đắp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khác tấm trải tấm đắp, (lầm) tưởng là chung một tấm trải tấm đắp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khác tấm trải tấm đắp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khác tấm trải tấm đắp, nhận biết là khác tấm trải tấm đắp thì vô tội.
[264] Sau khi chỉ rõ sự sắp xếp[4]rồi (cả hai) nằm xuống, các vị ni bị điên, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[265] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Bhaddā Kāpilānī cũng là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại và được xem là nổi bật. Dân chúng (nghĩ rằng): “Ni sư Bhaddā Kāpilānī là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại và được xem là nổi bật” nên thăm viếng Bhaddā Kāpilānī trước tiên sau đó mới thăm viếng tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā có bản chất ganh tỵ (nghĩ rằng): “Nghe nói các cô này ít ham muốn, tự biết đủ, tách ly, không tụ hội thì chính các cô này sống có nhiều sự giao hảo có nhiều sự khuếch trương” rồi đi tới lui, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống, rồi đọc tụng, rồi bảo đọc tụng, rồi học bài ở phía trước Bhaddā Kāpilānī.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cố ý quấy rầy ni sư Bhaddā Kāpilānī?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cố ý quấy rầy Bhaddā Kāpilānī, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cố ý quấy rầy Bhaddā Kāpilānī vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cố ý quấy rầy vị tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[263] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu ni: là vị tỳ khưu ni khác.
Cố ý: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Quấy rầy: Vị ni (nghĩ rằng): “Do việc này sự không thoải mái sẽ có cho người này ” không hỏi ý rồi đi tới lui, hoặc đứng lại, hoặc ngồi xuống, hoặc nằm xuống, hoặc đọc tụng, hoặc bảo đọc tụng, hoặc học bài ở phía trước thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[267] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[268] Không có ý định quấy rầy, hỏi ý rồi đi tới lui hoặc đứng lại hoặc ngồi xuống hoặc nằm xuống hoặc đọc tụng hoặc bảo đọc tụng hoặc học bài ở phía trước, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[269] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[270] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bị ốm đau nghĩa là bị bệnh.
Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.
Không chăm sóc: không tự mình chăm sóc.
Không nỗ lực kiếm người chăm sóc: không chỉ thị người khác. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ không chăm sóc cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị không chăm sóc người nữ học trò hoặc người nữ chưa tu lên bậc trên cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[271] Trong khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm không có được (người chăm sóc), vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[272] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Bhaddā Kāpilānī đã vào mùa (an cư) mưa ở thành Sāketa. Vị ni ấy vì công việc cần làm nào đó đã phái người đưa tin đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā (nhắn rằng):
- Nếu ni sư Thullanandā có thể cho tôi chỗ trú ngụ thì tôi có thể đi đến Sāvatthi.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói như vầy:
- Hãy đi đến, tôi sẽ cho.
Sau đó, Bhaddā Kāpilānī đã từ thành Sāketa đi đến thành Sāvatthi. Tỳ khưu ni Thullanandā đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ.
Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Bhaddā Kāpilānī cũng là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại, và được xem là nổi bật. Dân chúng (nghĩ rằng): “Ni sư Bhaddā Kāpilānī là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại, và được xem là nổi bật” nên thăm viếng Bhaddā Kāpilānī trước tiên sau đó mới thăm viếng tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā có bản chất ganh tỵ (nghĩ rằng): “Nghe nói các cô này ít ham muốn, tự biết đủ, tách ly, không tụ hội thì chính các cô này sống có nhiều sự giao hảo có nhiều sự khuếch trương” rồi nổi giận bất bình đã lôi kéo Bhaddā Kāpilānī ra khỏi chỗ trú ngụ. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đã cho ni sư Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đã cho chỗ trú ngụ đến vị tỳ khưu ni lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[273] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đến vị tỳ khưu ni: đến vị tỳ khưu ni khác.
Chỗ trú ngụ nghĩa là chỗ có gắn liền cánh cửa được đề cập đến.
Sau khi đã cho: sau khi tự mình cho.
Nổi giận, bất bình:không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.
Lôi kéo ra: Sau khi nắm lấy ở trong phòng rồi lôi kéo ra phía trước thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi nắm lấy ở phía trước rồi lôi kéo ra bên ngoài thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Với một lần ra sức, mặc dầu làm cho (vị ni kia) vượt qua nhiều cánh cửa (vị ni ấy) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo lôi kéo ra: vị ni ra lệnh người khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, mặc dầu làm cho (vị ni kia) vượt qua nhiều cánh cửa (vị ni ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[274] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rathì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rathì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rathì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rakhỏi chỗ không có gắn liền cánh cửa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra người nữ chưa tu lên bậc trên khỏi chỗ có gắn liền cánh cửa hoặc chỗ không có gắn liền cánh cửa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của cô kia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[275] Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni không biết hổ thẹn, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni bị điên, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni thường gây nên các sự xung đột, ... vị ni thường gây nên sự cãi cọ, ... vị ni thường gây nên sự tranh luận, ... vị ni thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, ... vị ni thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra người nữ đệ tử hoặc người nữ học trò không thực hành phận sự đúng đắn, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia; vị ni bị điên; vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[276] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī lại sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī lại sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sống thân cận với nam gia chủ hoặc với con trai gia chủ, vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[277] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Sống thân cận: sống thân cận với (hành động thuộc về) thân và khẩu không đúng đắn.
Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Con trai của gia chủ nghĩa là bất cứ những người nào là con trai hoặc anh em trai.
[278] Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni sống thân cận.
Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[279] Vị tỳ khưu ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[280] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[281] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[282] Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[283] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Những kẻ vô lại làm ô uế. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[284] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ở trong quốc độ: vị ni sống trong khu vực chiếm giữ của người nào tức là trong quốc độ của người ấy.
Có sự nguy hiểm nghĩa là ở trên con đường ấy, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là ở trên con đường ấy, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.
Không cùng với đoàn xe nghĩa là không có đoàn xe.
Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.[5]
[285] Vị ni đi cùng với đoàn xe, vị ni đi trong vùng an toàn không có sự kinh hoàng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[286] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni đi du hành không cùng với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Những kẻ vô lại làm ô uế. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đi du hành không cùng với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi du hành không cùng với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[287] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bên ngoài quốc độ: vị ni sống trong khu vực chiếm giữ của người nào thì trừ ra khu vực ấy, ở trong quốc độ của người khác.
Có sự nguy hiểm nghĩa là ở trên con đường ấy, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là ở trên con đường ấy, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.
Không cùng với đoàn xe nghĩa là không có đoàn xe.
Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.
[288] Vị ni đi cùng với đoàn xe, vị ni đi trong vùng an toàn không có sự kinh hoàng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[289] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni đi du hành trong mùa (an cư) mưa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa? Các vị đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại hàng loạt nhiều chúng sanh nhỏ nhoi.
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đi du hành trong mùa (an cư) mưa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi du hành trong mùa (an cư) mưa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[290] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong mùa (an cư) mưa: sau khi đã không sống (an cư mùa mưa) ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.
Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.
[285] Vị ni đi vì công việc cần làm trong bảy ngày, vị ni đi khi bị quấy rối bởi điều gì đó, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[292] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni sống mùa mưa ở ngay tại nơi ấy trong thành Rājagaha, mùa lạnh tại nơi ấy, mùa nóng tại nơi ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các hướng đi của các tỳ khưu ni bị tắt nghẽn, tăm tối. Các hướng đi không còn được các vị ni này nhận ra nữa.
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ...(như trên)... nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa mà không ra đi du hành cho dầu chỉ năm hoặc sáu do tuần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[293] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Khi trải qua mùa (an cư) mưa nghĩa là đã trải qua (mùa an cư mưa) ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không ra đi du hành cho dầu chỉ năm hoặc sáu do tuần,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[294] Khi có trường hợp nguy hiểm, vị ni tìm kiếm nhưng không có được vị tỳ khưu ni thứ hai, vị ni bị bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Dùng Chung là phần thứ tư.
