Những bức tâm thư được ra đời, như ánh sáng bình minh nó sẽ xua tan những bóng đêm đen tối phủ trùm khắp không gian, đang tan dần nhường lại cho một ngày tươi sáng. Bắt đầu, chim muông ca hót lisu lo trên cành để chào đón một nền đạo đức nhân bản – nhân quả ra đời đem lại hạnh phúc cho loài người và muôn loài vạn vật trên hành tinh này.
Góp nhặt từng bức tâm thư của Thầy gửi về tu viện để đóng thành những tập sách, những tập sách này đầy đủ những lời khuyên dạy bảo tu tập của Thầy theo đúng chánh pháp của đức Phật thật là một tài liệu pháp bảo quý báu vô cùng.đối với những ai có tâm tha thiết tìm cầu sự giải thoát, muốn làm chủ thân tâm, chấm dứt tái sinh luân hồi..
Những bức tâm thư ấy nói lên đạo đức nhân bản – nhân quả hiếu sinh, đó là một đạo đức tình thương đa hướng rộng lớn vô biên, một thứ tình thương của một vị Thầy ban tặng cho loài người và muôn vật trên hành tinh này để đem lại sự sống bình an yên ổn mà không còn ai làm khổ cho ai và cho muôn vật nữa. Thật là một đức hạnh tình thương thấm thía vô cùng vô tận.
Bộ sách những bừc tâm thư chia ra làm hai tập, tập 1 và tập 2. Nội dung trong hai tập sách này chứa đựng những pháp hành rất cụ thể và rõ ràng giúp cho những ai mới bước chân vào đạo Phật khi nghiên cứu rất dễ hiểu và tu tập có kết quả ngay liền..
Bộ sách này còn chỉ thẳng những pháp môn không đúng của Phật giáo mà từ xưa đến nay các thầy tổ do lầm tưởng những pháp môn đó là của Phật giáo nên cứ thế truyền thừa từ thế hệ này cho đến những thế hệ mai sau, nhưng tu hành chẳng ai có kết quả gì.
Hôm nay, những bức tâm thư này sẽ đến tay mọi người và sẽ chỉ thẳng những pháp môn đó không phải của Phật giáo để mọi người đừng lầm tưởng nữa, đừng tu tập phí công vô ích. Nhất là đừng sống trong ảo tưởng mơ mộng những thế giới siêu hình Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn, Phật Tánh , Bản Thể Vạn Hữu v.v..
Bộ sách này chỉ cho quý vị thấy thân tâm này do các duyên hợp mà thành đều chịu qui luật nhân quả điều hành nên trong thân tâm này không có linh hồn, không có Phật tánh, khi con người chết là họai diệt toàn bộ không còn một vật gì cả chỉ có từ trường nghiệp thiện ác đi tái sinh luân hồi mà thôi.. Vì thế đức Phật dạy: “Thân tâm này không phải là ta, không phải của ta, không phải bản ngã của ta”. Đức Phật đã xác định như vậy thì còn cái gì là ta nữa. Phải không thưa quý vị?
Nếu những ai muốn tu tập tìm cầu sự giải thoát thì hãy đọc kỹ bộ sách này, nhờ đó mọi người sẽ tiếp nhận những pháp môn của Phật mà Thầy đã cố công chỉ dạy một cách rõ ràng. Vì thế mọi người chỉ cần nghiên cứu những bức tâm thư này sẽ có lợi ích rất lớn cho mình và cho mọi người., khi tu tập không còn sợ tu tập sai pháp
Những bức tâm thư này sẻ mang đến cho mọi người một sự lợi ích rất lớn, nên tu viện Chơn Như góp nhặt đóng thành sách gửi đến quý vị, ngưỡng mong quý vị còn thấy chỗ nào sai sót xin vui lòng chỉ giáo để tu viện Chơn Như chỉnh đốn sửa lại cho hoàn thành bộ sách, xin chân thành thật tri ơn.
Kính ghi
Tu Viện Chơn Như
Kính thưa quý Phật tử khắp mọi nơi đã về đây dự buổi lễ hôm nay!
Kính thưa quý Tu Sinh tại Tu Viện Chơn như!
Kính thưa quý vị! Sau những cơn sóng gió bão tố tại Tu Viện Chơn Như tưởng chừng như Tu Viện Chơn Như sụp đổ, nhưng không ngờ Tu Viện Chơn Như lại vươn mình lên, từ lớp tu tập Bốn Định bình thường của các Tu Sinh được dừng lại, thì lớp Chánh tri kiến mở cửa. Sau bốn tháng tu học lớp Chánh tri kiến thì Chơn Như sóng gió lại nổi dậy nữa. Lớp Chánh tri kiến dừng lại, thì lớp bảy tháng chứng đạt chân lí mở màn, để đào tạo những người thân giáo thuyết giáo đứng lớp giảng dạy, chỉ mới tu học được năm tháng thì Chơn Như lại nổi sóng một lần nữa. Thầy rời khỏi Tu Viện để Tu Sinh được yên ổn tiếp tục tu hành. Cho nên lớp tu học vẫn duy trì cho đến ngày hôm nay. Ngày mãn khóa và ngày khai mở các lớp dạy đạo đức ra đời để hoàn thành sứ mạng dựng lại Chánh pháp của Phật giáo từ cơ bản đến thiền định trí tuệ Tam minh.
Mỗi lần sóng gió Chơn Như là mỗi lần Chơn Như vươn mình dựng lại Chánh pháp của Phật từ thấp đến cao để trở thành chương trình giáo dục đào tạo những bậc đức hạnh Vô Lậu hoàn toàn của Phật giáo.
Muốn hoàn thành sứ mạng dựng lại Chánh pháp của Phật giáo đều phải do tất cả những bàn tay, khối óc, công sức của Tu sinh tu viện Chơn Như và tất cả Phật tử trong nước cũng như ở nước ngoài phải đoàn kết chặt chẽ; phải kiên trì, bền chí vượt qua những khó khăn, gian khổ thì mới mong có được như ngày hôm nay.
Kính thưa quý Phật tử! Ngày mãn khóa bảy tháng tu học chứng đạt chân lí còn hơn 10 ngày nữa, nhưng Ban Tổ chức lễ khai giảng lớp Thọ Bát Quan Trai vào mùng 1 tháng 10 Âm lịch, nhằm ngày 21 tháng 11 năm 2006. Được ý kiến của Thầy từ xa gửi về hướng dẫn các Ban nên tổ chức lấy ngày đó làm ngày mãn khóa và khai giảng luôn lớp mới thì rất thuận tiện cho cả hai lớp, có nghĩa là làm lễ mãn khóa lớp học cũ thì khai giảng cho lớp học mới. Vì thế Ban Tổ chức xin thông báo cho quý tu sinh và quý phật tử hay.
Sau khóa bảy tháng tu học này là một bằng chứng cụ thể có người tu làm chủ sinh, già, bệnh, chết, nhưng số lượng không nhiều, đó là một niềm tin vững chắc của mọi người. Vì thế các Ban ngành được tổ chức để điều khiển các lớp học trong tu viện Chơn Như. Các tu sinh là những người được tham dự khóa tu học bảy tháng chứng đạt chân lí và tu tập có kết quả, xứng đáng thay Thầy đứng lớp dạy. Mỗi người đứng trong Ban ngành của mình mặc dù có người tu chưa xong, nhưng trước cảnh sóng gió Chơn Như nên vừa làm việc vừa tu tập, vừa đứng lớp dạy mọi người rèn luyện nhân cách, vừa ổn định tu viện bằng sự đoàn kết chặt chẽ, không nghi kỵ lẫn nhau và đầy lòng yêu thương đối sử với nhau như nước với sữa, ngày càng tốt đẹp hơn, để tu viện được bình an, yên ổn; để tu viện xứng đáng là nơi đào tạo những người tu chứng đạt quả giải thoát (A La Hán); để tu viện là nơi điểm tựa cho những người khao khát tìm về xứ Phật; để tu viện đi vào lòng người bằng những trang sử xây dựng nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người, mà nhân loại không bao giờ quên ơn.
Sau khóa bảy tháng tu học này tu viện Chơn Như lần lượt thay hình đổi dạng, nhà ở có ngăn nắp hơn, đường sá đi lại trong tu viện được sạch đẹp và thẳng tấp, mở mang thêm nhiều khu nhà ở để sẵn sàng đón tiếp những người con Phật từ bốn phương trở về với quyết tâm tìm về với Chánh pháp của Phật; với quyết tâm tìm nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai.
Tu viện Chơn Như kể từ ngày hôm nay không phải là của riêng ai mà của mọi người đang tu học, cho nên mọi người phải có bổn phận trách nhiệm bảo vệ giữ gìn, tiết kiệm điện nước để cùng sống chung nhau mà không làm hao tốn của đàn na thí chủ.
Hỡi các Tu Sinh! Hỡi các nam nữ cư sĩ phật tử bốn phương! Hỡi những người con Phật có mặt trong buổi lễ hôm nay! Người đàn na thí chủ làm ra của bằng mồ hôi nước mắt quá vất vả gian nan. Vì Phật pháp được sống mãi trong lòng người; vì hạnh phúc, an vui của loài người; vì nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người, nên những người Phật tử chia sớt sự sống từng miếng cơm manh áo để cúng dường cho các Tu Sinh, để các Tu Sinh được rảnh rang tu tập xả tâm làm chủ sự sống, chết và chấm dứt luân hồi, ơn ấy biết bao giờ quên. Phải không các tu sinh?
Tu viện Chơn Như ngày nay có được như vầy là nhờ bao công lao mồ hôi nước mắt của Phật tử; là nhờ bao công sức của mọi người, của cô Diệu Quang, chúng ta không có quyền phi ơn mọi người; chúng ta không có quyền nói xấu nhau, vì chúng ta là anh em, chị em chung một nhà, cùng một thầy, cùng sống trong một mái chùa, cùng tu hành một pháp môn, cớ sao chúng ta lại mạt sát nhau, chà đạp lên nhau không chút lòng thương nhau, chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách, đóng cửa dạy nhau, cớ sau lại vạch lưng cho người xem thẹo, nồi da xáo thịt có tốt không hỡi các tu sinh? Mở miệng nói xấu anh, chị em của mình có ai khen đâu. Tu sinh càng nói xấu lẫn nhau càng làm cho tu viện lụn bại, điêu tàn, tan nát; làm cho quý Phật tử phải đau lòng xót dạ; làm cho quý phật tử mất lòng tin đối với Phật Pháp thì tội ấy về ai, hỡi các tu sinh? Các tu sinh có biết không?
Trước cảnh sóng gió Chơn Như dồn dập Thầy phải đứng trên đầu sóng chèo chóng để con thuyền Chơn Như vững vàng lướt sóng gió, để tu sinh được bình an tu tập trong bảy tháng chứng đạt chân lí, nhưng có một số tu sinh cố ý hay vô tình phạm giới, phá giới, tập hợp nhau nói chuyện trong những ngày quyết liệt tu tập để chứng đạt chân lí của những tu sinh khác. Họ đã phạm giới lại còn lôi những người khác phạm giới theo họ, để làm cho tu viện náo động không còn ai tu tập được nữa, mình tu không được cũng muốn cho người khác tu không được như mình, thật đáng trách. Cho nên những tu sinh quyết tâm tu tập và giữ gìn giới luật thì gặp trở ngại biết bao sự khó khăn, gian nan vô cùng, rất đáng thương.
Trong khi Thầy quá vất vả chịu đựng từ mọi phía để bảo vệ tu viện bình an thì những tu sinh ấy lại nghi ngờ Thầy thế này, thế khác để tự làm mất lòng tin của chính mình đối với một vị Thầy đã vạch cho mình con đường đi. Thật đáng thương!
Họ nghĩ rằng: dù có Thầy hay không có Thầy họ vẫn tu giải thoát được như thường. Họ đâu cần Thầy nữa. Phải không các tu sinh? Họ đã lầm con đường tu tập có từ pháp thấp đến pháp cao, chứ không phải chỉ có một pháp duy nhất tu tập đến nơi đến chốn được, nếu không có một vị Thầy đã tu tập chứng đạo thì không đủ tư cách hướng dẫn, vì không có đủ kinh nghiệm bản thân, nên hướng dẫn người khác tu tập như một người mù dẫn dắt một số người mù và như vậy thầy trò đồng rơi xuống ố thẳm.
Biết rõ tâm niệm tu sinh như vậy Thầy buông lơi tay chèo sóng gió ập tới Thầy ra đi. Trong cảnh mất Thầy tu sinh Chơn Như như gà con mất mẹ, họ sống bơ vơ như vậy mà còn không biết đoàn kết nhau, không biết thương yêu nhau, lại còn tìm cách rời khỏi tu viện bằng lý do này hay lý do khác để lánh nặng tìm nhẹ. Thật đáng thương cho họ.
Ra đi, nhưng Thầy không nỡ bỏ các con, nên dù ở bất cứ nơi đâu Thầy cũng điều khiển con thuyền Chơn Như vượt lên, không đầu hàng trước quy luật nhân quả. Do đó ngày nay các Ban ngành đã thành lập, chứng tỏ tu viện Chơn Như ngày càng lớn mạnh hơn và sáng loạng hơn, phát triển đi lên một cách vững vàng chững chạc, có tổ chức các lớp học đạo đức Phật giáo đầy đủ từ thấp đến cao.
Từ đây về sau tu viện Chơn Như là một trường học chuyên khoa dạy đạo đức làm người của Phật giáo đầu tiên trên hành tinh này. Vì thế các con hãy cùng chung lưng đâu cật, cùng chia sẻ từng sự nhọc nhằn khó khăn, để vượt qua những nỗi gian truân thử thách, để bảo bọc sự bình an cho tu viện ngày càng đi lên vững mạnh hơn. Tu viện Chơn Như có bình an thì các con mới có nơi tu hành tốt đẹp.
Trước mắt chúng ta còn biết bao nhiêu chông gai cản trở; còn biết bao nhiêu thử thách khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng vào việc làm của chúng ta là đem lại sự sống bình an cho mọi người, cho hành tinh này, vì thế chúng ta vững bước, kiên gan, bền chí vượt qua mọi gian lao, mọi chông gai.
Lần lượt các lớp học đạo đức sẽ mở cửa khắp mọi miền đất nước thân yêu của chúng ta để con cháu của chúng ta là những đứa con ngoan hiền sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Đó là niềm hy vọng và mong ước của Thầy, còn được hay không là nhờ duyên phước của chúng sinh.
