(18 – 4 – 2009)
MÓN ĂN GIẢI THOÁT
Kính gửi: Các con!
Các con hãy đọc kỹ lại bài này mà Thầy đã cho ghi vào bia đá trong Tu viện Chơn Như với tựa đề: “Món ăn giải thoát”. Món ăn giải thoát là một bài pháp thực hành rất cụ thể và căn bản nhất trong những lời đức Phật dạy từ xưa đến nay. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ nhất của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho minh giả thoát (Tam Minh)? Bảy giác chi, cần phải trả lời như vậy”.
Đọc qua lời dạy này chúng ta thấy rõ con đường giải thoát của Phật giáo bắt đầu đức Phật chỉ thẳng cho chúng ta biết thành quả giải thoát cao nhất của Phật giáo là tam minh. Vậy muốn có tam minh thì phải tu tập như thế nào phải có bảy năng lực giác chi. Trong đoạn kinh này đức Phật xem bảy năng lực giác chi là món ăn của tam minh. Cho nên muốn có tam minh thì phải tu tập có bảy năng lực giác chi. Đó là những kết quả pháp hành tối thượng của đạo Phật để làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Muốn đạt được tam minh và bảy năng lực giác chi thì phải tu tập pháp môn nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ hai của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho (Năng Lực) Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”.Như vậy muốn có bảy năng lực giác chi thì phải tu tập pháp môn tứ niệm xứ, chứ không phải tu tập bảy giác chi. Tất cả các nhà học giả xưa và nay đều hiểu lầm chỗ này, họ hiểu bảy giác chi là bảy pháp tu tập, không ngờ tu tập pháp môn tứ niệm xứ thì bảy giác chi lần lượt xuất hiện từng giác chi. Giác chi này xuất hiện xong thì giác chi kia xuất hiện, cứ trên trạng thái tứ niệm xứ tu tập kéo dài bảy ngày đêm thì BẢY GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ. Khi bảy giác chi xuất hiện đầy đủ thì liền có tứ thần túc. Tứ thần túc gồm có;
1- Tinh Tấn Như Ý Túc
2- Dục Như Ý Túc.
3- Dục Như Ý Túc.
4- Tuệ Như Ý Túc.
Trong Tuệ như ý túc có đầy đủ tam minh. Tam minh gồm có:
1- Túc Mạng Minh
2- Thiên Nhãn Minh
3- Lậu Tận Minh.
Như vậy muốn có bảy giác chi, tứ thần túc, tam minh thì chỉ cần tu tập pháp môn tứ niệm xứ. Vậy trước khi tu tập pháp môn tứ niệm xứ chúng ta phải tu tập pháp môn gì?
Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ ba của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy”. Vậy ba thiện hành là gì?
Ba thiện hành là pháp môn tứ chánh cần. Muốn đạt được trạng thái tứ niệm xứ thì phải tu tập pháp môn tứ chánh cần tức là hằng ngày tu tập không lúc nào ngơi nghỉ. Đi, đứng, nằm, ngồi đều tu tập được cả luôn luôn dùng ý thức tri kiến ngăn và diệt các ác pháp bên ngoài lẫn bên trong của từng tâm niệm. Tất cả ác pháp này đều phải diệt sạch chỉ còn giữ gìn và bảo vệ một pháp duy nhất, đó là tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự.
Trong sự tu tập ngăn ác diệt ác pháp thì sáu căn phải được chế ngự như lời dạy thứ tư của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành? Các Căn Được Chế Ngự, cần phải trả lời như vậy”.
Muốn chế ngự các căn thì phải sáng suốt nhận xét sáu trần xem coi tâm dính mắc vào trần nào, nếu tâm dính mắc vào trần nào thì phải ngăn và diệt trần đó không cho dính mắc, đó là cách thức chế ngự các căn. Như vậy chế ngự các căn là phải chánh niệm tỉnh giác. Đúng như lời dạy thứ năm của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Được Chế Ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy”.
Khi tâm lúc nào cũng ở trong chánh niệm tỉnh giác thì tâm rất sáng suốt. Tâm sáng suốt thì không một trần cảnh hay một ác pháp nào muốn xăm chiếm vào tâm đều bị ý thức ngăn và diệt sạch ra khỏi tâm khiến tâm luôn luôn bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Muốn ngăn và diệt được ác pháp như vậy thì ý thức luôn luôn phải chánh niệm tỉnh thức, nhờ có chánh niệm tỉnh thức mới biết dùng pháp như lý tác ý. Có tu tập như vậy mới thấy lời dạy thứ sáu của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy”.