*******
[1]Nếu tính gang tay của đức Thiện Thệ theo kích thước của người bình thường là 0,25 cm thì kích thước vải choàng tắm của tỳ khưu ni là 1 m x 0,5 m. Vải choảng tắm mưa của các tỳ khưu lớn hơn: 1,50 m x 0, 625 m.
[2]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng cứ mỗi y là tính một tội pācittiya.
[3]“dubbalacīvare dubbalacīvarasaññā ...” nên hiểu là: “Khi (niềm hy vọng về) y không chắc chắn, nhận biết là (niềm hy vọng về) y không chắc chắn ...”
[4]Ngài Buddhaghosa giảng rằng: “Các vị ni sau khi đã đặt ở giữa tấm y ca-sa, hoặc cây gậy chống, hoặc chỉ là sợi dây lưng rồi nằm xuống thì không phạm tội.”
[5]Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[295] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tranh ảnh gợi cảm được thực hiện ở nhà triển lãm tranh nơi công viên của đức vua Pasenadi xứ Kosala. Nhiều người đi để xem nhà triển lãm tranh. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư cũng đã đi để xem nhà triển lãm tranh. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại đi để xem nhà triển lãm tranh, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem nhà triển lãm tranh?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đi để xem nhà triển lãm tranh, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem nhà triển lãm tranh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi để xem hí viện của đức vua hoặc nhà triển lãm tranh hoặc khu vườn hoặc công viên hoặc hồ sen thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[296] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hí viện của đức vua nghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho đức vua giải trí và hưởng lạc.
Nhà triển lãm tranh nghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.
Khu vườn nghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.
Công viên nghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.
Hồ sen nghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.
Vị ni đi để xem thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị ni lại nhìn nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị đi để xem mỗi một nơi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị ni lại nhìn nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[297] Vị ni đứng ở trong tu viện nhìn thấy, vị ni nhìn thấy trong khi đi ra hoặc đi về, khi có việc cần phải làm vị ni đi rồi nhìn thấy, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[298] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sử dụng ghế cao hoặc ghế nệm lông thú thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[299] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ghế cao nghĩa là sự vượt quá kích thước được đề cập đến.
Ghế nệm lông thú nghĩa là được thực hiện với các lông thú đã được mang lại.
Sử dụng: vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[300] Vị ni sử dụng sau khi đã cắt các chân của ghế cao, vị ni sử dụng sau khi đã hủy bỏ các lông thú của ghế nệm lông thú, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[301] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư xe chỉ sợi. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại xe chỉ sợi, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại xe chỉ sợi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni xe chỉ sợi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại xe chỉ sợi vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào xe chỉ sợi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[302] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chỉ sợi nghĩa là có sáu loại chỉ sợi: loại bằng sợi lanh (khomaṃ), loại bằng bông vải (kappāsikaṃ), loại bằng tơ lụa (koseyyaṃ), loại bằng sợi len (kambalaṃ), loại bằng gai thô (sāṇam), loại bằng chỉ bố (bhaṅgaṃ).
Xe (chỉ): vị ni tự mình xe (chỉ). Khi khởi sự thì phạm tội dukkaṭa (tác ác), mỗi một vòng quay thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[303] Vị ni xe lại chỉ sợi đã được xe (không tốt hoặc bị đứt), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[304] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni phục vụ người tại gia. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại phục vụ người tại gia?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni phục vụ người tại gia, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại phục vụ người tại gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào phục vụ người tại gia thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[305] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Phục vụ người tại gia nghĩa là vị ni nấu cháo hoặc (nấu) bữa ăn hoặc (nấu) vật thực loại cứng hoặc giặt tấm vải choàng hoặc (giặt) khăn đội đầu cho người tại gia thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[306] Trường hợp nước cháo, khi có bữa thọ thực của hội chúng, khi cúng dường bảo tháp, vị ni nấu cháo hoặc (nấu) bữa ăn hoặc (nấu) vật thực loại cứng hoặc giặt tấm vải choàng hoặc (giặt) khăn đội đầu cho người phục vụ của bản thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[307] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā và đã nói điều này:
- Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã trả lời rằng:
- Tốt thôi!
Rồi không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā khi được vị tỳ khưu ni nói rằng: “Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này” đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” lại không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā khi được vị tỳ khưu ni nói rằng: “Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này” đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” rồi không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi được vị tỳ khưu ni nói rằng: “Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này” đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” lại không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi được nói bởi vị tỳ khưu ni rằng: ‘Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này’ đã trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại vẫn không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[308] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bởi vị tỳ khưu ni: bởi vị tỳ khưu ni khác.
Sự tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này: Thưa ni sư, hãy đến. Hãy xét xử sự tranh tụng này.
Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại: khi không có trở ngại.
Không giải quyết: không tự mình giải quyết.
Không nỗ lực cho việc giải quyết: không chỉ thị cho vị khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[309] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết sự tranh tụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết sự tranh tụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết sự tranh tụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết sự tranh tụng của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[310] Khi có trường hợp trở ngại, vị ni tìm kiếm nhưng không đạt được (cơ hội), vị ni bị bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[311] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống (nói rằng):
- Hãy nói lời khen ngợi về ta ở đám đông.
Các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống nói lời khen ngợi về tỳ khưu ni Thullanandā ở đám đông rằng:
- Ni sư Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Hãy bố thí đến ni sư. Hãy phục vụ cho ni sư.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến người nam tại gia?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến người nam tại gia, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến người nam tại gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềm đến người nam tại gia hoặc nam du sĩ ngoại đạo hoặc nữ du sĩ ngoại đạo thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[312] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là vị “tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nam tại gia nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Nam du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nam nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu và sa di.
Nữ du sĩ ngoại đạonghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, và sa di ni.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, nước và tăm xỉa răng, phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt.
Cho:vị ni cho bằng thân hoặc bằng vật được gắn liền với thân hoặc bằng cách buông ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni cho nước uống và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[313] Vị ni bảo (người khác) cho không (tự mình) cho, vị ni cho sau khi đã để gần bên, vị ni cho vật thoa bên ngoài, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[314] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sử dụng y nội trợ (āvasathacīvaraṃ) không chịu xả bỏ; các vị ni khác đến thời kỳ không có được (để sử dụng). Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[315] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Y nội trợ nghĩa là vật đã được bố thí (nói rằng): “Các tỳ khưu ni đến thời kỳ hãy sử dụng.”
Sử dụng không chịu xả bỏ: vị ni sau khi sử dụng hai ba đêm, sau khi giặt vào ngày thứ tư, vẫn sử dụng không chịu xả bỏ cho vị tỳ khưu ni, hoặc cô ni tu tập sự, hoặc vị sa di ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[316] Khi chưa xả bỏ, nhận biết là chưa xả bỏ, vị ni sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa xả bỏ, có sự hoài nghi, vị ni sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa xả bỏ, (lầm) tưởng là đã xả bỏ, vị ni sử dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã xả bỏ, (lầm) tưởng là chưa xả bỏ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã xả bỏ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã xả bỏ, nhận biết là đã xả bỏ thì vô tội.
[317] Sau khi đã xả bỏ rồi sử dụng, vị ni sử dụng khi đến phiên lần nữa, không có các tỳ khưu ni khác đến thời kỳ, vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[318] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi không xả bỏ chỗ trú ngụ đã ra đi du hành. Vào lúc bấy giờ, chỗ trú ngụ của tỳ khưu ni Thullanandā bị cháy. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Này các ni sư, chúng ta hãy mang đồ đạc ra ngoài đi.
Một số vị ni đã nói như vầy:
- Này các ni sư, chúng ta sẽ không mang ra ngoài. Bất cứ vật gì bị hư hỏng, tất cả sẽ không có liên quan đến chúng ta.
Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi quay trở về lại chỗ trú ngụ ấy đã hỏi các tỳ khưu ni rằng:
- Này các ni sư, các cô có mang đồ đạc ra ngoài không?