Theo như thông báo thì tu viện Chơn Như đang vươn mình vượt lên trước sóng gió và bão tố. Cho nên bắt đầu ngày mùng 1 tháng 10 năm Bính Tuất, nhằm ngày 21 tháng 11 năm 2006 tu viện sẽ mở các lớp tu học THỌ BÁT QUAN TRAI, từ một ngày, bảy ngày, một tháng đến ba tháng. Phật tử nào có thì giờ rảnh rang thì về xin dự khóa tu trong bảy ngày hoặc nhập thất tu tập một tháng hoặc ba tháng, còn những Phật tử nào không có thì giờ rảnh rang thì xin đăng ký tu học vào những ngày chủ nhật trong mỗi tháng .
* Bắt đầu ngày 1 tháng 11 năm Bính Tuất, nhằm ngày 20 tháng 12 năm 2006 Tu Viện sẽ mở các lớp tu học THỌ TAM QUY, từ một ngày, bảy ngày, một tháng đến ba tháng. Phật tử nào không có thì giờ nhiều thì về xin dự khóa tu trong những ngày chủ nhật, có thời gian rộng hơn thì tu học trong bảy ngày, còn nếu có thời gian nhiều hơn nữa thì tu học một tháng. Lớp tu học này là lớp dạy đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người.
* Bắt đầu ngày 1 tháng 12 năm Bính Tuất, nhằm ngày 19 tháng 1 năm 2007 tu viện sẽ mở các lớp tu học THỌ NGŨ GIỚI, từ một ngày, bảy ngày, một tháng đến ba tháng. Phật tử nào không có thì giờ nhiều thì về xin dự khóa tu trong những ngày chủ nhật, có thời gian rộng hơn thì tu học trong bảy ngày, còn nếu có thời gian nhiều hơn nữa thì tu học một tháng. Lớp tu học này là lớp dạy đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người.
* Bắt đầu ngày 1 tháng 2 năm Đinh Hợi, nhằm ngày 19 tháng 1 năm 2007 Tu Viện sẽ mở các lớp tu học THẬP THIỆN, từ một ngày, bảy ngày, một tháng đến ba tháng. Phật tử nào không có thì giờ nhiều thì về xin dự khóa tu trong những ngày chủ nhật, có thời gian rộng hơn thì tu học trong bảy ngày, còn nếu có thời gian nhiều hơn nữa thì tu học một tháng. Lớp tu học này là lớp dạy đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người
Kính thưa quý phật tử! Phương hướng của tu viện Chơn Như đã vạch ra cho tu viện một lối đi rất rõ ràng, có các Ban điều khiển, có kỷ luật nghiêm chỉnh để đi vào nề nếp đào tạo đức hạnh cho mọi người. Vậy mong quý phật tử về đây tu học hãy chấp hành nghiêm chỉnh, làm gương sáng cho con cháu của chúng ta, cho nhiều thế hệ mai sau.
Còn những tu sinh nào thấy khả năng tu hành theo giới luật không nổi thì nên xin rời khỏi tu viện, chứ đừng để phạm giới luật và lôi cuốn người khác phạm giới theo, thì tệ lắm. Mình xấu muốn người khác xấu theo, làm cho tu viện bất an, khiến cho mọi người tu hành rất khó khăn, những việc làm này rất tội lỗi. Các tu sinh có biết không?
Vì lợi ích chung cho mọi người đang tu học trong tu viện, khi bắt gặp tu sinh phạm giới, Ban giám luật sẽ lập biên bản, mời ra khỏi tu viện thì xấu hổ lắm và để tiếng muôn đời hạnh kiểm xấu. Nhất là gửi thư về gia đình báo cho những người thân trong gia đình biết sự việc sai phạm kỷ luật trong tu viện như vậy.
Thầy mong rằng các con đừng làm lỗi như vậy. tu viện bây giờ là trường học chứ không phải tu viện như lúc trước nữa, nó là trường học đào tạo đạo đức con người các tu sinh nên thông cảm và hiểu cho. Đây là kỷ luật của Ban Giám Luật điều hành trong tu viện, chứ không phải Thầy điều hành nữa. Vì thế pháp bất vị thân, các con nên lưu ý.
Sau khi dứt lời Thầy xin có lời thăm và chúc quý tu sinh cùng quý phật tử dồi dào sức khỏe, nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thân thương chào các con.
Hỏi 1:- Xưa đức Phật có dạy: “Cái thấy, cái biết, cái nghe không phải là ta, không phải là của ta và cũng không phải là bản ngã của ta”
Vậy cái thấy ở đây có phải là cái biết của cái thấy hay không?
Cái nghe ở đây có phải là cái biết của cái nghe hay không?
Cái biết ở đây có phải là cái biết của cái ý thức hay không?
Nếu phải thì có thể gọp chung là cái biết không phải là ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta? Cái biết ở đây là cái biết của 6 thức. Vậy tại sao không thấy đức Phật nói về cái biết của mùi, vị và xúc?
Xin Thầy giải thích rõ hơn cho con hiểu về điều này.
Đáp:- Đức Phật đã dạy rất đúng: “Cái thấy, cái biết, cái nghe không phải ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta”, Còn ngược lại Thiền tông dạy: “Cái Thấy, cái Biết, cái Nghe là “PHẬT TÁNH”. Cái BIẾT của Phật tánh không có do các nhà thiền tông sống trong ảo tưởng rồi tưởng tượng ra mà đặt tên cái TÍNH BIẾT là PHẬT TÁNH. Do đó chúng ta nên hiểu:
* Cái THẤY ở đây là cái BIẾT của cái THẤY mà cái BIÊT của cái THẤY là NHÃN THỨC, chứ không phải PHẬT TÁNH
* Cái NGHE ở đây là cái BIẾT của NGHE mà cái BIẾT của cái NGHE là NHĨ THỨC, chứ không phải PHẬT TÁNH
* Cái BIẾT ở đây là cái BIẾT của cái THỨC mà cái BIẾT của cái THỨC là cái BIẾT của Ý THỨC, chứ không phải là PHẬT TÁNH.
Cái MÙI, cái VỊ, cái XÚC cũng vậy v.v…Tất cả sáu thức trên đây đều thuộc về thân TỨ ĐẠI. Thân tứ đại gồm có sáu căn, sáu trần và sáu thức,. Có sáu căn, sáu trần sáu thức mới có cái biết của sắc, thinh, hương, vị, xúc, vị, pháp.
Trong lúc còn đang mang thân tứ đại này tu tập giới luật đức hạnh, Định Vô Lậu chúng ta phải dùng sáu căn, sáu trần và sáu thức. Sau khi chúng ta chứng đạt chân lý và vào Niết Bàn thì căn, trần, thức này đều bỏ luôn vì nó không phải là ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta. Nó là các pháp hữu vi nên vô thường và hoại diệt, trong đó không một vật gì còn tồn tại gọi là Phật Tánh. Phật Tánh chẳng qua chỉ là ảo tưỏng mà thôi.
vvv
Hỏi 2:- Khi ăn cơm có phải bắt buộc phải ngồi dưới đất hay không? Vì con thấy mỗi lần ngồi dưới đất ăn cơm thì kiến nhiều quá, cho nên con chuyển sang ngồi trên ghế, con không biết có phạm giới hay không?
Đáp:Không, ngồi đâu cũng được nhưng phải ngồi thẳng lưng nghiêm chỉnh khi ăn cơm như đang ngồi thiền, vì đó tướng đạo đức giới luật phước điền của người tu sĩ Phật giáo.
vvv
Hỏi 3:- Nhân quả của một người đặt tình thương không đúng chổ là gì? Ví dụ bố thí sai thì nhân quả là gì? Bố thí vì lòng yêu thương, nhưng sau đó biết rằng bố thí nhầm cho đối tượng thì nhân quả là gì? Ví dụ một lần con đang chạy xe ở thành phố Vũng Tàu, con thấy một anh thanh niên nằm bên lề đường quằn quại ôm bụng trông rất tội nghiệp như người đau dạ dày. Con ngừng xe lại và quay lại ân cần hỏi thăm và tính chở anh ta đi bệnh viện, anh ta không đi mà vẫn nằm ôm bụng rên la. Đến giờ con phải đi làm cho nên con cho anh ta tiền gọi xe đến bệnh viện và tiền chữa bệnh, và nhờ ông chủ nước ngay đó nếu cần thì gọi xe dùm, rồi con đi làm. Sau vài tháng con thấy anh ta ở Sài gòn cũng với tình trạng như vậy. Lần này con đặt câu hỏi không biết thật hay giả đây? Nhưng con nghĩ thôi, thật hay giả thì coi như đã giúp 1 lần và tự an ủi rằng ít ra mình không thờ ơ trước những cảnh khổ của người khác và con tiếp tục đi không dừng lại nữa. Con đặt giả thuyết nếu như anh ta đóng kịch thì coi như việc con làm là đặt tình thương không đúng chổ, sai lệch. Vậy thì có đáng trách là con thiếu tỉnh giác hay không?
Thiêt ra mà nói con chưa hiểu rõ cách làm sao để tránh trường hợp đặt tình thương không đúng chổ. Ví dụ trong tu viện có 2 người con thấy rất thương họ đó là cô Nguyên Thanh và sư Chơn Niệm. tại sao con thương họ vì con thấy mọi người ai cũng không thích 2 người này.
Con chỉ có dịp học chung với sư Chơn Niệm khóa đạo đức này thôi, nhưng con không xem trọng những gì Sư làm sai, nói sai mà chỉ để ý đến những mặt tốt của Sư để học hỏi thôi và lấy Sư làm đối tượng trong lớp để xả tâm. Nhưng hình như con đặt tình thương không đúng chổ thì phải vì con thấy mọi người đều khuyên Sư sửa cái này sửa cái kia, còn con thì không nói trước lớp mà chỉ gặp riêng thôi để tránh làm mất sự đoàn kết trong lớp. Và con thấy rất tội nghiệp cho Sư khi bị Thầy đưa ra quyết định vừa rồi.
Xin Thầy chỉ dạy cho con biết làm sao để biết là mình đặt tình thương không đúng chổ và sai lệch. Thật tình mà nói ai con cũng thấy thương hết, và con không muốn để trong tâm hình ảnh xấu về ai cả.
Đáp:a/ Tình thương không phân biệt thiện ác, đặt tình thương chổ nào cũng đúng hết, nhưng con nhớ kỹ bố thí sai như đem hạt giống tốt gieo trên đất chai cằn cổi. chẳng được lợi ích gì?
b/ Đối với người lừa đảo mọi người chúng ta vẫn thương họ, đó là một điều tốt nhưng không nên để họ lừa đảo lường gạt ta rồi thành thói quen, mà thói quen thì rất khó bỏ. Như chúng ta ai cũng biết người lừa đảo là người làm một điều ác, mà làm điều ác thì sẽ bị nghiệp quả khổ đau và nghèo cùng từ đời này sang đời khác.
c/ Đối với Nguyên Thanh và sư Chơn Niệm chúng ta nên thương họ vì họ đang mang bệnh cố chấp .
Đúng vậy Chơn Niệm rất đáng thương vì bệnh cố chấp không chịu buông xả để thực hiện lòng yêu thương, phải chờ một cơ hội cho đủ duyên.
Trong cuộc đời này không có ai xấu mà chỉ có nhân quả thiện ác, tất cả con người đều đáng thương yêu. Hôm nay chúng ta học đức hiếu sinh là học thương yêu nhiều hướng, thiện cũng thương mà ác cũng thương. Đó là một lòng thương yêu bình đẳng như trời, như đất. con nên lưu ý những câu trả lời của Thầy mà đừng hiểu sai đức hiếu sinh.
vvv
Hỏi 1:-Giới đức và giới hạnh phân biệt như thế nào?
Đáp: Giới đức là nói tính thiện; còn giới hạnh là nói hành động thiện. Ví dụ: Thấy một người bị tai nạn giao thông liền chỡ họ vào bệnh viện cưú cấp. Hành động này gồm có hai: giới đức và giới hạnh:
1/ Đức là tính hiếu sinh.
2/ Hạnh là hành động hiếu sinh.
vvv
Hỏi 2:- Nằm giường cao là sao? Trong phòng con có cái giường khi con ngồi lên thì hỏng chân, vậy thì có phải gọi là cao không Thầy?
Đáp:Nằm giường cao rộng lớn là không đúng hạnh của nguời tu sĩ Phật giáo.Trong luật có dạy giường nằm của tu sĩ chỉ có 5 ngón tay Như Lai như vậy chỉ cao có 5 tấc.
Theo Thầy nghĩ giường nằm cao khoảng 5 tấc trở xuống là tốt nhất.
vvv
Hỏi 3:- Xin Thầy cho con biết khi 2 người cuối chào nhau, con thấy có người chào rất sâu (90 độ), có người ( 20-30 độ) còn con chào nghiêng đầu 45 độ, vậy thì chữa sâu là chào bao nhiêu độ vậy hả Thầy?
Đáp: Chào nghiêng người 45 độ là vừa .
vvv
Hỏi 4:- Xin Thầy chỉ dạy cho con hiểu rõ đoạn văn cuối trong bài “Có sống đạo mới vui đời” có nghĩa là gì vậy hả Thầy?
“Nhìn nhận sự tương quan sinh tồn, chí nhân khổ cái khổ của người, vui cái vui của muôn loài, nên lợi người trước mình. Cái vui này là cái vui vô lượng.”
Theo con hiểu khi thấy ai khổ mình cố gắng giúp người ta hết khổ trước và khi thấy ai vui thì lúc đó mình mới vui, nghĩa là chỉ nên nghĩ đến người trước. Tâm mình đã thanh thản rồi, bất động rồi thì đâu còn vui buồn gì nữa, nhưng mình lấy các đối tượng khổ vui của người khác để sống hòa đồng biết thương yêu người, giúp đỡ họ và an vui với họ. Có sống với người, tạo thêm niềm vui cho người cho mình thì cuộc sống thêm vui chứ sao phải không Thầy? Đâu phải nói là tu xong rồi không còn biết vui buồn gì nữa thì có lẽ trở thành cây đá rồi. Xin Thầy giải thích rõ cho con thêm.