Đúng như vậy, những pháp hành này là những pháp bảo vệ và giữ gìn tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự dễ dàng nhất mà không có một pháp nào hơn được. Đây là pháp môn rốt ráo nhất của Phật giáo để cứu người ra biển khổ. Cho nên các con hãy nhớ mà tu tập, xem pháp môn này như món ăn hằng ngày để nuôi sinh mạng của các con. Bởi vậy bài pháp thức ăn của Phật dạy là một bài pháp tuyệt vời. Cuộc đời đi tu mà gặp pháp môn này như người đói mà gặp cơm và thực phẩm thì làm sao còn đói được nữa; như người nghèo gặp vàng bạc của báu thì làm sao còn nghèo nữa.
Trải qua sáu pháp tu học giúp chúng ta thấy Phật pháp rất thực tế và cụ thể trong các pháp hành. Tu đâu liền có kết quả ngay liền, bởi vì Phật pháp là pháp môn tu tập làm chủ thân tâm nên tu tập là có thấy kết quả làm chủ ngay liền.
Muốn siêng năng tinh tấn tu tập mà không biếng trễ thì chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ bảy của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý Tác Ý? Lòng Tin, cần phải trả lời như vậy”.
Lời dạy thứ bảy của đức Phật là lòng tin. Lòng tin do từ đâu mà có?
Chúng ta đã nghe sáu pháp môn thực hành trên đây của Phật giáo, mỗi pháp môn đều chỉ thẳng sự tu tập làm chủ thân tâm một cách cụ thể rõ ràng, khiến cho người nào tu tập cũng đều có sự làm chủ thân tâm, mang đến sự giải thoát rõ ràng, nếu chúng ta không tu tập thì thôi mà đã tu tập thì ngay đó là có sự làm chủ giải thoát. Chỉ cần nghe chứ chưa tu tập mà chúng ta đã có lòng tin sâu sắc, lòng tin không thể còn ai lay chuyển được.
Nhờ có những pháp tu hành làm chủ thân tâm thực tế như vậy nên làm sao người ta không tin. Những pháp ấy đức Phật gọi là vi diệu pháp. Vậy chúng ta hãy lắng tai nghe lời dạy thứ tám của đức Phật: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho lòng tin? Nghe Diệu Pháp (chân pháp của Phật), cần phải trả lời như vậy”.
Vi diệu pháp không phải là pháp môn cao siêu vĩ đại có thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán vũ, tàng hình, biến hóa v.v… Vi diệu pháp của Phật rất bình thường như ăn cơm uống nước dễ dàng như vậy, chứ không phải như đọc thần chu, luyện bùa như Mật Tông; chứ không như niệm Phật nhất tâm cầu vãng sinh Cực Lạc Tây Phương như Tịnh Độ Tông rất khó khăn; chứ không như ngồi thiền nhập định như Thiền Tông chân đau như buốt, gối mỏi, lưng thụng, đầu luc lắc như lên đồng nhập cốt v.v…
Vi diệu pháp của Phật chỉ là những đức hạnh sống hằng ngày không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả các loài chúng sinh. Bởi vậy vi diệu pháp của Phật chỉ là pháp ngăn ác diệt ác pháp hằng ngày trong tâm niệm của mình. Hầu hết mọi người tu hành chưa chứng đạo khi nghe nói đến vi diệu pháp thì liền nghĩ tưởng đó là pháp cao siêu vượt ngoài sự hiểu biết của con người.
Người ta cho rằng vi diệu pháp còn có một cái tên là pháp môn bất tư nghì có nghĩa là pháp môn không thể nghĩ bàn. Thật là con người quá giàu lòng tưởng tượng.
Ngày xưa đức Phật bảo: “Phật pháp không ngoài thế gian pháp”. Như vậy chúng ta không nên nghe những người tu chưa chứng mà hãy tìm những người đã tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì họ sẽ chỉ dạy những pháp mà họ đã tu chứng đạo như lời dạy thứ chín của đức Phật:“Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo), cần phải trả lời như vậy”.Đúng vậy chỉ có những người tu chứng mới đủ khả năng dạy chúng ta tu chứng. Còn ngoài ra thì chúng ta đừng tin ai cả. Khi tu chưa chứng họ chẳng có kinh nghiệm tu hành nên dạy chúng ta tu hành không kết quả làm chủ thân tâm.