- Này ni sư, chúng tôi đã không mang ra ngoài.
Tỳ khưu ni Thullanandā phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao trong khi chỗ trú ngụ đang bị cháy các tỳ khưu ni lại không mang đồ đạc ra ngoài?
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ mà ra đi du hành thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[319] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chỗ trú ngụ nghĩa là (chỗ trú ngụ) có gắn cánh cửa được đề cập đến.
Khi chưa xả bỏ mà ra đi du hành: Sau khi chưa xả bỏ cho vị tỳ khưu ni, hoặc cô ni tu tập sự, hoặc vị sa di ni, trong khi vượt qua hàng rào của chỗ trú ngụ được rào lại vị ni phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong khi vượt qua vùng phụ cận của chỗ trú ngụ không được rào lại, vị ni phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[320] Khi chưa xả bỏ, nhận biết là chưa xả bỏ, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa xả bỏ, có sự hoài nghi, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa xả bỏ, (lầm) tưởng là đã xả bỏ, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni ra đi khi chưa xả bỏ chỗ không có gắn cánh cửa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã xả bỏ, (lầm) tưởng là chưa xả bỏ, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã xả bỏ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã xả bỏ, nhận biết là đã xả bỏ thì vô tội.
[321] Sau khi đã xả bỏ rồi ra đi, khi có sự nguy hiểm, sau khi tìm kiếm (người để trông nom chỗ trú ngụ) nhưng không có, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[322] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm nhí (tiracchānavijjaṃ). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại học tập kiến thức nhảm nhí, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại học tập kiến thức nhảm nhí?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm nhí, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại học tập kiến thức nhảm nhí vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào học tập kiến thức nhảm nhí thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[323] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Kiến thức nhảm nhí nghĩa là bất cứ điều gì ở bên ngoài (thế tục) không liên hệ mục đích.
Học tập: vị ni học tập theo câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng câu. Vị ni học tập theo âm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng âm.
[324] Vị ni học tập chữ viết, vị ni học tập sự ghi nhớ (thuộc lòng), vị ni học tập kinh paritta để hộ thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[325] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí (tiracchānavijjaṃ). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại dạy kiến thức nhảm nhí, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại dạy kiến thức nhảm nhí?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại dạy kiến thức nhảm nhí vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào dạy kiến thức nhảm nhí thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[326] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Kiến thức nhảm nhí nghĩa là bất cứ điều gì ở bên ngoài (thế tục) không liên hệ mục đích.
Học tập: vị ni dạy theo câu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng câu. Vị ni dạy theo âm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng âm.
[327] Vị ni dạy chữ viết, vị ni dạy sự ghi nhớ (thuộc lòng), vị ni dạy kinh paritta để hộ thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Nhà Triển Lãm Tranh là phần thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[328] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu chỉ mặc có một y đang làm công việc may y ở trú xứ là thôn làng. Các tỳ khưu ni không báo trước đã đi vào tu viện rồi đi đến gặp các tỳ khưu ấy. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni khi chưa báo trước lại đi vào tu viện?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni khi chưa báo trước lại đi vào tu viện, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni khi chưa báo trước lại đi vào tu viện vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào chưa báo trước mà đi vào tu viện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[329] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ấy đã rời khỏi trú xứ ấy. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi khỏi” nên đã không đi đến tu viện. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi đến” nên đã báo trước rồi đi vào tu viện và đã đi đến gặp các tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ các tỳ khưu ấy rồi đứng ở một bên. Các vị tỳ khưu ấy đã nói với các tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này:
- Này các sư tỷ, tại sao các vị lại không quét tu viện cũng không đem lại nước uống nước rửa?
- Thưa các ngài đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Khi chưa báo trước không được đi vào tu viện;” vì thế chúng tôi đã không đến.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào tu viện có báo trước vị tỳ khưu hiện hiện. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện mà đi vào tu viện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[330] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ấy sau khi đi khỏi trú xứ ấy đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi đến” nên đã đi vào tu viện không báo trước. Sự ngần ngại đã khởi lên cho các vị ni ấy: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện không được đi vào tu viện;’ và chúng ta chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện đã đi vào tu viện, phải chăng chúng ta đã phạm tội pācittiya?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
...(như trên)...
- Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào biết tu viện có tỳ khưu, chưa báo trước lại đi vào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[331] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ni ấy, hoặc các vị (tỳ khưu) ấy thông báo.
Tu viện có tỳ khưu nghĩa là nơi nào có các tỳ khưu cư ngụ cho dù ở gốc cây.
Chưa báo trước lại đi vào tu viện:khi chưa báo trước vị tỳ khưu hoặc vị sa di hoặc người phụ việc chùa, trong khi vượt qua hàng rào của tu viện được rào lại vị ni phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong khi đi vào vùng phụ cận của tu viện không được rào lại vị ni phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[332] Nơi có tỳ khưu, nhận biết là có tỳ khưu, vị ni đi vào tu viện chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nơi có tỳ khưu, có sự hoài nghi, vị ni đi vào tu viện chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nơi có tỳ khưu, (lầm) tưởng không có tỳ khưu, vị ni đi vào tu viện chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện thì vô tội.
Nơi không có tỳ khưu, (lầm) tưởng là có tỳ khưu, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nơi không có tỳ khưu, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nơi không có tỳ khưu, nhận biết là không có tỳ khưu thì vô tội.
[333] Vị ni đi vào có báo trước vị tỳ khưu hiện diện, khi không có vị tỳ khưu hiện diện vị ni đi vào không có báo trước, vị ni đi nhìn theo đầu (các vị ni đi vào trước), vị ni đi vào nơi các tỳ khưu ni đang tụ hội, con đường băng ngang qua tu viện, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[334] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Upāli là đại đức Kappitaka [1]ngụ ở mộ địa. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni trưởng thượng của các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư qua đời. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã đưa (thi thể) vị tỳ khưu ni ấy đi, thiêu xác ấy, và đã làm bảo tháp ở nơi không xa trú xá của đại đức Kappitaka, rồi thường đi đến nơi bảo tháp ấy khóc lóc. Khi ấy, đại đức Kappitaka bị quấy rầy bởi tiếng khóc ấy nên đã đập vỡ bảo tháp ấy rồi phân tán. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã hội ý rằng:
- Kappitaka này đã phá vỡ bảo tháp của ni sư chúng ta, chúng ta hãy giết lão đi.
Có vị tỳ khưu ni nọ đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Upāli. Đại đức Upāli đã đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Kappitaka. Khi ấy, đại đức Kappitaka đã rời khỏi trú xá rồi ẩn nấp chờ đợi. Sau đó, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã đi đến trú xá của đại đức Kappitaka, sau khi đến đã làm cho trú xá của đại đức Kappitaka bị bao trùm bởi những hòn đá và đất cục rồi bỏ đi (nghĩ rằng): “Kappitaka đã chết!” Sau đó khi trải qua đêm ấy, vào buổi sáng đại đức Kappitaka đã mặc y cầm y bát đi vào thành Vesālī để khất thực. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã nhìn thấy đại đức Kappitaka đang đi khất thực, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
- Kappitaka này còn sống. Vậy ai đã tiết lộ kế hoạch của chúng ta?
Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã nghe được rằng: “Nghe nói kế hoạch của chúng ta đã bị tiết lộ bởi ngài đại đức Upāli.” Các vị ni ấy đã mắng nhiếc đại đức Upāli rằng:
- Tại sao gã thợ cạo lau chùi bụi bặm và dòng dõi hạ tiện này lại tiết lộ kế hoạch của chúng tôi?
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mắng nhiếc ngài đại đức Upāli?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mắng nhiếc Upāli, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mắng nhiếc Upāli vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào mắng nhiếc hoặc nguyền rủa tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[335] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu: là người nam đã tu lên bậc trên.