Đáp:Đúng vậy, khi thấy ai khổ mình cố gắng giúp người ta hết khổ trước và khi thấy ai vui thì lúc đó mình mới vui, nghĩa là chỉ nên nghĩ đến người trước. Tâm mình đã thanh thản rồi, bất động rồi thì đâu còn vui buồn gì nữa, nhưng mình lấy các đối tượng khổ vui của người khác để sống hòa đồng biết thương yêu người, giúp đỡ họ và an vui với họ. Có sống với người, tạo thêm niềm vui cho người cho mình thì cuộc sống thêm vui.
“Có sống đạo mới vui đời” Đạo là đạo từ bi nên có nghĩa là mọi người biết thương yêu nhau thì đời mới vui.
vvv
Hỏi 5:-Vì Phật dạy không làm khổ mình, khổ người? Khi mình hy sinh cứu người và cứu vật, bị tật nguyền hay hy sinh mà không muốn làm khổ mình thì mình phải quán xét làm sao?
Phải chăng mình nghĩ rằng mình rất tự hào về những điều mình đã làm, không hối tiếc, không coi trọng cái thân này. Dù cho cái thân có tàn tật thì cũng không sao. Nhưng nếu cái thân này bị tàn tật do cứu người mà làm khổ gia đình mình phải chăm sóc cho mình thì mình lại làm khổ người thân của mình, vậy thì làm sao đây? Xin Thầy chỉ dạy rõ cho con biết. Vì đức Phật nói “Phải hùng lực cứu người, cứu vật” Vậy trước khi cứu người cứu vật có phải tư duy suy nghĩ hay không?
Đáp:Đạo đức của Phật giáo có hai vế rõ ràng: không làm khổ mình, khổ người. Do không làm khổ mình, khổ người nên người tu sĩ Phật giáo không có hy sinh. Đạo Phật là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH TRÍ TUỆ cho nên làm một điều gì đều có sự suy nghĩ kỹ lưỡng không làm khổ mình khổ người rồi mới làm, còn làm được lợi ích có một bên thì nhất định không làm.
Đạo Phật dạy giúp đỡ mọi người là đem hết sức của mình ra giúp, nhưng không được là khổ mình. Đó là đức hiếu sinh đa hướng, chứ không phải một hướng. Vã lại đạo Phật dạy người có đôi mắt nhân quả thấy biết mọi việc xảy ra đều do nhân quả, nên khi xông pha cứu người là biết mình có đủ khả năng cưú người mà không hại mình, còn những người cưú người mà hại mình, đó chỉ là lòng yêu thương nhất hướng.
Ngày 7 tháng 10 năm 2006
Kính gửi: Các con thương mến
Thầy lúc nào cũng đang ở bên các con. Đời sống của Thầy cũng ăn ở bình thường, các con đừng lo. Hiện giờ Thầy đang biên soạn tập III Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống.
Có ở ẩn, mới có thời gian viết sách đạo đức; mới làm lợi ích cho đời, nếu không ở ẩn rất khó hoàn thành những bộ sách đạo đức lớn.
Đến giờ này các con chưa xác định được giờ giấc tu hành nữa sao?
Các con hãy lắng nghe cho kỹ, Thầy sẽ chỉ dạy cho các con tu tập không còn tu tập sai lạc nữa. Thời gian gấp rút không còn dài; không còn tu theo thời khóa như thời khóa Thọ Bát Quan Trai nữa. Bây giờ là các con tu tất cả thời gian, chỉ trừ ngoài ra giờ đi ngủ.
Lúc bây giờ là lúc các con tu tập XẢ TÂM CHƯỚNG NGẠI PHÁP nên không còn tu theo thời khoá nữa. Các con hãy nghe cho kỹ:
1- Khi nào thân có bệnh thì các con đem pháp Định Niệm Hơi Thở ra mà tu tập nhiếp tâm và an trú tâm để đẩy lui bệnh khổ ra khỏi thân.
2- Khi nào tâm trạo cử, phóng dật thì các con tu tập pháp Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác pháp xả tâm ly dục ly ác pháp, còn nếu tâm không niệm thì nên trên pháp môn Tứ Niệm Xứ (Trên thân quán thân trong bốn oai nghi để nhiếp phục tâm vi tế ưu phiền)
3- Khi nào tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì các tu tập pháp Xả Tứ Vô Lượng Tâm.
4- Khi nào tâm bị hôn trầm, thùy miên, vô ký thì tu tập pháp Thân Hành Niệm, pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác hay pháp môn rèn luyện nghị lực.
Cứ như vậy các con tu tập sẽ chứng đạo ngay liền. Quả A La Hán là ở chỗ biết xả chướng ngại pháp thì tâm sẽ vô lậu hoàn toàn.
Giữa việc tu tập mà công việc hiện tại của các con muốn cho hợp lý thì không có gì khó khăn cả, nhất là Thanh Quang.
Tu tập ở đây là xả những chướng ngại pháp, còn giải quyết công việc là dùng tri kiến giải thoát thì cũng như tu tập xả tâm có gì khác đâu mà các con ngại. Cho nên tu theo đạo Phật là sống xả tâm cho hết lậu hoặc, chứ có tu tập cái gì đâu. Lậu hoặc còn là còn tu tập; lậu hoặc hết là hết tu tập; hết tu tập là chứng quả. Tu đúng là giải thoát, giải thoát là chứng quả A La Hán. Cho nên đang tu cũng thấy giải thoát, chứng quả cũng thấy giải thoát. Chỉ những người không biết pháp tu mới thấy tu khác, chứng quả khác.
Ở đây các con nên hiểu có tu là có giải thoát, tu ít giải thoát ít, tu nhiều giải thoát nhiều. Có giải thoát là có chứng đạo, dù chứng đạo trong một phút, một giây cũng là chứng đạo. Nhưng khi chứng đạo được từng giây, từng phút thì sẽ chứng đạo từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm và suốt cả đời. Như vậy chứng đạo đâu phải khó, phải không các con ?
Còn hai tháng nữa là đến ngày mãn khoá tu tập chứng đạt chân lý. Vậy các con hãy đóng cửa thất giữ độc cư trọn vẹn, theo đúng lời thầy dạy đừng tiếp duyên với mọi người. Riêng Thanh Quang được ngoại lệ khi cần tiếp duyên về việc in kinh sách mà thôi còn tất cả duyên khác thì không nên tiếp duyên mà phải vắng bặt, luôn luôn phải giữ gìn hạnh độc cư cho trọn vẹn trong lúc quyết định cho một đời tu hành của mình phải đi đến rốt ráo viên mãn.
Sáu mươi ngày chuyên ròng xả chướng ngại pháp thì các con sẽ thấy Phật pháp vi diệu vô cùng, chứng đạo trước mắt không còn xa nữa.
Thanh Quang con đừng lo tất cả kinh sách xin phép được hay không là do phước của chúng sinh, chúng ta đã làm hết sức mình rồi. Hãy lo cứu mình con ạ! Nổ lực tu tập xả tâm đừng để tâm duyên ra ngoài không lợi ích gì cho con cả.
Thăm và chúc các con thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Nhớ tu tập xả tâm cho tốt, đừng để một chút xíu chướng ngại nào trong tâm .
Thân thương chào các con
Diệu Quang
Kính gửi: Bác Đức Thông.
Kính thưa bác! Khi đọc xong bài: “Tìm Hiểu - Cơ Chế - Tâm Sinh Lý - Học Thiền - Đến Trí Tuệ” thì Diệu Quang xin thành thật góp ý với Bác, nhưng không biết Bác có vui lòng nghe sự thành thật góp ý của Diệu Quang này không?
Khi đọc xong bài “Tìm Hiểu - Cơ Chế – Tâm Sinh Lý...” Diệu Quang có một cảm tưởng Bác là một bác sĩ Đông y đang nghiên cứu những vị thuốc thiền mà xưa nay đã có nhiều vị bác sĩ Tây y, Đông y đã phối họp thành một toa thuốc đặc trị có nhiều vị thuốc, bấy giờ Bác lại thêm một vị thuốc y học mooc – phin nữa.
Vào câu đầu Bác giới thiệu nghe rất hay: “Thực ra, thiền là một diễn tiến tâm linh, sống động, liên tục; hồn nhiên, không có kỹ thuật, không chia thành những giai đoạn tách bạch rõ rệt và vô cầu”. Nếu một người đã từng hiểu biết và nhập các loại thiền định thì câu giới thiệu thiền của Bác họ sẽ biết ngay Bác là một học giả thiền.
Bởi vì, thiền định là một sự bất động của thân tâm con người, cho nên sự bất động của thân tâm có từng phần. Mỗi phần trong thân tâm bất động là một loại thiền định, chứ không theo như bài luận thiền của Bác. Sự bất động trong thiền hữu sắc gồm có:
1- Bất động ý thức uẩn nhập Sơ Thiền.
2- Bất động sắc uẩn nhập Nhị Thiền.
3- Bất động tưởng uẩn Tam Thiền.
4- Bất động thọ uẩn và hành uẩn nhập Tứ Thiền.
Muốn cho sự bất động này nhập các định thì hành giả phải có TỨ THẦN TÚC, nếu không có TỨ THẦN TÚC thì không bao giờ có ai bất động được thân ngũ uẩn. Không bất động được thân ngũ uẩn thì không bao giờ nhập được Bốn Thánh Định.
Trên đây là thiền định của Phật giáo (Tứ Thánh Định), nếu muốn nhập các định này thì phải có đủ năng lực ĐỊNH THẦN TÚCnhư trên đã nói. Phần này Diệu Quang xin giải thích sau nếu có dịp.
Đọc bài luận thiền của Bác: “Thiền là một diễn biến tâm linh, sống động, liên tục; hồn nhiên, không có kỹ thuật, không chia thành những giai đoạn tách bạch, rõ rệt và vô cầu”. Như những lời luận thiền trên thì đây là thiền tưởng của Đại Thừa, Đông Độ, Yoga v.v...Tâm linh, sống động tức là 18 loại hỷ tưởng xuất hiện mà từ lâu các Tổ sư Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam đã chịu ảnh hưởng kinh sách Vệ Đà của Bà La Môn giáo mà dạy về thiền này.
Thiền của Phật giáo không có điều thân, điều tức, điều tâm, mà chỉ có ngăn ác, diệt ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp, như Ni sư Dhammadinna nói: “Này Hiền giả Visakha, Bốn Tinh Cần là định tư cụ”
Ngồi kiết già đối với đạo Phật là một tư thế ngồi bình thường của một người tu sĩ Phật giáo, chứ không phải ngồi kiết già là điều thân. Đối với Phật giáo, ngồi kiết già không phải là vấn đề quan trọng, ngồi được cũng tốt, ngồi không được thì ngồi trong tư thế khác cũng được, chứ không có bắt buộc ngồi kiết già. Trong Bát Chánh Đạo không có nói ngồi kiết già. Cho nên ai ngồi được kiết già cũng tốt, ngồi không được, ngồi tư thế khác cũng không sao. Trong Bát Chánh Đạo chỉ có phân biệt chánh và tà. Chánh và tà là điều quan trọng nhất con đường tu tập của Phật giáo. Chánh là thiện pháp, là không còn tham, sân, si. Còn tà là ác pháp, là còn tham, sân, si. Chỗ này là chỗ tu tập giải thoát ngay liền, chứ không phải chỗ điều thân, điều tức, điều tâm. Vì điều thân, điều tức, điều tâm không có giải thoát ngay liền. Đức Phật dạy: “Đạo Ta đến để mà thấy không có thời gian...”
Pháp môn Định Niệm Hơi Thở, đức Phật không có dạy điều tức (hơi thở) mà chỉ dạy tác ý theo hơi thở để an trú tâm trong hơi thở. An trú tâm trong hơi thở là để khắc phục những tham ưu trên thân hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn là để đẩy lui những bệnh khổ trong thân (cảm thọ) “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”hoặc là để đẩy lui tâm tham, sân, si. “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” Cho nên đạo Phật không có dạy điều hơi thở, xin các bạn hãy lưu ý để các bạn sẽ không tu sai lạc vào thiền ức chế tâm bằng hơi thở như xưa nay các Tổ Sư đã dạy.
Pháp Thân Hành Niệm không phải là pháp môn điều thân mà là pháp môn dùng thân niệm tác ý tu tập tỉnh thức và tạo thành ý thức lực, để luôn luôn sống và bảo vệ Chánh niệm nên thường đẩy lui các Tà niệm tham, sân, si. Cho nên pháp môn Thân Hành Niệm là pháp môn tu tập để có Tứ Thần Túc và đầy đủ mười Như Lai lực.
Pháp môn Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn điều tâm mà là một pháp môn để hộ trì chân lí. Cho nên Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập để khắc phục mọi ưu phiền trên thân, thọ, tâm, pháp như trong kinh dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu: trên tâm quán … trên thọ quán thọ…, trên pháp quán pháp... Để khắc phục tham ưu ở đời”… Như vậy pháp môn Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn điều tâm như trên đã nói. Xin các bạn lưu ý để tránh khỏi sự tu sai lạc. Cho nên thiền của Phật giáo không có điều thân, điều tức (hơi thở), điều tâm.
Trong kinh Nguyên Thủy dạy cắn chặt răng, uốn lưỡi cong để chạm lên hàm ếch là khi có những ác pháp tấn công vào thân tâm quá mạnh khiến cho đau đớn khôn cùng thì phải dùng tư thế này để giữ gìn tâm bất động, để đẩy lui các ác pháp đó ra khỏi thân tâm. Chứ không phải đó là điều thân như Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy.
Đạo Phật không có dùng hơi thở tập trung tâm để loại bỏ mọi tạp niệm mà dùng hơi thở để loại trừ tham, sân, si, và bệnh khổ “Quán ly tham tối biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” hoặc khi thân bị đau bệnh thì dùng hơi thở : “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” hoặc phá tâm si tức là khi bị hôn trầm, thùy miên và vô ký thì: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tối biết tôi thở ra”. Như trên đã dạy. Hơi thở không phải là chìa khóa vàng giúp cho hành giả luôn tỉnh giác, mà hơi thở chỉ là lỗ chu mai để cho hành giả núp vào đó để đẩy lui các ác pháp “quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”
Như trên đã nói thiền của Phật giáo không có điều tâm, không có gom tâm, không có hóa niệm, không có thân vong- tâm hư, không có tuyệt mạng, tuyệt thể.