(Hoặc) mắng nhiếc: (hoặc là) vị mắng nhiếc theo mười sự việc trong sự mắng nhiếc[2]hoặc với bất cứ điều nào của những điều này thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc nguyền rủa: vị gây ra sự sợ hãi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[336] Người nam đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị mắng nhiếc hoặc nguyền rủa người nam chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[337] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[338] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī là vị ni thường gây nên các sự xung đột, các sự cãi cọ, các sự tranh luận, các sự nói chuyện nhảm nhí, và các sự tranh tụng trong hội chúng. Trong khi hành sự đang được thực thi đối với vị ni ấy, tỳ khưu ni Thullanandā phản đối.
[339] Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vào làng vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vắng” nên đã phạt án treo tỳ khưu ni Caṇḍakālī trong việc không nhìn nhận tội. Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong làng đã trở về lại thành Sāvatthi. Trong khi tỳ khưu ni Thullanandā đi về, tỳ khưu ni Caṇḍakālī đã không sắp xếp chỗ ngồi, không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Caṇḍakālī điều này:
- Này cô ni, vì sao trong khi tôi đi về, cô lại không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống vậy?
- Thưa ni sư, bởi vì việc này là như thế, giống như người không được sự quan tâm.
- Này cô ni, vì sao cô lại không được sự quan tâm?
- Thưa ni sư, các tỳ khưu ni này (nói rằng): “Cô này không được sự quan tâm lại ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối” rồi đã phạt án treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.
Tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm rằng: “Những cô ấy ngu dốt! Những cô ấy không kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự.” Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bị kích động rồi chửi rủa nhóm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[340] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bị kích động nghĩa là sự giận dữ được đề cập đến.
Nhóm nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.
Chửi rủa: vị ni chửi rủa rằng: “Những cô ấy ngu dốt! Những cô ấy không kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni chửi rủa nhiều vị tỳ khưu ni hoặc một vị tỳ khưu ni hoặc người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[341] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[342] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ đã thỉnh mời và dâng bữa ăn đến các tỳ khưu ni. Khi thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm), các tỳ khưu ni đã đi đến các gia đình thân quyến rồi một số vị ni đã thọ thực, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi. Sau đó, người bà-la-môn ấy đã nói với hàng xóm điều này:
- Này quý ông, các tỳ khưu ni đã được tôi làm hài lòng. Hãy đến, tôi cũng sẽ làm hài lòng quý ông.
Những người ấy đã nói như vầy:
- Này ông, có phải ông sẽ làm hài lòng chúng tôi không? Ngay cả những vị ni đã được ông thỉnh mời lại còn đi đến các nhà của chúng tôi, một số vị ni đã thọ thực, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni sau khi thọ thực trong nhà của chúng tôi lại thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?
Các tỳ khưu ni đã nghe được người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đã được thỉnh mời hoặc đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[343] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đã được thỉnh mời nghĩa là được thỉnh mời với loại vật thực nào đó của năm loại vật thực.
Đã từ chối (vật thực dâng thêm) nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên (vật thực) được ghi nhận, (vật thực) đã bị khước từ được ghi nhận.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[344] Khi đã được thỉnh mời, nhận biết là đã được thỉnh mời, vị ni nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã được thỉnh mời, có sự hoài nghi, vị ni nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.
Khi đã được thỉnh mời, (lầm) tưởng là chưa được thỉnh mời, vị ni nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.
Vị ni nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[345] Vị ni đã được thỉnh mời nhưng chưa từ chối (vật thực dâng thêm), vị ni uống cháo, vị ni hỏi trước các chủ nhân rồi thọ thực, vị ni thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[346] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ trong lúc đi khất thực ở con đường nọ trong thành Sāvatthi đã đi đến gia đình nọ, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, những người ấy sau khi dâng bữa ăn đến vị tỳ khưu ni ấy rồi đã nói điều này:
- Thưa ni sư, luôn cả các tỳ khưu ni khác hãy đi đến.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỳ khưu ni khác không đi đến?” nên khi đi đến gặp các tỳ khưu ni đã nói điều này:
- Này các ni sư, ở chỗ đàng kia chó thì dữ tợn bò thì hung bạo, là khu vực đầm lầy, chớ có đi đến chỗ ấy.
Có vị tỳ khưu ni khác trong khi đi khất thực ở con đường ấy cũng đã đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, những người ấy sau khi dâng bữa ăn đến vị tỳ khưu ni ấy rồi đã nói điều này:
- Thưa ni sư, tại sao các tỳ khưu ni khác không đi đến?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho những người ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao vị tỳ khưu ni lại bỏn xẻn về gia đình?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni bỏn xẻn về gia đình, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại bỏn xẻn về gia đình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bỏn xẻn về gia đình thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[347] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ (khattiya), gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Bỏn xẻn: vị ni (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỳ khưu ni khác không đi đến?” rồi nói xấu về gia đình trong sự hiện diện của các tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni nói xấu về các tỳ khưu ni trong sự hiện diện của gia đình thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[348] Trong khi không bỏn xẻn về gia đình vị ni giải thích về điều bất tiện đang hiện hữu, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[349] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành Sāvatthi. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Các ni sư đã trải qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn sự giáo giới đã có hiệu quả?
- Này các ni sư, ở nơi ấy không có các tỳ khưu, do đâu mà sự giáo giới sẽ có hiệu quả?
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[350] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trú xứ không có tỳ khưu nghĩa là không thể đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ sống mùa (an cư) mưa” rồi sắp xếp chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Với sự mọc lên của mặt trời thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[351] Các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bỏ đi hoặc hoàn tục hoặc qua đời hoặc chuyển sang phe khác, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[352] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành Sāvatthi. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Các ni sư đã trải qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn đã thỉnh cầu[3]nơi hội chúng tỳ khưu?
- Này các ni sư, chúng tôi không có thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa lại không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa lại không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi trải qua mùa (an cư) mưa không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[353] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Khi trải qua mùa (an cư) mưanghĩa là đã sống (an cư mùa mưa) ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[354] Khi có nguy hiểm, sau khi tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[355] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya (Thích ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến chỗ trú ngụ của các tỳ khưu ni rồi giáo giới các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư điều này:
- Này các ni sư, hãy đi. Chúng ta sẽ đi (nghe) giáo giới.
- Này các ni sư, chúng tôi cũng nên đi vì lý do giáo giới, tuy nhiên các ngài đại đức nhóm Lục Sư đi đến ngay tại đây rồi giáo giới chúng tôi.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại không đi giáo giới?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư không đi giáo giới, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại không đi giáo giới vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[356] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp.
Việc đồng cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[357] Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị tỳ khưu ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[358] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha (Bố Tát) cũng không thỉnh cầu sự giáo giới. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni vào mỗi nửa tháng nên mong mỏi hai việc từ hội chúng tỳ khưu: việc hỏi ngày lễ Uposatha và việc đi đến (để nghe) giáo giới; nếu vượt quá hạn ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[359] Vào mỗi nửa tháng: vào mỗi kỳ Uposatha.
Ngày lễ Uposatha nghĩa là có hai ngày lễ Uposatha: ngày mười bốn và ngày mười lăm.
Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[360] Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị tỳ khưu ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[361] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ cùng người nam một nam với một nữ xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân. Khi ấy, người nam ấy đã gắng sức để làm ô uế vị tỳ khưu ni. Vị tỳ khưu ni ấy đã kêu thét lên. Các tỳ khưu ni đã chạy lại và đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, vì sao cô đã kêu thét lên?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam với một nữ xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi chưa xin phép hội chúng hoặc nhóm lại cùng người nam một nam với một nữ làm cho vỡ ra hoặc xẻ ra hoặc rửa ráy hoặc bôi thuốc hoặc băng lại hoặc tháo băng mụt nhọt hoặc vết loét phát sanh ở phần dưới thân thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[362] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Ở phần dưới thân nghĩa là từ lỗ rún trở xuống từ đầu gối trở lên.
Phát sanh: được sanh lên tại nơi ấy.
Mụt nhọt nghĩa là bất cứ loại mụt nhọt nào.
Vết loét nghĩa là bất cứ loại vết thương nào.
Khi chưa xin phép: chưa có hỏi ý.
Hội chúng nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.
Nhóm nghĩa là nhiều vị tỳ khưu ni được đề cập đến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng làm ô uế.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy làm vỡ ra” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã bị vỡ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy xẻ ra” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được xẻ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy rửa” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được rửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy bôi thuốc” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được bôi thuốc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy băng lại” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được băng lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy tháo băng” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được tháo băng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[363] Vị ni bảo làm cho vỡ ra hoặc bảo xẻ ra hoặc bảo rửa hoặc bảo bôi thuốc hoặc bảo băng lại hoặc bảo tháo băng sau khi đã xin phép, có người nữ nào đó có sự hiểu biết là người nữ thứ nhì, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Tu Viện là phần thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[364] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ mang thai. Cô ấy đi khất thực. Dân chúng đã nói như vầy:
- Hãy bố thí đồ khất thực cho ni sư. Ni sư mang bào thai nặng nề!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ mang thai, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ mang thai thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[365] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ mang thai nghĩa là có sanh mạng đã thành tựu được đề cập đến.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn (ācarinī), hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[366] Người nữ mang thai, nhận biết là người nữ mang thai, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ mang thai, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ mang thai, (lầm) tưởng là người nữ không mang thai, vị ni tiếp độ thì vô tội.
Người nữ không mang thai, (lầm) tưởng là người nữ mang thai, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ không mang thai, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ không mang thai, nhận biết là người nữ không mang thai thì vô tội.
[367] Vị ni tiếp độ người nữ mang thai (lầm) tưởng là không mang thai, vị ni tiếp độ người nữ không mang thai (khi) nhận biết là không mang thai, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[368] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ còn cho con bú. Cô ấy đi khất thực. Dân chúng đã nói như vầy:
- Hãy bố thí đồ khất thực cho ni sư. Ni sư còn có người thứ nhì!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ còn cho con bú, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ còn cho con bú thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[369] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ còn cho con bú nghĩa là người mẹ hoặc là người vú nuôi.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[370] Người nữ còn cho con bú, nhận biết là người nữ còn cho con bú, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ còn cho con bú, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ còn cho con bú, (lầm) tưởng là người nữ không cho con bú, vị ni tiếp độ thì vô tội.
Người nữ không cho con bú, (lầm) tưởng là người nữ còn cho con bú, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ không cho con bú, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ không cho con bú, nhận biết là người nữ không cho con bú thì vô tội.
[371] Vị ni tiếp độ người nữ còn cho con bú (lầm) tưởng là người nữ không cho con bú, vị ni tiếp độ người nữ không cho con bú (khi) nhận biết là người nữ không cho con bú, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[372] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Cô ni tu tập sự ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như vầy). Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội chúng ban cho đến cô ni tu tập sự tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Cô ni tu tập sự ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy:
1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm.
2. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự lấy vật không được cho (trộm cắp) không vi phạm trong hai năm.
3. Tôi xin thọ trì việc tránh xa điều phi Phạm hạnh (hành dâm) không vi phạm trong hai năm.
4. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự nói dối không vi phạm trong hai năm.
5. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men không vi phạm trong hai năm.
6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[373] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[374] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[375] Vị ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[376] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật này thành được phép.
Các cô ni ấy đã nói như vầy:
- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự. Chúng tôi là các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.“
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[377] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về sáu pháp.
Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[378] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[379] Vị ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[380] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi. [1]Các cô ấy không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi vậy? Này các tỳ khưu, bởi vì người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người nữ đã kết hôn khi đã đủ mười hai tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[381] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa đủ mười hai tuổinghĩa là chưa đạt đến mười hai tuổi.
Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở chung với người đàn ông.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[382] Khi chưa đủ mười hai tuổi, nhận biết là khi chưa đủ mười hai tuổi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa đủ mười hai tuổi, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa đủ mười hai tuổi, (lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp độ thì vô tội.
Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ mười hai tuổi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, nhận biết là đã tròn đủ thì vô tội.
[383] Vị ni tiếp độ (người nữ đã kết hôn) khi chưa đủ mười hai tuổi (lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp độ (người nữ đã kết hôn) khi đã tròn đủ mười hai tuổi (với sự) nhận biết là đã tròn đủ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[384] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy). Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội chúng ban cho đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy:
1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm.
...(như trên)...
6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[385] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tròn đủ mười hai tuổi nghĩa là đã đạt đến mười hai tuổi.
Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở chung với người đàn ông.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[386] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[387] Vị ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[388] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật này thành được phép.
Các cô ni ấy đã nói như vầy:
- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự. Chúng tôi là các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy), là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy), là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[389] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tròn đủ mười hai tuổi nghĩa là đã đạt đến mười hai tuổi.
Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở chung với người đàn ông.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về sáu pháp.
Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[390] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[391] Vị ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[392] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[393] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.
Sau khi tiếp độ: sau khi cho tu lên bậc trên.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Không dạy dỗ: không tự mình dạy dỗ bằng cách đọc tụng, bằng sự thẩm vấn, bằng sự giáo giới, bằng sự chỉ dạy.
Không bảo người dạy dỗ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm;” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[394] Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[395] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[396] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đã tiếp độ cho: đã cho tu lên bậc trên.
Ni sư tế độ nghĩa là vị ni là thầy tế độ được đề cập đến.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Không hầu cận: không tự mình hầu cận. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không hầu cận trong hai năm;” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[397] Vị ni sư tế độ là vị ni ngu dốt hoặc không có liêm sỉ, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[398] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly. Người chồng đã giữ lại. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly khiến người chồng đã giữ lại? Nếu vị tỳ khưu ni này đã ra đi thì người chồng không thể giữ lại được.
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly khiến người chồng đã giữ lại, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly khiến người chồng đã giữ lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly cho dầu chỉ là năm sáu do tuần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[399] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.
Đã tiếp độ cho: đã cho tu lên bậc trên.
Không cách ly: không tự mình cách ly.
Không làm cho (vị ni ấy) được cách ly: không chỉ thị cho vị khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly cho dầu chỉ là năm sáu do tuần,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[400] Khi có trường hợp nguy hiểm, vị ni tìm kiếm nhưng không có được vị tỳ khưu ni thứ hai, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Sản Phụ là phần thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[401] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi. Các cô ấy không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi vậy? Này các tỳ khưu, bởi vì thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, thiếu nữ đã đủ hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[402] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa đủ hai mươi tuổinghĩa là chưa đạt đến hai mươi tuổi.
Thiếu nữ nghĩa là đề cập đến vị sa di ni.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[403] Khi chưa đủ hai mươi tuổi, nhận biết là chưa đủ hai mươi tuổi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp độ thì vô tội.
Khi đã tròn đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ hai mươi tuổi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã tròn đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã tròn đủ hai mươi tuổi, nhận biết là đã tròn đủ thì vô tội.
[404] Vị ni (lầm) tưởng là đã tròn đủ rồi tiếp độ (thiếu nữ) chưa đủ hai mươi tuổi, vị ni nhận biết là đã tròn đủ rồi tiếp độ (thiếu nữ) đã tròn đủ hai mươi tuổi, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[405] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến thiếu nữ mười tám tuổi. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Thiếu nữ mười tám tuổi ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Thiếu nữ mười tám tuổi ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy:
1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm.
2. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự lấy vật không được cho (trộm cắp) không vi phạm trong hai năm.
3. Tôi xin thọ trì việc tránh xa điều phi Phạm hạnh (sự hành dâm) không vi phạm trong hai năm.
4. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự nói dối không vi phạm trong hai năm.
5. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men không vi phạm trong hai năm.
6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[406] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tròn đủ hai mươi tuổi nghĩa là đã đạt đến hai mươi tuổi.
Thiếu nữ nghĩa là đề cập đến vị sa di ni.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[407] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[408] Vị ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[409] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật này thành được phép.