Thiền của Phật giáo khi hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ thì với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản thì dẫn tâm nhập thiền định không có khó khăn, không có phí sức, không có mệt nhọc. Tại sao đức Phật lại nói như vậy ?
Khi tu tập Tứ Niệm Xứ làm cho sung mãn thân, thọ, tâm, và pháp. Khi thân, thọ, tâm, và pháp sung mãn thì Tứ Thần Túc xuất hiện như những dụng cụ để nhập các loại thiền định. Người tu thiền mà chưa xuất hiện những dụng cụ Thần Túc này thì không bao giờ nhập được chánh định, nếu có nhập được cũng chỉ nhập tà định tức là định tưởng. Cứ dựa theo bài của Bác viết trong tài liệu này thì tu thiền là phải điều thân, điều tức, điều tâm, nhưng điều thân, điều tức, điều tâm thì không đúng cách thức tu thiền định của Phật giáo. Điều thân, điều tức, điều tâm đó là cách thức tu tập để nhập vào tà thiền của ngoại đạo. Cho nên điều thân, điều tức, điều tâm là phương pháp ức chế thân tâm để đạt chất lượng không niệm khởi
Kính thưa các bạn! Thiền Phật giáo chỉ có xả tâm ly dục ly ác pháp để cho tâm không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si, là mục đích của đạo Phật đã đạt. Mục đích của đạo Phật đã đạt là chỗ tâm bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên người tu sĩ Phật giáo sống rất bình thường như mọi người, nhưng không ai làm cho họ tham, sân, si được, và không bệnh tật nào làm cho họ dao động tâm được. Đời sống của họ lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Tu tập họ không cần phải điều thân, điều tức, điều tâm, họ không cần có cái trí tuệ “nhất nguyên” tuyệt đối, mang tính xuất thế, vô sai biệt, vô ngã.”
Phật giáo chỉ dạy cho mọi người biết cách tu tập thiền định là thường ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, để cuối cùng tham, sân, si không còn nữa, Có tu tập được như vậy thì người tu sĩ Phật giáo đã chứng đạt chân lí giải thoát hoàn toàn, họ không còn mơ ước gì hơn nữa. Cho nên nhập thiền, nhập định họ chẳng cần những điều này.
Khi một người tâm đã không còn tham, sân, si, thì tâm họ rất định tĩnh, nhu nhuyến và dễ sử dụng. Khi tâm họ định tĩnh, nhu nhuyến và dễ sử dụng thì họ nhập thiền định không có khó khăn, không có mệt nhọc như lấy đồ trong túi. Cho nên nhập thiền định của đạo Phật không quan trọng.
Khi tâm chưa hết tham, sân, si mà điều thân, đều tức, điều tâm để nhập thiền định thì Phật giáo không có dạy điều này. Phật giáo dạy khi chúng ta muốn tu hành thì đầu tiên chúng ta chọn một vị thầy tu chứng đạt chân lý, giới luật phải sống nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Khi chọn được một thầy như vậy thì nên thân cận thưa hỏi. Nhờ thân cận thưa hỏi, vị Thầy đó chỉ dạy cho các bạn hiểu biết chân lí tức là giác ngộ chân lí; khi giác ngộ chân lí xong, vị thầy ấy chỉ cho các bạn cách thức hộ trì chân lí. Khi chân lí được hộ trì đúng cách thì chúng ta chứng đạt được chân lí; khi chứng đạt được chân lí thì tâm các bạn đã đoạn diệt tham, sân, si. Tham, sân, si đã đoạn diệt thì tâm các bạn định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng. Lúc bấy giờ các bạn mới có đủ Tứ Thần Túc. Nhờ có Tứ Thần Túc các bạn mới nói đến chuyện nhập thiền, nhập định. Như vậy sự nhập thiền định của Phật không có liên quan đến vấn đề điều thân, điều tức, điều tâm. Phải không các bạn? Cho nên thân tâm của họ không bị ức chế, võ não xám không bị ức chế. Không bị ức chế thì không bị hưng phấn. Không bị hưng phấn thì sự sống của họ bình thường như mọi người khác, nhưng rất phi thường vì thân tâm họ bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Như Bác viết trong bài này: “Điều tức do ức chế được hô hấp là đã ức chế được thần kinh thực vật. Giây thần kinh phế vị hồn nhiên được ức chế đã làm cho sự hoạt động của tạng phủ phổi dạ dày ruột,.. giảm dần sự hoạt động. Việc tiêu thụ oxy khi ấy xuống rất thấp đã kéo theo sự giảm dần toàn bộ sự hoạt động toàn thể của tạng phủ, tim, não và hệ vận động đi sâu vào trạng thái đồng đẳng”.
Thiền định của đạo Phật không có tu tập những điều này. Chỉ khi cần muốn nhập định nào thì ra lệnh tác ý câu trạch pháp của thiền định đó, tức khắc thân tâm làm theo lệnh và nhập định.
Ví dụ: muốn nhập Nhị Thiền thì ra lệnh: “Thân tâm phải diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền” lúc bấy giờ sáu căn ngưng hoạt động, liền đó thân tâm nhập vào Nhị Thiền, chứ không có nghĩa là điều thân, điều tức, điều tâm để diệt tầm tứ rồi mới nhập Nhị Thiền. Nhập thiền định mà nhập theo kiểu ức chế là sai, là không đúng theo thiền định Phật giáo. Và như vậy không bao giờ nhập Nhị Thiền được.
Trong Định Niệm Hơi Thở của Phật giáo không có dạy dùng hơi thở để nhập các định. Mà Định Niệm Hơi Thở chỉ dùng hơi thở để ly tham, sân, si và các ác pháp như trên đã nói:“ Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tối biết tôi thở ra”. Hơi thở của đạo Phật không giống hơi thở của bác đang luận: “Chúng ta trở lại hơi thở trong trường hợp sợ hãi, tức giận nhịp tim tăng nhanh, nhịp thở gấp, người ta không thể sáng suốt, minh mẫn. Người ta chỉ có thể tỉnh táo, sáng suốt khi thân, tâm được thăng bằng, thở điều hoà, từ nhận thức này, từ hàng ngàn năm nay, ở Ấn Độ cũng như ở Trung Quốc, môn yoga, khí công, dưỡng sinh luyện đan, tu tập trường sinh bất lão chủ yếu đều tập trung vào hơi thở. Các phương pháp thở tùy theotruyền thống của từng nước, từng môn phái… chủ yếu vẫn là “THỞ” tập như thế nào để làm cho hơi thở chậm lại, “QUY TỨC” (thở như rùa, ba ba đồi mồi có thể không thở trong 72 giờ). Sau đó là kết hợp luyện hình, luyện ý theo ba yếu tố chủ chốt, TINH, KHÍ, THẦN, luyện TINH hóa KHÍ, KHÍ hóa THẦN, luyện THẦN hóa HƯ, luyện HƯ hợp ĐẠO. Luyện THẦN đến chỗ hoàn HƯ có nghĩa là dẫn tâm đến chỗ “CHÂN KHÔNG” hay còn gọi là TỊNH TÂM VÔ THỨC. Người mà luyện được tới chỗ “THẦN HOÀN HƯ” thì có nhiều khả năng sống lâu và có trí tuệ. Việc luyện linh đan đã hoàn tất tức luyện HƯ hợp ĐẠO.”
Đoạn luận trên đây của Bác dùng hơi thở để dung hóa các pháp môn Phật, Lão, Yoga, Bà La Môn v.v… Từ chỗ thiền Phật giáo để trở thành thiền luyện TINH, KHÍ, THẦN của Tiên đạo. Đó là một hòa đồng pháp môn mà người sau kiến giải dung hóa thành lập ra. Bây giờ Bác cũng nhẫm lại lối mòn đó. (Hòa Đồng Tôn Giáo theo kiểu Thông Thiên Học)
Theo Diệu Quang hiểu biết thì thiền của Phật giáo không giống một thứ thiền nào của các tôn giáo khác, và cũng không có ai có thể dung hoà được thiền của Phật giáo với các thứ thiền khác được. Vì thiền định của Phật giáo là một pháp môn thiền độc nhất không có một thứ thiền nào giống được. Cho nên thiền định của Phật giáo không phải là một pháp môn tu tập như các pháp môn thiền của các tôn giáo khác. Thiền của Phật giáo là một chương trình giáo dục đào tạo con người sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Một chương trình có bài vỡ hẳn hoi, có phần lý thuyết học tập, có phần thực hành tu tập để sống trở thành một thói quen đạo đức làm Người, làm Thánh rõ ràng cụ thể.
Bởi vậy mục đích của đạo Phật không luyện THẦN đến chỗ HOÀN HƯ, không dẫn tâm đến chỗ “CHÂN KHÔNG” như Tiên Đạo và Đại Thừa. Tiên Đạo và Đại Thừa khéo tưởng tượng pháp môn, tu tập trong tưởng, sống trong tưởng. Còn riêng đạo Phật sống như thật không mơ mộng những điều cao siêu ảo tưởng, chỉ có một mục đích là bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên muốn sống được như vậy thì phải sống biết đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, đó là giải thoát, là thiền định của Phật giáo, đấy các bạn ạ!
Bốn thiền và Tam minh không phải là mục đích của đạo Phật, nó chỉ là một năng lực của đạo đức nhân bản - nhân quả làm người, khi người ấy sống trọn vẹn với đạo đức thì những năng lực này sẽ xuất hiện. Vì thế, Bốn thiền và Tam minh đối Phật giáo nó không có quan trọng. Khi tâm lìa tham, sân, si, tâm định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng thì đức Phật dạy: “Nhập Bốn thiền và Tam minh không có khó khăn, không có mệt nhọc”.
Kính thưa Bác! Diệu Quang đọc bài luận về thiền của Bác viết, Diệu Quang rất lo lắng: “Nếu mọi người cứ hiểu thiền của Phật như bài luận của Bác thì tự nó đã dìm thiền Phật giáo mất. Như vậy về sau còn ai biết thiền của Phật giáo nữa”.
Thiền của Phật giáo là đạo đức của mọi người, lợi ích cho mọi người, đúng căn cơ của con người, chứ không phải như thiền của Bác viết. Thiền của Bác là thiền của những bậc đạo sĩ luyện TINH, KHÍ, THẦN để trở về với CHÂN KHÔNG BẢN THỂ. Những loại thiền này chỉ giành riêng cho những bậc cao siêu, còn những người bình thường phàm phu làm sao tu tập nỗi, nếu có tu cũng trở thành điên khùng như một số người hiện giờ mà Diệu Quang đã chứng kiến. Cho nên thiền này chỉ nói suông nghe chơi, chứ không phổ cập cho loài người được, vì chẳng lợi ích thiết thực cho đời sống của con người, và con người căn cơ thấp kém không phù hợp với những loại thiền này.
Kính thưa Bác! Từ khi có những loại thiền này có mấy người đã chứng được nó? Có người nào luyện TINH, KHÍ, THẦN mà sống được 1000 tuổi chưa? Kinh sách viết về thiền này quá nhiều, biết bao nhiêu giấy mực của thế gian mà có lợi ích gì cho ai, con người khổ cũng vẫn khổ như thường. Có đúng không thưa Bác?
Đối với đạo Phật, thiền là đạo đức làm người, làm Thánh, chứ không phải luyện TINH, KHÍ, THẦN, thiền không phải là khoa học, y học, vật lý học như trong bài viết Bác đã luận.
Theo như bài viết của Bác đã luận: “Đến đây chúng ta có thể nhận xét sơ bộ, nếu nhận xét trên đây là có thể chấp nhận:
- Moóc – phin nội sinh là do cơ thể tiết ra nên không gây nghiện.
- Moóc - phin chỉ tiết ra trong trường hợp châm tê ngoại khoa và châm để làm giảm đau trong điều trị nội khoa, sản khoa.
- Có thể moóc - phin nội sinh chỉ tiết ra trong khi nhập thiền sâu xa (hiện chưacó nghiên cứu nào)
- Nhập thiền càng sâu, này độ moóc - phin nội sinh càng tỏa lan.
- Niềm an lạc do moóc - phin sinh đem lại cho hành giả thực hành thiền quán thuần thành là không thể nào hình dung nỗi đối với tâm trí thế tục; và không một sự khoái lạc thế tục nào sánh nỗi. Đó là chắc chắn; trí tuệ và thần thông đến là điều tự nhiên do “nhập định sâu xa nhu nhuyến dễ sử dụng, lâu dài… tuyệt nhiên không phải do lòng cầu mong thế tục”
Kính thưa các bạn! Theo Diệu Quang nghĩ: “Thiền là thiền, thiền không thể là khoa học, y học, vật lý học. Cái lầm lạc của những người trí thức là hay tổng hợp lấy khoa học, y học, vật lý học, để minh chứng cho thiền định và lấy thiền định lồng trong y học, vật lý học, khoa học để bảo rằng thiền định là một sự thật không hư tưởng”.
Kính thưa các bạn! Thiền định là thiền định; khoa học, y hoc, vật lý học là khoa học, y học, vật lý học, chứ không phải là thiền định; thiền định cũng không phải là khoa học, y học, vật lý học xin các bạn lưu ý cho.
Nói đến thiền định là nói đến tôn giáo; tôn giáo là một chân lí của loài người, ngoài chân lí của con người đi tìm tôn giáo thì tôn giáo ấy là tôn giáo ảo tưởng. Còn chân lí của loài người là tôn giáo thì tôn giáo ấy mới thật sự là tôn giáo của con người; tôn giáo không phải là chân lí của loài người là tôn giáo tưởng tri, do con người tưởng ra Thánh khải hay Cơ bút giáng.
Cho nên tôn giáo là đạo đức của loài người. Đạo đức của loài người là tôn giáo và như vậy tôn giáo ấy mới thật sự là lợi ích của loài người.
Ở đây bác và mọi người trí thức khác đều chưa phải là những người đã chứng đạt chân lí; chưa phải là những người nếm mùi vị thiền định, nên khi viết ra sợ mọi người không tin thiền định mình viết, mình đang hiểu biết và đang tu học, nên dựa theo lý giải của khoa học, y học và vật lý học để lồng ghép vào thiền định khiến cho mọi người chưa biết thiền định đều tin theo bài viết của mình là thiền như thật.
Đức Phật đã hiểu biết những điều này nên Ngài đã răn nhắc chúng ta: “Đừng có tin! Đừng có tin! Và đừng có tin!!!! … Chỉ có đạo đức mới đem lại sự lợi ích cho mình, cho người thì nên tin”.