Các cô ni ấy đã nói như vầy:
- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự. Chúng tôi là các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi ấy đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[410] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tròn đủ hai tuổi nghĩa là đã đạt đến hai mươi tuổi.
Thiếu nữ nghĩa là đề cập đến vị sa di ni.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về sáu pháp.
Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[411] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[412] Vị ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[413] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên). Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các vị ni đệ tử cũng ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên)?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên), có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[414] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa đủ mười hai năm (thâm niên) nghĩa là chưa đạt đến mười hai năm (thâm niên).
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[415] Vị ni tiếp độ khi tròn đủ mười hai năm (thâm niên), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[416] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các vị ni đệ tử cũng ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) lại tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) lại tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu ni đã tròn đủ mười hai năm (thâm niên) ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ.“
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng nên xác định vị tỳ khưu ni ấy rằng: “Vị tỳ khưu ni này có kinh nghiệm, có liêm sỉ.” Nếu là vị ni ngu dốt không có liêm sỉ thì không nên ban cho. Nếu là vị ni ngu dốt có liêm sỉ thì không nên ban cho. Nếu là vị ni có kinh nghiệm không có liêm sỉ thì không nên ban cho. Nếu là vị ni có kinh nghiệm có liêm sỉ thì nên ban cho. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị ni này tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị ni này tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tròn đủ mười hai năm (thâm niên) khi chưa được hội chúng đồng ý mà tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[417] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tròn đủ mười hai năm (thâm niên) nghĩa là đã đạt đến mười hai năm (thâm niên).
Chưa được đồng ý nghĩa là sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[418] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[419] Vị ni tiếp độ khi tròn đủ mười hai năm (thâm niên) và được hội chúng đồng ý, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[420] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī đi đến hội chúng và thỉnh cầu sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni đã xác định tỳ khưu ni Caṇḍakālī rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” rồi đã không ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Tỳ khưu ni Caṇḍakālī đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu ni đã ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến các tỳ khưu ni khác. Tỳ khưu ni Caṇḍakālī phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Chằng lẽ chính tôi là kẻ ngu dốt, chính tôi là kẻ không có liêm sỉ hay sao? Bởi vì hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến các tỳ khưu ni khác mà không ban cho đến chính tôi.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī khi được nói rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” đã trả lời: “Tốt thôi!” sau đó lại tiến hành việc phê phán?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī khi được nói rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” đã trả lời: “Tốt thôi!” sau đó lại tiến hành việc phê phán, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī khi được nói rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” đã trả lời: “Tốt thôi!” sau đó lại tiến hành việc phê phán vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi được nói rằng: ‘Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ’ đã trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[421] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ: Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô ban phép tu lên bậc trên. Khi đã trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[422] Vị ni phê phán (hội chúng) đang hành động theo thói thường vì ưa thích, vì sân hận, vì si mê, vì sợ hãi; vị ni bị điên; vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[423] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có cô ni tu tập sự nọ đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā và cầu xin sự tu lên bậc trên. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với cô ni tu tập sự ấy rằng:
- Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô.
Rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ. Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô,’ vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì vẫn không tiếp độ và cũng không ra sức cho việc tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[424] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.
Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô: như thế thì ta sẽ ban phép tu lên bậc trên cho cô.
Vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì: khi không có sự nguy hiểm.
Không tiếp độ: không tự mình tiếp độ.
Không ra sức cho việc tiếp độ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[425] Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[426] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có cô ni tu tập sự nọ đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā và cầu xin sự tu lên bậc trên. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với cô ni tu tập sự ấy rằng:
- Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô.
Rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ. Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô,’ vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì vẫn không tiếp độ và cũng không ra sức cho việc tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[427] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.
Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm: Nếu cô sẽ phục vụ hai năm (tròn đủ).
Như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô: như thế thì ta sẽ ban phép tu lên bậc trên cho cô.
Vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì: khi không có sự nguy hiểm.
Không tiếp độ: không tự mình tiếp độ.
Không ra sức cho việc tiếp độ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[428] Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[429] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác). Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác)?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác), có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[430] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đàn ông nghĩa là người nam đã đạt đến hai mươi tuổi.
Thanh niên nghĩa là người nam chưa đạt đến hai mươi tuổi.
Thân cận nghĩa là thân cận bằng thân và khẩu không được đúng đắn.
Nhẫn tâm nghĩa là đề cập đến sự giận dữ.
Nguồn gây sầu khổ (cho người khác) nghĩa là người làm sanh khởi khổ đau, đem đến sự buồn rầu cho những người khác.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[431] Vị ni trong lúc không biết rồi tiếp độ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[432] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép. Cha mẹ và người chồng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự không được chúng tôi cho phép?
Các tỳ khưu ni đã nghe được cha mẹ và người chồng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ hoặc người chồng cho phép thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[433] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Cha mẹ nghĩa là đề cập đến các bậc sanh thành.
Người chồng nghĩa là đã được đám cưới với người đó.
Không được cho phép: không có hỏi ý.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[434] Vị ni trong lúc không biết rồi tiếp độ, vị ni sau khi xin phép rồi tiếp độ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI MỘT:
[435] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng: “Ta sẽ tiếp độ cô ni tu tập sự” rồi đã triệu tập các vị tỳ khưu trưởng lão lại, sau khi nhìn thấy nhiều vật thực loại cứng loại mềm lại giải tán các vị tỳ khưu trưởng lão (nói rằng):
- Thưa các ngài đại đức, tôi sẽ không tiếp độ cho cô ni tu tập sự lúc này.
Rồi đã triệu tập Devadatta, Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto rồi tiếp độ cô ni tu tập sự. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa?[2]
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[436] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa: với tập thể đã bị cách ly.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[437] Vị ni tiếp độ với tập thể không bị cách ly, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI HAI:
[438] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ hàng năm. Chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm khiến chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ hàng năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ hàng năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[439] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hàng năm: mỗi năm.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[440] Vị ni tiếp độ cách năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI BA:
[441] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ hai người trong một năm. Như thế ấy, chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Tương tợ như thế, dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm; như thế ấy, chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ hai người trong một năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ hai người trong một năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[442] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong một năm: trong (thời hạn) một năm.
Tiếp độ hai người: cho tu lên bậc trên hai người. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ hai người” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[443] Vị ni tiếp độ một người cách năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Thiếu Nữ là phần thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[444] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sử dụng dù dép. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại sử dụng dù dép, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại sử dụng dù dép?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sử dụng dù dép, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại sử dụng dù dép vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sử dụng dù dép thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[445] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ bị bệnh. Không có dù dép vị ni ấy không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dù dép đối với vị tỳ khưu ni bị bệnh. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh sử dụng dù dép thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[446] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Không bị bệnh nghĩa là không có dù dép vị ni ấy vẫn thoải mái.
Bị bệnh nghĩa là không có dù dép vị ni ấy không được thoải mái.
Dù nghĩa là có ba loại dù: dù trắng, dù bằng sậy, dù bằng lá được buộc theo vòng tròn.
Sử dụng: Vị ni sử dụng dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[447] Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni sử dụng dù dép thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni sử dụng dù dép thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni sử dụng dù dép thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni sử dụng dù không (sử dụng) dép thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni sử dụng dép không (sử dụng) dù thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
[448] Vị ni bị bệnh, vị ni mang trong tu viện, (mang) trong vùng phụ cận tu viện, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[449] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư di chuyển bằng xe. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại di chuyển bằng xe, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại di chuyển bằng xe?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư di chuyển bằng xe, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại di chuyển bằng xe vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào di chuyển bằng xe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[450] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ bị bệnh không thể đi bằng chân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xe đối với tỳ khưu ni bị bệnh. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh di chuyển bằng xe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[451] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Không bị bệnh nghĩa là vị ni ấy có thể đi bằng chân.
Bị bệnh nghĩa là vị ni ấy không thể đi bằng chân.
Xe nghĩa là xe bò, xe kéo, xe hàng, xe ngựa, kiệu khiêng, ghế khiêng.