Đã lâu Diệu Quang nhận được bản dịch Việt ngữ tập sách “THE TAO OF PHYSICS” của tác giả FRITJOF CAPRA do Nhà khoa học vật lý Nguyễn Tường Bách biên dịch:“ĐẠO CỦA VẬT LÝ” đã tóm lược vật lý khoa học lồng vào đạo học như sau: “Đặc trưng của nền vật lý hiện đại của thế kỷ 20 là sự tìm kiếm nguồn gốc khởi thủy của vật chất cố tìm ra những “HẠT CƠ BẢN”, cuối cùng tạo nên nguyên tử. Thế nhưng khi đến cánh cửa cuối cùng mở ra để thấy bộ mặt thật của vật chất, nhà vật lý phát hiện vật chất hình như không phải do những hạt cứng chắc tạo thành nữa mà nó chỉ là dạng xuất hiện của một thực tại khác, vì thế mà vật chất mang những tính chất hầu như đối nghịch nhau, nó vừa liên tục, vừa phi liên tục, vừa hữu hiện vừa phi hữu hiện; dạng xuất hiện của nó tùy theo cách quan sát của con người. Những tính chất lạlụng đó đưa ngành vật lí vào thẳng cửa ngõ của triết học: nền vật lý hiện đại vừa thống nhất và lý giải nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đề ra những câu hỏi lớn của loài người mà các nhà Đạo học từ xưa đã tổng kết, và kỳ lạ thay, những phát hiện hiện nay của nền vật lý hiện đại không khác bao nhiêu với những kết luận của các Thánh nhân ngày xưa”
Đọc qua đoạn luận này các bạn thấy rất rõ ngành khoa học vật lý hiện đại đã lồng vào đạo học để dẫn chứng đạo học (thiền) là vật lý khoa học.
Thưa các bạn! Diệu Quang thiết nghĩ: “Nếu những nhà vật lý khoa học này đã nhập được thiền định đúng chánh pháp của đức Phật thì các vị ấy không bao giờ viết và dịch cuốn sách này “ĐẠO CỦA VẬT LÝ”, rõ ràng các nhà khoa học lấy vật lý để minh chứng cho đạo học, nhưng đạo học vẫn là đạo học; vật lý khoa học vẫn là vật lý khoa học, nếu Diệu Quang nghĩ không lầm, các nhà khoa học vật lý không thể hiểu mục đích của đạo học. Vì lợi ích cho con người nên Đạo học mới ra đời, nhưng Đạo học lại đưa ra một thứ thiền hư tưởng, nó không đáp ứng nhu cầu đạo đức sống của con người, nên nó không được phổ cập đến mọi con người, vì thế, nó chỉ giành cho những bậc tiêu cực yếm thế.
Kính thưa các bạn! Mục đích của đạo học, nhất là thiền của Phật giáo là đem lại sự an vui, thanh thản, bất động thân tâm ra khỏi mọi sự khổ đau của con người. Đạo học giúp cho con người có một cuộc sống hài hoà với mọi người không làm khổ mình, không làm khổ người, chứ đâu phải nêu ra và so sánh để đi vào kết luận đạo học của vật lý. Nếu đạo học của vật lý là vật lý thì còn có nghĩa gì là đạo học nữa, là thiền nữa.
Nếu như vậy thiền định là một vật lý đâu còn phải là một tinh thần sống động, đầy đủ sự an lạc, thanh thản, yên vui của từ tâm hỷ, xả.
Kính thưa các bạn! Khi chưa nhập thiền định các bạn đừng nên viết nói về thiền định, dù có viết nói về thiền định thì các bạn sẽ viết không đúng, chỉ khi nào các bạn có Định Thần Túc thì các bạn viết và nói về thiền định thì không còn sai nữa các bạn ạ!.
Sau khi tu tập Tứ Niệm Xứ viên mãn Thầy Thông Lạc có đủ Tứ Thần Túc. Khi có đủ Tứ Thần Túc mới nhập các định và thực hiện Tam minh, còn chưa có thì không bao giờ nhập định được như đã nói ở trên. Khi nhập các định xong, bấy giờ Thầy mới xem xét lại kinh sách Đại Thừa, Thiền Tông và tất cả những kinh sách của những nhà Đạo học họ viết và luận về thiền, Thầy biết rất rõ tất cả các vị ấy chưa bao giờ nếm được mùi vị của thiền định, họ chưa bao giờ biết thiền định ra sao? Họ chưa bao giờ biết nhập định như thế nào? Họ chỉ nói theo kiểu suy luận như giáo sư Capra và giáo sư Nguyễn Tường Bách.
Tóm lại, thiền không phải là khoa học, khoa học không phải là thiền, thiền thuộc về tinh thần đạo đức nên nó mang đầy tính thiện chứ không phải là những loại thiền mang tính chất vật lí của đạo học Đông phương, xin quý vị đừng gán cho nó là thiền của Phật giáo, nếu quý vị cho nó là thiền của Phật giáo là quý vị quá nông nổi.
Thăm và chúc bác Đức Thông vui, mạnh và xả tâm tốt. Nếu Diệu Quang nói có điều chi sơ sót xin Bác vui lòng tha thứ cho, Vì Diệu Quang biết mà không nói ra thì rất tội nghiệp cho con cháu những thế hệ mai sau sẽ lầm lạc.
Kính thư - Diệu Quang.
NHIẾP TÂM KHÔNG VỌNG TƯỞNG
Câu hỏi của HN
Hỏi:Hiện nay con đang có một vướng mắc trong tu tập. Đấy là những lúc con ngồi thiền và cảm thấy an lạc, nhưng nhiều lúc lại có vọng tưởng nổi lên trong đầu và không thấy an lạc nữa. Con không biết làm cách nào để dẹp bỏ những vọng tưởng đó. Mong các thầy và các đạo hữu chỉ dạy. Con xin cám ơn!
Đáp:Khi ngồi thiền vắng vọng tưởng con có cảm nhận sự an lạc, đó là con đã rơi vào thiền tưởng. Sự an lạc ấy gọi là xúc tưởng hỷ lạc.
Còn khi nào ngồi thiền có vọng tưởng thì an lạc không có. Như vậy con đã tu tập thiền định gì mà không nhiếp và an trú tâm được? Hay là con ngồi chơi, ở đây con không nói rõ con đã tu tập pháp môn nào?
Muốn nhiếp và an trú được tâm thì giới luật phải sống nghiêm chỉnh và còn phải tu tập Định Vô Lậu, nhờ có sống đúng giới luật và tu tập Định Vô Lậu thì tâm con sẽ ly dục ly ác pháp, nhờ có ly dục ly ác pháp thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi sẽ bị diệt trừ. Khi tâm tham, sân, si mạn, nghi bị diệt trừ thì vọng tưởng sẽ không còn.
Tu tập đúng pháp khi ngồi thiền thì nhiếp tâm và an trú tâm một cách dễ dàng, chứ không phải tu tập như con lúc không niệm khởi, lúc có niệm khởi mà không biết cách làm sao ngăn và diệt?
Tu tập muốn không niệm vọng tưởng thì chỉ có pháp Như Lý Tác Ý dùng nó dắt tâm vào chỗ không vọng niệm. Nhưng tu tập không vọng niệm để làm gì?
Tâm không vọng niệm không phải là định, người nào hiểu tâm không vọng niệm là là định thì người ấy không hiểu biết gì về thiền định của Phật giáo cả.
Một người tu tập thiền của Phật giáo chỉ khi nào có Định Như Ý Túc thì mới nhập được Tứ Thánh Định, còn chưa có Định Như Ý Túc thì nói tu tập thiền định là nói đến định tưởng. Định tưởng là một loại thiền định của ngoại đạo nên không có phương pháp dẫn tâm nhập định mà chỉ ức chế tâm cho hết vọng tưởng bằng những phương pháp tập trung tâm như sổ tức, tùy tức, niệm Phật, tham công án, tham thoại đầu, phòng xẹp Minh Sát Tuệ v.v... Tu tập những pháp này bị căng mặt, nhức đầu, bị rối loạn thân kinh, tẩu hỏa nhập ma, con người tâm ý ngơ ngơ ngát ngát không còn bình thường, luôn sống đặc dị, điên thì chưa điên mà tỉnh thì không tỉnh.
Khi tu tập thiền định thì các con nên chọn một vị Thầy đã nhập các định xong, còn những Thầy chưa nhập định xong mà tu thiền định với họ thì rất nguy hiểm đến sinh mạng của các con. Nhớ những điều này vì nó hệ trọng cho một kiếp người.
vvvv
NGHIỆP
Câu hỏi của HN
Hỏi:1- Nghiệp là cái gì?
Nếu nghiệp là kết quả của hành động, không phải là một chủ thể thì làm sao nó lại tái sinh luân hồi được?
Đáp:Nghiệp là do lòng ham muốn của con người điều khiển hành động thân, miệng, ý tạo ra, chứ không phải nghiệp là kết quả của hành động thân, miệng, ý. Cho nên chủ thể tạo ra nghiệp là lòng ham muốn của con người.
Trong bốn chân lý của đạo Phật (Tứ Diệu Đế) thì TẬP ĐẾ đức Phật đã xác định đó là nguyên nhân sinh ra đau khổ của con người. Như vậy chân lý Tập Đế là LÒNG HAM MUỐN. Lòng ham muốn là chủ thể điều khiển các hành động nhân quả thiện ác từ ba nơi trong thân, đó là: THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH và Ý HÀNH.
Vì thế mới nói nghiệp là do các hành động vô minh của các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống tạo thành, nên các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống theo qui luật nhân qua tạo thành, mà chính gốc là lòng ham muốn nó cũng theo qui luật nhân quả làm chủ thể tạo tác ra nghiệp, nhưng các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống đều là pháp vô thường, còn nghiệp là những từ trường do những hành động thiện ác của các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống tạo thành nên nó tương ưng với những hành động vô minh thiện ác của môi trường sống mà tiếp tục tái sanh luân hồi nên gọi là duyên hợp tương ưng.
Thân tâm con người là một duyên hợp và cũng là duyên tan của môi trường sống cho nên nó là các pháp vô thường. Nó là các pháp vô thường nên không đi tái sanh luân hồi mà hành động thiện ác của nó phóng xuất ra những từ trường thiện ác huân tập thành một lực vô hình rất mạnh nên kinh sách Phật gọi là nghiệp. Nghiệp ấy tái sinh luân hồi, chứ không phải tâm con người đi tái sanh, vì tâm con người là pháp vô thường như trên đã nói. Khi chết là mất hết không còn một uẩn nào cả
vvvvvv
NGHIỆP LÀNH CỦA PHẬT
Câu hỏi của HN
Hỏi:2- Nếu còn nghiệp thì còn tái sanh thì nghiệp lành của đức Phật vẫn đang phủ khắp thế giới này, sao nói Người đã thoát khỏi luân hồi sinh tử?
Đáp:Nghiệp lành của Phật là vô nghiệp (vô lậu), nên đức Phật đã thoát ra khỏi luân hồi tái sinh. Nghiệp lành của Phật ra khỏi qui luật nhân quả nên nó có một nội lực thâm hậu, do đó nó làm ngược lại qui luật nhân quả. Làm ngược lại qui luật của nhân quả tức là làm chủ sự sống chết, làm chủ sự sống chết tức là làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả thì làm sao còn tái sinh luân hồi được.
Nghiệp chia làm 3 loại:
1- Nghiệp ác hữu lậu
2- Nghiệp thiện hữu lậu
3- Nghiệp thiện vô lậu.
Người ở đời thường sống tạo tác ra hai nghiệp thiện và ác hữu lậu. Riêng đời sống đệ tử của đức Phật thường ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp vô lậu nên luôn luôn sống trong thiện pháp vô lậu, vì thế từ trường vô lậu không tương ưng với các từ trường hữu lậu của môi trường sống trong thế gian nên chấm dứt tái sanh luân hồi. Cho nên từ trường vô lậu của Phật đang phủ trùm khắp thế giới mà không tái sinh luân hồi chỗ nào cả, vì không có đối tượng tương ưng. Không có đối tượng tương ưng nên chấm dứt tái sinh luân hồi. Vậy nghiệp thiện vô lậu là cái gì?
Nghiệp thiện vô lậu là trạng thái tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự, đó là chân lí của Phật giáo, người tu hành đạt đến chỗ này là chứng đạo quả A La Hán, không còn phải tu tập cái gì khác nữa, tuy chưa vào Niết bàn nhưng lúc nào cũng ở trong trạng thái Niết bàn.
vvvv
NGHIỆP LÀM SAO CHUI VÀO
BÀO THAI
Câu hỏi của HN
Hỏi:3- Một đứa bé khi mới thành hình, đâu đã làm được gì, đâu đã tạo nghiệp, sao nói nó bị nghiệp dẫn, thế cái nghiệp đó ở đâu ra, làm sao chui vào bào thai được?
Đáp:Đứa bé khi mới thành hình còn trong bụng mẹ là một khối nghiệp cũ hợp duyên thành hình bào thai để trả nghiệp quả, vì thế nó thọ chịu biết bao nhiêu là khổ đau như ở trong bụng mẹ chịu chất nhớt nhao nhơ bẩn chật chội cho đến 9 tháng 10 ngày mới xuất thai, khi xuất thai chịu đau đớn vô cùng và suốt ba bốn năm nằm trên chất bài tiết của mình chịu hôi chịu thối, cha mẹ phải chịu cực khổ nuôi dưỡng cho bú cho ăn, thật là cực khổ trăm bề, đó là trả nghiệp hiện tại của đời trước.
Nghiệp thì không có chui bào thai, nghiệp đâu phải là linh hồn nên gọi là chui vào hay không chui bào thai. Câu hỏi của phật tử đã là sai. Nghiệp chỉ có tương ưng hợp các duyên khác mà tạo thành bào thai. Cho nên đức Phật gọi là duyên hợp chứ không có nói chui vào. Một đứa bé khi mới hình thành thì đó là hình thành thân ngũ uẩn của đứa bé. Hình thành thân ngũ uẩn gọi là nghiệp mà bào thai là thân ngũ uẩn do các duyên hợp lại tạo thành. Hình thành thân ngũ uẩn của đứa bé là bào thai. Quí phật tử có hiểu không?
Bào thai là thân nghiệp. Thân nghiệp này là đứa bé co tay duỗi chân làm theo các hành động vô minh khi bào thai lớn dần trong bụng mẹ nên chật chội khó chịu, vì khó chịu nên co tay duỗi chân khiến cho bà mẹ bị đau đớn, đó là trả nghiệp cả mẹ lẫn con. Những hành động đó gọi là nghiệp thọ khổ (khổ mẹ, khổ con) Nếu bảo rằng đứa bé mới thành hình đâu làm được gì, đâu đã tạo nghiệp, sao nói nó bị nghiệp dẫn…? Nghiệp không dẫn sao lại nằm trong bụng me? Nghiệp không dẫn sao mẹ lại mang nặng đẻ đau? Nghiệp không dẫn sao cha mẹ lại lấy nhau để có thai nhi? Nghiệp không dẫn sao trai gái gặp nhau lại thương nhau kết làm chồng vợ? Nghiệp không dẫn sao lại mang thai, xuất thai rồi chịu muôn vàn khổ cực nuôi con lớn khôn?
Hành động co tay duỗi chân của bào thai không phải là nghiệp sao?
Thân của đứa bé là nghiệp, còn bảo cái nghiệp nào ở đâu nữa, Nghiệp ngay trước mắt đó mà hỏi nghiệp thì cũng giống như một ông già lẫn lộn, đang ở trong nhà mà hỏi nhà bác đâu?
Nghiệp không có chui vào bào thai mà nghiệp chỉ có tương ưng với nghiệp của cha mẹ, do hành động của cha mẹ hợp duyên tạo thành nghiệp mới (bào thai).
Ở đây không có vật gì chui vào bào thai, mà chỉ có nghiệp tương ưng với nghiệp rồi duyên hợp tạo thành nghiệp mới (đứa bé).
Kính thưa quý Phật tử! Chúng tôi cố gắng diễn đạt để quý vị hiểu một chút về sự tương ưng duyên hợp của nhân quả trong môi trường sống trên hành tinh này. Xin quý Phật tử hãy đọc ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢthì rõ.
Thăm và chúc quý Phật tử vui mạnh nhớ xả cho thật tốt.
Kính thư
(Ngày 6 tháng 6 năm 2007)
Kính gởi Thầy! Con xin php trình by Thầy những khc mắc của con.
Hỏi:Nói đến giới hạnh sống độc cư, con chưa hiểu hoàn toàn. Nhưng những gì con lm hiện nay con cĩ suy nghĩ về nĩ v so snh với sự giữ gìn độc cư của người khác thì con thấy hồn tồn tri ngược. Xin Thầy chỉ dạy cho con r lại:
Đáp:Hạnh độc cư là phương pháp hộ trì và bảo vệ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Bởi do sáu trần tiếp xúc sáu căn nên sinh ra nhiều ác pháp khiến tâm phóng dật không giữ gìn bảo vệ chân lí được, do vậy tâm thường đánh mất trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự.
Vì thế, người tu tập muốn chứng đạo quà A La Hán thì phải sống giữ gìn hạnh độc cư cho trọn vẹn. Có nghĩa là phải sống một mình, không được nói chuyện với ai cả. Người tu hành không biết cứ phá hạnh độc cư vì thế tu hành chẳng đi đến đâu, rất uổng phi một đời.
Hỏi:1- Giữ gìn độc cư là không đi nói chuyện với người khác, thấy người khác tụm 3 tụm 5 thì trnh khơng tham gia vo”.
Đáp:Đúng vậy, không nên đi nói chuyện với ai cả.
Hỏi:2- Trong lớp học thì khơng được nói chuyện với người khác, không nói chuyện tào lao, chuyện phím, chuyện đời, chuyện đạo đúng sai. Chỉ trả lời khi ai hỏi chuyện gì cần thiết lắm nhưngthưa hỏi phảingắn gọn.
Đáp:Nên tránh duyên để giữ hạnh độc cư trọn vẹn. Vả lại trong tu viện người cũng lo tu tập và giữ gìn độc cư thì còn ai nói chuyện tào lào, chuyện phím v.v...
Hỏi:3- Trong tu viện, sống như người bình thường. Khi có ai nhờ làm gì thì lm ( ví dụ cơ t nhờ sửa my tính thì sửa), khơng tự ý lm.
Đáp:Đúng vậy, nếu có ai nhờ làm cái gì thì làm không thì thôi, chỉ lo sống một mình tu hành
Hỏi:4- Sống trong tu viện vẫn phải kính trọng từng người một, đi gặp ai cũng phải kính chào, nghiêm trang và đúng oai nghi của người tu sĩ.
Đáp:Đúng vậy, đó là đức lễ cung kính và tôn trọng mọi người mà người tu sĩ cần phải thực hiện hằng ngày khi gặp mọi người đều phải kính cẩn chào nhau.
Hỏi:5- Khi gặp bạn đồng tu hỏi mượn bài luận thì vẫn cho mượn, có nói chuyện thì cũng nĩi xung quang bi luận thơi.
Đáp:Đúng vậy, ai hỏi mượn gì đều cho mượn cả, nhưng không được lợi dụng chỗ hỏi mượn để nói chuyện thì không tốt vì phạm giới độc cư
Hỏi:6- Khi cần gĩp ý kiến cho ai thì viết thơ, khơng nĩi chuyện trnh tranh luận
Đáp:Đúng vậy, cần lắm mới góp ý kiến, nhưng không cần thì nên lo tu tập cho mình, đừng lo chuyện thiên hạ, chuyện thiên hạ nhiều lắm biết bao giờ hết.
Hỏi:7- Khi thấy bạn đồng tu học kém, không hiểu bài. Nếu có đủ duyên như tình cờ gặp người đó tại phịng vi tính, thì mình nĩi lời động viên họ tu tập, giải thích những gì họ chưa thông hiểu, cách áp dụng vào đời sống, giải thích giới luật là gì? Nhẫn nhục, ty thuận v bằng lịng l gì? Chỉ cho họ biết cch tư duy quán xét xảtm, hiểu r thiện c ra sao? Giải thích cuộc đời này khổ như thế nào?
Đáp: Bảy việc làm trên đây là vì lòng yêu thương (đức hiếu sinh), nhưng nó chỉ độc cư ở giai đoạn 1, 2, còn giai đoạn 3 thì độc cư chánh định thì khác. Giai đoạn 1, 2 là giai đoạn tu tập Định Vô Lậu (tu học giới luật đức hạnh) triển khai tri kiến giải thoát, cho nên việc tiếp duyên trên là áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống để ly dục ly ác pháp phải có đối tương. Còn giai đoạn 3 là giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, giai đoạn này phải giữ gìn độc cư 100% là giai đọan tu chứng đạt chân lí cho nên càng giữ gìn độc cư nghiêm chỉnh càng chứng đạo dễ dàng. Đây là giai đoạn cuối cùng của con đường tu theo Phật giáo, giai đoạn này phải hộ trì sáu căn rất chặt mới ly dục ly ác pháp vi tế trong tâm hoàn toàn. Cho nên sự tu hành theo Phật giáo phải sáng suốt và nhớ kỹ: Tu pháp môn nào thì giữ gìn độc cư theo pháp môn đó tức là tu pháp môn đó thì phải giữ gìn sáu căn ở mức đó, nếu giữ sai sẽ bị ức chế tâm.
Hỏi: Tất cả những ci con lm l vì tình thương chứ không phải chạy theo dục.
Sau tất cả mọi việc con chỉ thích sống một mình trong thất vì con thấy tm con thích quay vơ.
Cuộc sống của con tại tu việnhiện nay là như vậy. Con không muốn về nhà. Chỉ khi nào cần thiết lắm về lo giấy tờ con mới về, chứ không về để chơi, về rồi trở lại tu viện ngay. Con có cảm giác gia đình l ci gai, l c, l dục.
Khi thấy những chuyện cần làm, và con có khả năng làm thì con lm cho bằng được, ngồi yên một chổ không được. Ví dụ khi Ba con gọi điện thoại nói là con cần về nhà bổ sung thêm giấy tờ và ký giấy tờ. Sau đó Ba nói l khơng cần về vì Ba cĩ thể soạn giấy tờ v ký thay chữ ký của con. Con phn tích thấy rằng Ba mạo chữ ký của con l một điều giả dối. Con không muốn vì mình m người khác làm bất kỳ chuyện gì giả dối nn con muốn đi về lo công việc ( xin Thầy cho con biết con nghĩ như vậy có đúng không?)
Đáp:Đúng, con nên về làm giấy tờ cho xong rồi mới yên tu hành, tu hành đừng để một lỗi lầm trong tâm thì rất khó xả, dù là lỗi lầm rất nhỏ nhưng cũng nên tránh.
Hỏi:Hiện nay con chưa đủ duyên xả bỏ hết tiền bạc vì con cịn đi lại. Nhưng khi con thấy ai cần cái gì thì con cĩ ý khi ra ngồi tu viện con nhớ con sẽ mua ci đó cho họ, ví dụ đèn pin, tranfo đèn, sách, và vài thứ điện tử khác. Những việc làm này là vì người khác chứ không vì mục đích riêng tư cho bản thân.
Đáp: Với quyết tâm tu hành cầu giải thoát thì tu viện là nơi dừng chân cho người lữ khách tha phương đã biết các pháp thế gian vô thường khổ đau, nhưng phải thấu triệt qui luật nhân quả có vay thì phải có trả, vì thế những điều con làm ở trên là áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống để chuyển đổi nhân quả khiến mỗi ngày càng tiến dần đến tâm bất động hoàn toàn. Đó là:
1- Đối với bản thân bằng hạnh độc cư hiếu sinh (tự nói chuyện với mình bằng pháp triển khai tri kiến, chứ không được nói chuyện tham sân, si ,mạn, nghi và cần giải quyết mọi giấy tờ cần thiết cho yên ổn).
2- Đối xử với những người thân bằng hạnh độc cư hiếu sinh (nói chuyện những gì cần nói để trợ giúp người thân sống trong đạo đức Ngũ Giới, tạo duyên hòa hợp mọi người trong gia đình)
3- Đối với bạn đồng tu bằng hạnh độc cư hiếu sinh (nói chuyện những gì giúp đỡ và sách tấn các bạn đồng tu đừng thối chuyện bỏ dỡ tu hành, nhưng không được nói chuyện ngoài lề).
4- Tiền bạc rất cần làm việc giúp đỡ bạn đồng tu trong giai đoạn học lớp đạo đức Ngũ Giới, chỉ khi nào tu tập đến giai đoạn Tứ Niệm Xứ thì không cất giữ tiền bạc (Những người xuất gia Thầy có bài pháp dạy riêng về hạnh không cất giữ tiền bạc và tại sao không cất giữ tiền bạc)
Hỏi: Về chuyện đánh vi tính, con vẫn thường ra vô phịng vi tính mỗi ngy, học đánh máy và đánh những thứ cần thiết. Khi làm việc thì con khơng thích nĩi chuyện với ai cả, chỉ khi ai hỏi con mới trả lời. Con khơng thể cm miệng như mọi người khi có người hỏi. Con không phải là người vô dụng nên khi ai nhờ con vẫn giúp; vẫn nói những gì con biết, chỉ trả lời đúng những điều hỏi thôi không nói lang mang chuyện đông chuyện tây.
Đáp:Đọc cư trong giai đoạn tu tập giới đức hiếu sinh là phải tiếp duyên đem đức hiếu sinh đến với mọi người, khi mình học được điều gì trao đổi giúp nhau vượt khó áp dụng cho bằng được đức hiếu sinh tức là đem đức hiếu sinh đến với mọi người. Những điều con nói trên đây là đúng. Đây là giai đọan học Giới Luật đức hạnh thì độc cư là phát biểu những ý kiến về đạo đức, khích lệ sách tấn mọi người sống với đức hiếu sinh cho được, đó là độc cư. Học đức hiếu sinh mà không trao đổi với nhau thì tình thương ấy ở đâu?. Im lặng như thánh trong giai đoạn này là sai pháp, nhưng trao đổi để giúp nhau sống trong tình thương, chứ không phải trao đổi những chuyện tào lao, nói xấu người này, người kia. Nói sau lưng kẻ khác thì không nên. Những điều đó cần phải im lặng như thánh.
Hỏi: Con nghĩ cuộc sống như vậy sẽ đúng hơn với cách tu mới thầy vạch ra cho chúng con hiện nay. Không phải nói tu là hoàn toàn im lặng. Ai hỏi gì thì khơng nĩi, chỉ nĩi với những người lớn như giảng viên, Cô út, cịn những người khác thì khơng coi trọng vì lý do là giữ hạnh độc cư, chuyện này con không làm được. Đối với ai con cũng tôn trọng như nhau, kể cả em bé.
Đáp:Đức Hiếu Sinh đa hướng trong đó có đức Tôn Kính và hạnh Bình Đẳng Vì vậy khi thực hiện đức hiếu sinh, thì phải tôn kính, bình đẳng đối với mọi người, từ người già những bậc Trưởng lão Thầy Tổ cho chí các cháu bé thơ, phải vui vẻ ôn tồn trả lời với những ái ngữ tôn trọng lời nói của người khác, và có thể mời họ vào nhà khách nói chuyện công khai, đúng pháp, đúng đức hạnh độc cư, nói chuyện mà vẫn giữ ý căn và khẩu căn là độc cư, chứ không phải độc câm, vì nói trong giới luật đức hạnh hiếu sinh là nói trong độc cư. Con có biết không? Tuy chỗ này Thầy chưa dạy là vì lớp học Ái Ngữ chưa được triển khai. Các con còn phải học nhiều lắm các con ạ! Lớp Ngũ Giới thứ tư – Đức Thành Thật, Thầy sẽ dạy nói chuyện mà phòng hộ sáu căn tức là độc cư trong khi nói chuyện. Điều này nghe qua các con chưa học khó nhận ra lắm, nhưng nó là pháp độc cư của Phật giáo, chứ không phải của ngoại đạo. Độc cư của ngoại đạo khi gặp ai hỏi một điều gì cũng đều im lặng và bỏ chạy trốn không dám thấy bóng người, đó là độc hại, độc câm chứ độc cư của Phật giáo thấy từng tâm niệm của mình lúc nào phải độc cư im lăng như thánh lúc nào độc cư với năm đức hạnh, với bà đức Tam Quy, với.Tám Đức Bát Quan Trai Giới, với mười đức Thập Thiện, Với Thập Giới Sa Di, với Định Niệm Hơi Thở, với Tứ NiệmXứ và Tứ Thánh Định..