Di chuyển: Vị ni di chuyển (bằng xe) dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[452] Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni di chuyển bằng xe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni di chuyển bằng xe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni di chuyển bằng xe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
[453] Vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[454] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ thường lui tới với gia đình của người đàn bà nọ. Khi ấy, người đàn bà ấy đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Thưa ni sư, xin hãy trao cái váy này cho người đàn bà tên này.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Nếu ta dùng bình bát đựng rồi đi thì ta sẽ bị mất thể diện” nên đã buộc vào rồi đi. Khi cô ni ấy ở trên đường lộ, sợi chỉ bị đứt khiến (các vật kết vào) bị văng tung toé. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại mang váy, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại mang váy?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni mang váy, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại mang váy vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào mang váy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[455] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Váy nghĩa là bất cứ loại gì choàng ở hông.
Mang: Vị ni mang vào dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[456] Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni mang băng vải buộc ở hông, [1]vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[457] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đeo đồ trang sức của phụ nữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại đeo đồ trang sức của phụ nữ, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đeo đồ trang sức của phụ nữ?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đeo đồ trang sức của phụ nữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đeo đồ trang sức của phụ nữ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đeo đồ trang sức của phụ nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[458] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đồ trang sức của phụ nữ nghĩa là vật đeo ở đầu, vật đeo ở cổ, vật đeo ở cánh tay, vật đeo ở bàn chân, vật đeo ở hông.
Đeo: Vị ni đeo vào dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[459] Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[460] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng vật thơm có màu sắc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tắm bằng vật thơm có màu sắc, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng vật thơm có màu sắc?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng vật thơm có màu sắc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng vật thơm có màu sắc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tắm bằng vật thơm có màu sắc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[461] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vật thơm nghĩa là bất cứ vật gì có mùi thơm.
(Vật) có màu sắc nghĩa là bất cứ vật gì có màu sắc.
Tắm: Vị ni tắm, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi hoàn tất việc tắm phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[462] Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[463] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng bã dầu mè có tẩm hương. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tắm bằng bã dầu mè có tẩm hương, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng bã dầu mè có tẩm hương?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng bã dầu mè có tẩm hương, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng bã dầu mè có tẩm hương vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tắm bằng bã dầu mè có tẩm hương thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[464] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Có tẩm hương nghĩa là bất cứ vật gì có tẩm hương thơm.
Bã dầu mè nghĩa là xác hạt mè được đề cập đến.
Tắm: Vị ni tắm, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi hoàn tất việc tắm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[465] Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni tắm bằng bã dầu mè loại bình thường, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[466] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể). Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể), giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể)?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể), có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể), vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[467] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Bởi) vị tỳ khưu ni: (bởi) vị tỳ khưu ni khác.
Bảo xoa bóp:Vị ni bảo xoa bóp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo chà xát: Vị ni bảo thoa dầu (toàn thân) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[468] Vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM-CHÍN-MƯỜI:
[469] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni bảo cô ni tu tập sự xoa bóp và chà xát (cơ thể). ...(như trên)... bảo sa di ni xoa bóp và chà xát (cơ thể). ...(như trên)... bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể). Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể), giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể)?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể), có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[470] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.
Sa di ni nghĩa là người nữ có liên quan đến mười điều học.
Người nữ tại gia nghĩa là đề cập đến người nữ ở gia đình.
Bảo xoa bóp:Vị ni bảo xoa bóp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo chà xát: Vị ni bảo thoa dầu (toàn thân) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[471] Vì nguyên nhân bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI MỘT:
[472] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa có sự hỏi ý. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa có sự hỏi ý?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa có sự hỏi ý, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa có sự hỏi ý vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa có sự hỏi ý thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[473] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Phía trước vị tỳ khưu: Phía trước người nam đã tu lên bậc trên.
Khi chưa có sự hỏi ý: sau khi không xin phép.
Ngồi xuống trên chỗ ngồi: vị ni ngồi xuống cho dầu ở trên mặt đất cũng phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[474] Khi chưa được hỏi ý, nhận biết là chưa được hỏi ý, vị ni ngồi xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa được hỏi ý, có sự hoài nghi, vị ni ngồi xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa được hỏi ý, (lầm) tưởng là đã được hỏi ý, vị ni ngồi xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã được hỏi ý, (lầm) tưởng là chưa được hỏi ý, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được hỏi ý, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được hỏi ý, nhận biết là đã được hỏi ý thì vô tội.
[475] Vị ni có sự hỏi ý rồi ngồi xuống trên chỗ ngồi, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI HAI:
[476] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni hỏi câu hỏi đến vị tỳ khưu chưa được thỉnh ý trước (anokāsakataṃ). Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ý trước?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ý trước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ý trước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ý trước thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[477] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa được thỉnh ý: không có sự hỏi ý.
Vị tỳ khưu: người nam đã tu lên bậc trên.
Hỏi câu hỏi: Sau khi đã thỉnh ý trước về Kinh, vị ni hỏi Luật hoặc Vi Diệu Pháp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đã thỉnh ý trước về Luật, vị ni hỏi Kinh hoặc Vi Diệu Pháp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đã thỉnh ý trước về Vi Diệu Pháp, vị ni hỏi Luật hoặc Kinh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[478] Khi chưa hỏi ý, nhận biết là chưa hỏi ý, vị ni hỏi câu hỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, có sự hoài nghi, vị ni hỏi câu hỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, (lầm) tưởng là đã hỏi ý, vị ni hỏi câu hỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã hỏi ý, (lầm) tưởng là chưa hỏi ý, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, nhận biết là đã hỏi ý thì vô tội.
[479] Vị ni hỏi sau khi đã thỉnh ý, vị ni hỏi bất cứ phạm vi nào sau khi đã thỉnh ý không giới hạn (phạm vi câu hỏi), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN DÙ DÉP - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI BA:
[480] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ không mặc áo lót[2]đã đi vào làng khất thực. Khi vị ni ấy đang ở trên đường lộ, các cơn gió xoáy đã hất tung y hai lớp lên. Dân chúng đã la lớn lên rằng:
- Ngực và bụng của ni sư đẹp!
Vị tỳ khưu ni ấy trong khi bị dân chúng chế giễu đã xấu hổ. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã đi về ni viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni không mặc áo lót lại đi vào làng?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni không mặc áo lót đi vào làng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni không mặc áo lót lại đi vào làng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không mặc áo lót đi vào làng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[481] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Không mặc áo lót: thiếu đi áo lót.
Áo lót nghĩa là nhằm mục đích che kín phần dưới xương đòn (ở cổ) và phần trên lỗ rún.
Đi vào làng: Vị ni trong lúc vượt qua hàng rào của làng được rào lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni trong lúc đi vào vùng phụ cận của làng không được rào lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[482] Vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, vị ni bị bệnh, khi bị thất niệm, trong lúc không biết, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Dù Dép là phần thứ chín.
*******
[483] Bạch chư đại đức ni, một trăm sáu mươi sáu điều pācittiya (ưng đối trị)[3]đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Pācittiya (Ưng Đối Trị).
********
Bạch chư đại đức ni, tám điều pāṭidesanīya (ưng phát lộ) này được đưa ra đọc tụng.
[484] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ý? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[485] Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu ni bị bệnh. Các tỳ khưu ni thăm hỏi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu ni bị bệnh điều này:
- Này các ni sư, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Này các ni sư, trước đây chúng tôi yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán,” trong lúc ngần ngại nên không yêu cầu, vì thế chúng tôi không được thoải mái.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ni bị bệnh được yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
[486] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Không bị bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có bơ lỏng.
Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có bơ lỏng.