Độc cư trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới thì phải biết im lặng như thánh và bỏ đi khi nghe người khác nói xấu người khác, nói sau lưng người khác, nói lời li gián, nói không thật, nói thêu dệt.v.v...Còn có người hỏi đúng nơi đúng chỗ về đức hiếu sinh thì trả lời và nói về cách thức áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống chứ không được im lặng như thánh và bỏ đi, đấy là sai..
Những điều con nói trên là đúng hãy cố gắng thực hiện đức hiếu sinh vào cuộc sống để đem lại sự bình an cho mình cho người và cho tất cả chúng sinh.
Hỏi: Theo con nghĩ kể cả giảng viên không phải chỉ lên lớp tiếp xúc với học viên rồi sau đó về thất tu tập, im lặng không tiếp xúc ai. Theo con khi cần thiết có tu sinh nào đến hỏi thì vẫn phải trả lời, khi cần đến thất tu sinh giảng dạy riêng thì cũng cần đến. Đó là sự thể hiện đức hiếu sinh.
Sống như vậy là không sống theo dục, sống theo ý của người khác, làm lợi ích cho người khác. Sống như vậy là cách sống của người giảng viên thay mặt Thầy đi giảng dạy ở mọi nơi. Có sống như vậy dùgặp bao đối tượng nghịch duyênhằng ngy đều là để xảtm; có sống đúng đức hạnh hiếu sinh như vậy là đ giải thốt rồi.
Ở đây con muốn hiểu r giới độc cư sống như thế nào cho đúng, nên con phân tích ra nhờ Thầy khuyên dạy con, nắn con lại cho đúng để con không sai phạm bất kỳ giới nào. Con rất cần trau dồi thân tâm cho toàn thiện hơn nữa, đúng với người đệ tử của Phật, của Thầy. Kính mong Thầychỉ dạy.
Đáp:Dạy lớp Đức Hiếu Sinh giảng viên phải thực hiện lòng yêu thương của mình không những đến với học viên mà còn đến với mọi người, bằng thân hành, bằng khẩu hành, bằng ý hành. thương yêu chân thật từ trong tận thâm tâm của mình..
1- Bằng ý hành với sự hộ trì bảo vệ ý căn không được nghĩ điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nghĩ những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn chúng ta nghĩ điều thiện với họ. Họ nghĩ những điều xấu ác về ta sẽ có luật nhân quả trừng trị còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách tư duy thiện pháp để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Đó là chúng ta đang hộ trì ý căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Độc Cư thứ nhất ý hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới.. Cho nên suy nghĩ tư duy quán xét, lại là độc cư im lặng như thánh.
2- Bằng khẩu hành vời sự hộ trì bảo vệ khẩu căn (thiệt căn) không được nói những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nói những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn dùng ái ngữ nói điều thiện với họ. Họ nói những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách nói lời thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Đó là chúng ta đang hộ trì khẩu căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Độc Cư thứ hai khẩu hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới..
Cho nên, tiếp duyên nói chuyện với mọi người, lại là độc cư im lặng như thánh.. Ở đây các con nên lưu ý chỉ cần nói không thật, nói dối, nói thêu dệt, nói li gián, nói lời hung dữ, nói chuyên tào lao, nói chuyện ngoài pháp tu, nói chuyện phím, nói chuyện của người khác v.v...là phá hạnh Độc Cư , là phạm giới..
Ở đây giai đoạn học giới luật đức hạnh, cho nên Độc Cư là giới luật phòng hộ sáu căn, chứ không phải độc cư là không nói chuyện, nhưng chúng ta không hiểu pháp độc cư áp dụng không đúng thành không dám nói chuyện là bị ức chế tâm, thì cũng rất tai hại. Còn lợi dụng chỗ tiếp duyên nói chuyện này, đi nói chuyện tào lao cho thỏa thích như người thế gian, thì rất uổng cho một đời tu tập mà chẳng đi đến đâu.
Người giữ hạnh độc cư cần nói những điều lành đem lợi ích cho mình cho người, còn nói những điều ác thà chết chứ không nói, đó là hạnh độc cư phòng hộ khẩu căn.. Các con nên ghi nhớ.
3- Bằng thân hành vời sự hộ trì bảo vệ thân căn, không được làm những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ làm những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn làm những điều thiện với họ. Họ làm những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách làm những thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Đó là chúng ta đang hộ trì thân căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Độc Cư thứ ba thân hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới..
Tóm lại người biết phòng hộ sáu căn là người sống độc cư. Độc cư đúng với phương pháp đang tu, còn sống không đúng với pháp đang tu dù không nói chuyện nhưng vẫn chưa phải là sống độc cư. Xin các con nên lưu ý để áp dụng pháp độc cư.cho đúng.
Hỏi: Sống trong tu viện phải kính trọng từng người một, đi gặp ai cũng phải chào, nghiêm trang đúng oai nghi của người tu sĩ. Sống phải thoải mái để người khác gặp mình họ khơng e ngại. Khi họ thấy tự nhin thì cĩ những chuyện vui buồn họ đều muốn chia sẻ với mình, điều đó họ cảm thấy thoải mái hơn. Con vẫn nghe, vẫn cười với họ nhưng không bàn chuyện đúng sai và vẫn phải biết lắng nghe tôn trọng những gì họ nĩi. Nĩi đáp lại những câu ngắn gọn rồi tiếp tục đi, chứ không ngồi xuống nói chuyện với họ vì đó là sai.
Đáp:Người tu sĩ Phật giáo phải có đầy đủ giới đức, lễ nghĩa, oai nghi tế hạnh, lúc nào cũng biết tôn trọng và cung kinh người trên kẻ dưới. Sự cung kính và tôn trọng người trên kẻ dưới là thực hiện đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành. Khi người khác hỏi mình mà không trả lời là thiếu đức cung kính, tôn trọng; khi đi trên đường gặp nhau mà không chắp tay cúi đầu chào nhau là thiếu đức cung kính và tôn trọng người khác. Học đức hiếu sinh mà không áp dụng đức hiếu sinh thì không phải là đệ tử Phật. Nhưng không được lợi dụng sự chào hỏi mà không phòng hộ sáu căn, để tâm tự do phóng dật làm động mình động người khác.
Cho nên học giới luật đức hiếu sinh và giữ gìn hạnh độc cư thì phải hiểu nghĩa cho rõ ràng, chứ hiểu sai áp dụng sai sẽ đi đến kết quả trái ngược nhau và còn sinh ra bệnh tật, rất uổng cho một đời tu tập.
Hỏi: Con có nhận Bức tâm thơ 52 Thầy gởi cho Sư Từ Quang, nhưng ngoài bìa thơ Thầy ghi là cho Kim Quang, con nghĩ Thầy muốn rèn luyện con thành người tốt và có ích. Con rất biết ơn Thầy và rất mong thường xuyên nhận được sự quan tâm của Thầy. Riêng con vẫn cố gắng học tập trau dồi các giới đức hạnh bằng tri kiến thêm để trang bị hành trang cho mình xứng đáng là người đệ tử Phật, đệ tử Thầy và làm gương sáng cho mọi người.
Khi khơng cĩ việc gì con rất thích sống một mình.
Con biết by giờ con cịn phạm lỗi chưa giữ hạnh độc cư trọn vẹn, nhưng con cũng có đặt câu hỏi như thế nào là trọn vẹn. Con cũng đến lớp, có bạn đồng học đồng tu, ra vào tu viện vẫn gặp họ thì khi họ hỏi gì thì phải nĩi thơi, chứ im lặng bỏ đi con thấy không coi được chút nào, vì đó là thiếu đạo đức tôn trọng. Con chỉ biết rằng con không bao giờ có ý định đến thất ai, hoặc gặp ai nói chuyện tào lao. Xin Thầy dạy cho con phải làm sao cho đúng.
Cám ơn Thầy - Kim Quang
Đáp:Những lời trình bày sự tu tập của con trên đây, là con đã biết áp dụng đức hiếu sinh và giữ gìn hạnh độc cư trong giai đoạn rèn nhân cách học lớp Ngũ Giới. rất đúng.
Con đường tu học của Phật giáo có ba chặng: Chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối cùng. Chặng đầu gọi là Giới, chặng giữa gọi là Định, Chặng cuối cùng gọi là Tuệ. Vì thế pháp Độc Cư cũng chia ra làm ba giai đoạn tu tập: Đầu, giữa và cuối cùng.
1- Giai đoạn đầu: Độc cư giới tức là giữ gìn độc cư theo giới luật (phòng hộ sáu căn theo giới luật)
2- Giai đoạn giửa: Độc cư Định tức là giữ gìn hạnh độc cư theo thiền định (phòng hộ sáu căn theo thiền định)
3- Giai đọan cuối cùng: Độc cư Tuệ tức là giữ gìn hạnh độc cư theo Tuệ Tam Minh (phòng hộ sáu căn theo tuệ Tam Minh).
Thầy mong sao tất cả tu sinh đều hiểu rõ đức hiếu sinh và hạnh độc cư để thực hiện vào đời sống cho đúng cách thì đem lại sự hạnh phúc an vui cho mình cho người thì chính đó là đời sống Thiên Đàng, Cực Lạc cho bước đường học tập tu theo Phật giáo ở giai đoạn đầu.
(Ngày 7 tháng 6 năm 2007)
SÁU CÁI BIẾT CÓ PHẢI LÀ TÁNH BIẾT KHÔNG?
Hỏi: :Có nhiều điều con muốn hỏi Thầy, nhưng con ngại mất thời gian của Thầy và con thấy sức tu của con còn kém, cho nên con sẽ cố gắng suy tư nhiều hơn trước khi hỏi. Nhưng con cũng xin phép Thầy cho con ghi những câu hỏi ra đây để khi nào có dịp con sẽ gởi những câu hỏi này cho Thầy. Còn chuyện trả lời thì tùy Thầy, vì Thầy biết lúc nào trả lời, lúc nào không.
Có lẻ cái tính ham muốn hiểu biết của con mạnh quá, cho nên hay thắc mắc.
Xin Thầy hoan hỷ tha tội cho con.
Hoûi:1- Đức Phật có dạy : “Cái thấy, cái biết, cái nghe không phải của ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta”
Vậy cái thấy ở đây có phải là cái biết của tính thấy hay không?
Cái nghe ở đây có phải là cái biết của tính nghe hay không?
Cái biết ở đây có phải là cái biết của ý thức hay không?
Nếu phải thì có thể gọp chung là cái biết không phải của ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta? Cái biết ở đây là cái biết của 6 thức. Vaäytại sao không thấy đức Phật nói về cái biết của mùi, vị và xúc? Xin Thầy giải thích rõ hơn cho con về điều này.
Đáp Ởđây các Tổ không nói cái Mùi, cái Vị và cái Xúc, là vì các Tổ sống trong tưởng nên xây dựng cái Thấy, cái Biết và cái Nghe là Phật Tánh. Còn đức Phật nói cái Thấy, cái Nghe, cái Biết, cái Mùi, cái Vị và cái Xúc là trong nhóm sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Trong kinh nguyên thủy đức Phật nói rất đầy đủ và dễ hiểu.
Cái thấy ở đây là cái thấy của mắt gọi là cái thấy của nhãn căn, chứ không phải cái biết của tính thấy nào ở đây cả.
1- Cái thấy biết ở đây là cái thấy biết của mắt gọi là nhãn thức.
2- Cái nghe ở đây là cái nghe của tai gọi là cái nghe của nhĩ căn, chứ không phải cái biết của tính nghe nào ở đây cả.
3- Cái nghe biết ở đây là cái nghe biết của tai gọi là nhãn thức
4- Cáibiết ở đây là cái biết của ý thức, chứ không phải cáibiết ở đây là cái Biết của tính Biết nào cả.
Phật thường dạy: Sáu căn, sáu trần và sáu thức, nhưng các con không lưu ý nên không nhớ, Sáu căn, sáu thức, sáu trần gồm có:
1- Nhãn căn là con mắt. Nhãn thức là cái biết của con mắt. Nhãn trần là hình sắc của vạn vật bên ngoài
2- Nhĩ căn là lổ tai. Nhĩ thức là cái biết của lổ tai. Nhĩ trần là âm thinh của vạn vật.
3- Tỷ căn là lổ mũi.. Tỳ thức là cái biết của lỗ mũi. Tỷ trần là hương vị của vạn vật.
4- Thiệt căn là lưỡi.. Thiệt thức là cái biết của lưỡi. Thiệt trần là mùi vị của vạn vật.
5- Thân căn là cơ thể. Thân thức là cái cảm giác của cơ thể. Thân trần là tính mền cứng nóng lạnh của vạn vật.
6- Ý căn là bộ óc (ý thức). Ý thức là sự phân biệt của bộ óc. Ý trần là từng tâm niệm quá khứ, vị lai và hiện tại..
Sáu căn, sáu trần, sáu thức mới đầy đủ 18 giới của Phật giáo để tạo thành những nhn duyên Xúc, Hữu, Thủ, Sinh, Ưu bi sầu khổ già chết. Muốn biết rõ các duyên này, nên đọc kinh Thập Nhị Nhân Duyên. Cc Tổít nói đến Mùi, Vị và Xúc, thì đó là một sự thiếu sót, chứ trong kinh Phật dạy rất đầy đủ. Nhưng khi chúng ta học thì hay nhắc đến Sắc, Thinh, Hương (mùi) là xong, còn ít ai nói đến Vị (cay, đắng, ngọt, bùi), Xúc (cảm giác êm, ấm, cứng mềm), Pháp (những niệm trong tâm, vọng niệm). Nhất là kinh sách Đại Thừa thường nói đến Tánh Biết, Tánh thấy, Tánh Nghe chứ không nói Tánh Mùi, Tánh Vị và Tánh Xúc.
Tóm lại, Tánh Thấy, Tánh Nghe và Tánh Biết trong kinh sách Đại Thừa đều cho đó là Phật Tánh. Những điều hiểu biết này là do các Tổ hiểu biết trong ảo tưởng. Khi đức Phật đã xác định thân tâm này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì Phật tánh không bao giờ có trong thân tâm này.