Bơ lỏng (sappi) nghĩa là bơ lỏng từ loài bò, hoặc là bơ lỏng từ loài dê, hoặc là bơ lỏng từ loài trâu, hoặc bơ lỏng từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng).[4]
Vị ni không bị bệnh yêu cầu cho nhu cầu của bản thân, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Nghĩ rằng): “Với sự đạt được, ta sẽ thọ dụng” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
[487] Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
[488] Vị ni bị bệnh, sau khi bị bệnh rồi yêu cầu thì hết bệnh và thọ dụng, vị ni thọ dụng phần còn lại của vị ni bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[489] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư yêu cầu dầu ăn rồi thọ dụng.
(Có sự thu gọn) yêu cầu mật ong rồi thọ dụng. ...(như trên)... yêu cầu đường mía rồi thọ dụng. ...(như trên)... yêu cầu cá rồi thọ dụng. ...(như trên)... yêu cầu thịt rồi thọ dụng. ...(như trên)... yêu cầu sữa tươi rồi thọ dụng. ...(như trên)... yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ý? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[490] Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu ni bị bệnh. Các tỳ khưu ni thăm hỏi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu ni bị bệnh điều này:
- Này các ni sư, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?
- Này các ni sư, trước đây chúng tôi yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán,” trong lúc ngần ngại nên không yêu cầu, vì thế chúng tôi không được thoải mái.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ni bị bệnh được yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
[491] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Không bị bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có sữa đông.
Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có sữa đông.
Dầu ăn (telaṃ) nghĩa là dầu mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa mật ong, dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú.
Mật ong (madhu) nghĩa là mật của loài ong.
Đường mía (phāṇitaṃ) nghĩa là được sản xuất từ cây mía.
Cá (maccho) nghĩa là loài di chuyển trong nước được đề cập đến.
Thịt (maṃsaṃ) nghĩa là thịt của các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng).
Sữa tươi (khīraṃ) nghĩa là sữa tươi từ loài bò, hoặc là sữa tươi từ loài dê, hoặc là sữa tươi từ loài trâu, hoặc là sữa tươi từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng).
Sữa đông (dadhi) nghĩa là sữa đông của chính các loài thú ấy.
Vị ni không bị bệnh yêu cầu cho nhu cầu của bản thân, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Nghĩ rằng): “Với sự đạt được, ta sẽ thọ dụng” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
[492] Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng thì phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).
Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
[493] Vị ni bị bệnh, sau khi bị bệnh rồi yêu cầu thì hết bệnh và thọ dụng, vị ni thọ dụng phần còn lại của vị ni bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[494] Bạch chư đại đức ni, tám điều pāṭidesanīya (ưng phát lộ)đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Chương Pāṭidesanīya (Ưng Phát Lộ).
*******
Bạch chư đại đức ni, các sekhiyādhammā[5](ưng học pháp) này được đưa ra đọc tụng.
[495] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư quấn y (nội) lòng thòng phía trước và phía sau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại quấn y (nội) lòng thòng phía trước và phía sau giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại quấn y (nội) lòng thòng phía trước và phía sau?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư quấn y (nội) lòng thòng phía trước và phía sau, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại quấn y (nội) lòng thòng phía trước và phía sau vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ mặc y (nội) tròn đều” là điều học nên được thực hành.
[496] Nên mặc y nội cho tròn đều với việc che kín ở vòng bụng nơi lỗ rún và vòng đầu gối. Vị ni nào mặc y nội lòng thòng ở phía trước hoặc phía sau do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[497] Vị ni không cố ý, khi thất niệm, vị ni không biết, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
(Có sự thu gọn)
[498] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước?
Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước” là điều học nên được thực hành. Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.
[499] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni bị bệnh ngần ngại khi đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ni bị bệnh được đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước khi không bị bệnh” là điều học nên được thực hành.
[500] Vị ni không bệnh không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước. Vị ni nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[501] Vị ni không cố ý, khi thất niệm, vị ni không biết, vị ni bị bệnh, sau khi thực hiện trên đất rồi xối nước, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni có tâm bị rối loạn, vị ni bị thọ khổ hành hạ, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
[502] Bạch chư đại đức ni, các sekhiyādhammā(ưng học pháp)đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Sekhiya (Sekhiyā niṭṭhitā).
*******
VII. CÁC PHÁP DÀN XẾP TRANH TỤNG
(ADHIKARAṆASAMATHĀ DHAMMĀ)
[503] Bạch chư đại đức ni, bảy pháp dàn xếp tranh tụng này được đưa ra đọc tụng.
Nhằm đưa đến sự dàn xếp, nhằm đưa đến sự giải quyết các sự tranh tụng đã sanh khởi hoặc chưa sanh khởi, nên áp dụng cách hành xử Luật với sự hiện diện (sammukhāvinayo), nên áp dụng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ (sativinayo), nên áp dụng cách hành xử Luật khi không điên cuồng (amūḷhavinayo), nên phán xử theo sự thừa nhận (paṭiññāya), thuận theo số đông (yebhuyyasikā), theo tội của vị ấy (tassapāpiyasikā), cách dùng cỏ che lấp (tiṇavatthārako).
Bạch chư đại đức ni, bảy pháp dàn xếp tranh tụng đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt các Pháp Dàn Xếp Tranh Tụng.
*******
[504] Bạch chư đại đức ni, phần mở đầu (nidāna) đã được đọc tụng, tám điều pārājika (bất cộng trụ) đã được đọc tụng, mười bảy điều saṅghādisesa (tăng tàng) đã được đọc tụng, ba mươi điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) đã được đọc tụng, một trăm sáu mươi sáu điều pācittiya (ưng đối trị) đã được đọc tụng, tám điều pāṭidesanīya (ưng phát lộ) đã được đọc tụng, các sekhiyā dhammā (ưng học pháp) đã được đọc tụng, bảy adhikaraṇasamathā dhammā (pháp dàn xếp tranh tụng) đã được đọc tụng.
Bấy nhiêu của đức Thế Tôn ấy đã được truyền lại trong giới bổn, đã được đầy đủ trong giới bổn, được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng. Chính tất cả (chư đại đức ni) nên học tập các điều học ấy với sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ.
Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni được chấm dứt.
*******
[1]Được đề cập ở Tiểu Phẩm - Cullavagga, chương X, [571, 572].
[2]Một trong năm thứ y của vị tỳ khưu ni cần phải có khi tu lên bậc trên: y hai lớp (saṅghāṭi), thượng y, y nội, áo lót, vải choàng tắm (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương X, [575]).
[3]Lời giải thích của ngài Buddhaghosa được tóm lược như sau: Tổng số giới pācittiya (ưng đối trị) của tỳ khưu ni là 166 điều, và đã được trình bày ở đây là 96 điều và 70 điều còn lại là những điều đã quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni và được trình bày trong Phân Tich Giới Tỳ khưu - Bhikkhuvibhaṅga. Trong số 92 điều ưng đối trị của tỳ khưu, thay vì tìm 70 điều là phần quy định chung, chúng ta sẽ bớt đi 22 điều quy định riêng cho tỳ khưu gồm có: 10 điều thuộc phần giáo giới (21-30), 4 điều thuộc phần vật thực: Trường hợp vật thực thỉnh sau (33), thọ thực thức ăn không phải là đồ thừa (35), mời thức ăn không phải là đồ thừa rồi buộc tội (36), yêu cầu các loại vật thực thượng hạng (39); thêm vào 8 điều nữa là: Bố thí đến tu sĩ ngoại đạo (41), che giấu tội xấu xa (64), cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi (65), hẹn hò rồi đi chung đường xa với người nữ (67), đi vào hậu cung của đức vua (83), vào làng lúc sái thời chưa thông báo vị tỳ khưu hiện diện (85), tọa cụ (89), y choàng tắm mưa (92). Tổng cộng là 22 điều.
[4]Thịt của mười loài thú vị tỳ khưu không được dùng được đề cập ở Đại Phẩm – Mahāvagga tập 2, chương VI, [59, 60] gồm có: thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó, thịt rắn, thịt sư tử, thịt hổ, thịt beo, thịt gấu, thịt chó sói.
[5]Sekhiya: (phân từ vị lai thể thụ động, từ ngữ căn √sikkh) nghĩa là cần được học tập, nên được rèn luyện.