Hỏi: :2- Khi ăn cơm có phải bắt buộc phải ngồi dưới đất hay không? Vì con thấy mỗi lần ngồi dưới đất ăn cơm thì kiến nhiều quá, cho nên con chuyển sang ngồi trên ghế, con không biết có phạm giới hay không?
Đáp:Ngồi dưới đất ăn là khất sĩ vì đức Phật đã buông xả sạch, sống không nhà cửa, không gia đình, không có của cải tài sản tiền bạc, chỉ còn ba y một bát, đi xin về ăn hàng ngày. Vì thế khi xin có thức ăn, liền tìm nơi nào có bóng mát ngồi ăn cho tiện, còn ngồi ăn trên bàn ghế lại thêm có bàn ghế thì đâu gọi là đời sống ba y một bát. Khi có Phật tử cúng dường tại nhà mời Phật và chúng Thánh Tăng đến thọ trai thì Phật và chúng Thánh Tăng vẫn ngồi trên bàn ăn uống hẳn hoi., nhưng ăn rồi thì đi về, còn bàn ghế thì chủ nhà sẽ dọn dẹp. Cho nên ăn ngồi dưới đất tiện hơn ngồi trên bàn, vì ăn rồi chỉ có đi rửa bát là xong không có lau bàn, lau ghế cho nên rất tiện lợi, không thêm bận rộn, khiến cho đời sống luôn luôn vô sự. Mục đích sống giải thoát ra khỏi cuộc đời này là tâm phải Vô Sự .Ngồi dưới đất hay ngồi trên bàn ghế không có phạm giới, nhưng ngồi dưới đất ăn cũng là Phạm hạnh của người tu. Đó là một oai nghi diệt ngã xả tâm.Một tế hạnh buông xả.
Hỏi:3- Nhân quả của một người đặt tình thương không đúng chổ là gì?
Đáp:Đặt tình thương không đúng chỗ là đặt tình thương theo thất tình, lục dục. Đó là đặt tình thương theo ác pháp, tình thương đó là tình thương trong đau khổ, khổ mình., khổ người. Con có biết thất tình, lục dục là gì chưa?
Thất tình gồm có:
1- Hỷ; 2- Nộ; 3- Ái; 4- Ố; 5- Ai; 6- Lạc; 7- Dục.
Lục dục gồm có:
1- Nhãn dục; 2- Nhĩ dục; 3- Tỷ dục; 4- Thiệt dục; 5- Thân dục; 6- Ý dục.
Khi đặt lòng yêu thương phải quan sát kỹ lòng yêu thương ấy có rơi vào bảy tình, sáu dục này không? Nếu rơi vào thì lòng yêu thương này sẽ có sự khổ đau
Ví dụ: Lòng ghen tương cũng là lòng yêu thương do ái dục, nên làm mình khổ, người khác khổ. Lòng yêu thương ấy gọi lòng yêu thương khổ.
Hỏi::Ví dụ bố thí sai thì nhân quả là gì? Bố thí vì lòng yêu thương, nhưng sau đó biết rằng bố thí nhầm cho đối tượng thì nhân quả là gì? Ví dụ một lần con đang chạy xe ở thành phố Vũng tàu, con thấy một anh thanh niên nằm bên lề đường quằn quại ôm bụng trông rất tội nghiệp như người đau dạ dày. Con ngừng xe lại và quay lại ân cần hỏi thăm và tính chở anh ta đi bệnh viện, anh ta không đi mà vẫn nằm ôm bụng rên la. Đến giờ con phải đi làm cho nên con cho anh ta tiền gọi xe đến bệnh viện và tiền chữa bệnh, và nhờ ông chủ nước ngay đó nếu cần thì gọi xe dùm, rồi con đi làm. Sau vài tháng con thấy anh ta ở Sài gòn cũng với tình trạng như vậy. Lần này con đặt câu hỏi không biết thật hay giả đây? Nhưng con nghĩ thôi, thật hay giả thì coi như đã giúp 1 lần và tự an ủi rằng ít ra mình không thờ ơ trước những cảnh khổ của người khác và con tiếp tục đi không dừng lại nữa. Con đặt giả thuyết nếu như anh ta đóng kịch thì coi như việc con làm là đặt tình thương không đúng chổ, sai lệch. Vậy thì có đáng trách là con thiếu tỉnh giác hay không?
Đáp:Bố thí không đúng pháp là bị người lừa gạt, nên không làm lợi ích cho mình, vì mình bị gạt; không làm lợi ích cho người vì tạo duyên cho người khác làm điều ác nhiều hơn (lường gạt người khác)
Trong đức bố thí đều do lòng yêu thương nó là nhân quả thiện, nhưng nếu thiếu trí tuệ quan sát đối tượng được bố thí không thiện mà bố thí thì đó là nhân quả ác vì tạo duyên cho người làm ác nhiều hơn. Trường hợp của con bố thí bị lừa gạt như đem hạt giống tốt gieo trên đất xấu khô cằn cỗi.
Theo Phật giáo Nguyên Thủy bố thí phải có trí tuệ nhân quả. Khi thấy một người tàn tật hay gặp một người bị tai nạn hoặc một người ốm đau không tiền thang thuốc, đi bác sĩ hay đi bệnh viện. Đây là nhân quả của những người này, họ đang trả vay, nhưng có nhân duyên kiếp trước nên kiếp này mới gặp ta trong hoàn cảnh này. Vậy ta nên giúp đỡ họ như thế nào cho đúng pháp.?
Thấy người tàn tật biết rõ họ thật sự tàn tật thì gíup đỡ, còn gặp họ ở giữa đường thì ta nên tránh, vì người tàn tật đều có chỗ ở do các nhà từ thiện hoặc nhà nước, còn tàn tật ở ngoài đường là giả dốt, người tàn tật ở ngoài đuờng đi xin ăn làm nhục đất nước đó. Chúng ta không nên cho những người ăn xin ngoài đường, Người tàn tật bất hạnh trong xã hội đều có nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi những người khuyết tật, nhà tình thương nuôi dạy trẻ lang thang, v.v...Đó là trách nhiệm của Nhà nước, của những nhà từ thiện. Như vậy đâu có cớ nào lại có người ăn xin ngoài đường. Người bố thí cho kẻ ăn xin ngòai đường là không đúng pháp, đó là bố thí vô tình tạo thêm những người lừa gạt người khácvà cũng vô tình làm nhục đất nước (Đất nước ăn mày).
Còn bố thí cho người bệnh tật thì không nên trao tiền cho họ mà đưa họ vào bệnh viện, đi bác sĩ, nếu bác sĩ bảo đó là bệnh thật thì chúng ta mới bỏ tiền ra bố thí, còn nếu chúng ta bận việc không đưa đi bác sĩ hay bênh viện thì không nên bố thí. Bố thí là giúp người mà giúp người thì phải đem hết lòng ra giúp, chứ không thể bố thí theo kiểu lấy có. Bố thí như vậy là tạo duyên cho kẻ làm ác thêm (lừa đảo).
Hỏi:Thậtra mà nói con chưa hiểu rõ cách làm sao để tránh trường hợp đặt tình thương không đúng chổ. Ví dụ trong tu viện có 2 người con thấy rất thương họ đó là cô Nguyên Thanh và sư Chơn Niệm. Tại sao con thương họ vì con thấy mọi người ai cũng không thích 2 người này.
Đáp:Đặt tình thương đúng chỗ là đặt tình thương trong thiện pháp, nhưng tình thương của Phật giáo là tình thương đa hướng nên hướng thiện hay hướng ác đều đặt tình thương được cả. Thương yêu , thương xót, thương hại mọi nguời, chứ không phải thương nhân quả của mọi người. Cho nên nhân quả họ làm là họ phải gánh chịu, còn riêng chúng ta thương thì chúng ta chỉ mong họ thấy được nhân quả để đừng sử dụng nhân quả ác làm khổ mình khổ người. Nguyên Thanh và Chơn Niệm đều đáng thương vì chúng ta biết chắt là hai người chuyển mình theo không kịp lớp tu học, nên có những cảm nghĩ và hành động sai lệch khiến cho họ phải lìa xa các lớp học, vì vậy mà mọi người không thương.
Hỏi:Con chỉ có dịp học chung với sư Chơn Niệm khóa đạo đức này thôi, nhưng con không xem trọng những gì Sư làm sai, nói sai mà chỉ để ý đến những mặt tốt của Sư để học hỏi thôi và lấy Sư làm đối tượng trong lớp để xả tâm. Nhưng hình như con đặt tình thương không đúng chổ thì phải vì con thấy mọi người đều khuyên Sư sửa cái này sửa cái kia, còn con thì không nói trước lớp mà chỉ gặp riêng thôi để tránh làm mất sự đoàn kết trong lớp. Và con thấy rất tội nghiệp cho Sư khi bị Thầy đưa ra quyết định vừa rồi.
Xin Thầy chỉ dạy cho con biết làm sao để biết là mình đặt tình thương không đúng chổ và sai lệch. Thật tình mà nói ai con cũng thấy thương hết, và con không muốn để trong tâm hình ảnh xấu về ai cả.
Đáp:Hình ảnh xấu xa của họ là hình ảnh của nhân quả ác. Đã biết là nhân quả thì còn để ý hành động ác đó để làm gì. Cho nên thương người mà thấy cái xấu của người khác thì làm sao thương người được, cái khó nhất là thấy cái tốt của người khác, cái dễ nhất là thấy cái xấu của người khác.
Học đạo đức mới thấy rõ mình là người thiện hay là người ác, Nếu mình thấy lỗi người, nói lỗi người thì mình là người bất thiện, người ác; nếu thấy lỗi người mà không nói lỗi người, không bơi móc lỗi người khác là người thiện..Ngược lại toàn là người ác.
Hỏi:1- Giới đức và giới hạnh phân biệt như thế nào?
Đáp:Muốn phân biệt giới đức và giới hạnh thì nên phân biết đức và hạnh.. Đức là chỉ cho những tính chất thiện, còn hạnh chỉ cho những oai nghi tế hạnh thuộc về hành động thiện. Cùng một danh từ đạo đức, lúc thì chúng ta gọi là đức; có lúc chúng ta gọi là hạnh, do sự công dụng đạo đức đó lúc ở đức hay lúc ở hạnh mà gọi.; do sử dụng danh từ đạo đức đó lúc dùng làm chủ từ thì gọi là Đức; lúc dùng làm động từ thì gọi là Hạnh. Cho nên phân biệt giới đức và giới hạnh đòi hỏi chúng ta phải có trí kiến thấm nhuần đức hạnh thì biết lúc nào là đức và lúc nào là hạnh.. Cho nên chúng ta càng học đạo đức thì càng thấm nhuần .
Ví dụ 1: “Thương người như thể thương thân” Câu này dạy đức hiếu sinh khẩu hành..
Ví dụ 2: Chúng ta nên thương yêu mọi người vì mọi người quá đau khổ trong cơn bão số 9 vừa qua. Câu này dạy đức hiếu sinh khẩu hành..
Hai câu trên là lời kêu gọi nên nó mang tính chất đạo đức, nên gọi là đức .
Ví dụ : Chúng ta đem thực phẩm, quần áo cứu trợ cho đồng bào bị hỏa hoạn tại chợ Qui Nhơn. Câu này dạy Hạnh hiếu sinh thân hành..
Tại sao câu này gọi là hạnh hiếu sinh? Vì đó là hành động đi cứu trợ.
Hỏi:2- Nằm giường cao là sao? Trong phòng con có cái giường khi con ngồi lên thì hỏng chân, vậy thì có phải gọi là cao không Thầy?
Đáp:Để biết giường cao hay thấp trong giới luật có dạy kích cở rõ ràng: Gường cao là giường làm cao hơn tám ngón Như Lai. Mỗi ngón Như Lai bằng 1 tấc, Vậy tám ngón Như Lai là tám tấc, giường làm cao hơn tám tấc là giường cao, người tu sĩ không được nằm (Trong giới luật có người dịch là tám lóng tay Như Lai, mỗi lóng tay 2 phân. Như vậy giường chỉ cao có 1 tấc 6 phân.. Giường cao có 1 tấc 6 thì không thể gọi là giường mà gọi là phản) . Cho nên theo Thầy nghĩ tám ngón Như Lai là đúng, còn tám lóng Như Lai là sai.
Hỏi:3- Xin Thầy cho con biết khi 2 người cuối chào nhau, con thấy có người chào rất sâu (90 độ), có người ( 20-30 độ) cịn con cho nghing đầu 45 độ, vậy thì chỗ su l cho bao nhiu độ vậy hả Thầy?
Đáp:Chào nhau 45 độ là vừa
Hỏi:4- Xin Thầy chỉ dạy cho con hiểu rõ đoạn văn cuối trong bài “Có sống đạo mới vui đời” có nghĩa là gì vậy hả Thầy?
Đáp:Đạo Phật lấy giới luật đức hạnh làm cuộc sống của mình, cho nên người nào sống đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì cuộc đời họ mới có sự an vui chân thật vì thế câu kinh này dạu: “Có sống đạo mới vui đời” .
Hỏi:“Nhìn nhận sự tương quan sinh tồn, chí nhân khổ cái khổ của người, vui cái vui của muôn loài, nên lợi người trước mình. Cái vui này là cái vui vô lượng.”
Theo con hiểu khi thấy ai khổ mình cố gắng giúp người ta hết khổ trước và khi thấy ai vui thì lúc đó mình mới vui, nghĩa là chỉ nên nghĩ đến người trước. Tâm mình đã thanh thản rồi, bất động rồi thì đâu còn vui buồn gì nữa, nhưng mình lấy các đối tượng khổ vui của người khác để sống hòa đồng biết thương yêu người, giúp đỡ họ và an vui với họ. Có sống với người, tạo thêm niềm vui cho người cho mình thì cuộc sống thêm vui chứ sao phải không Thầy? Đâu phải nói là tu xong rồi không còn biết vui buồn gì nữa thì có lẽ trở thành cây đá rồi. Xin Thầy giải thích rõ cho con thêm.
Đáp:Đúng! Con nói rất đúng: Người tu sĩ Phật giáo thấy cái ác, cái khổ. của người liền tìm cách khuyên ngăn đừng làm ác và giúp cho người thóat khổ, để đem lại cho người nguồn vui hạnh phúc, chứ không làm cho người khổ hoặc bơi móc chuyện xấu của nguời hoặc nói xấu hoặc nói thêu dệt, thêm bớt hoặc nói li gián v.v ...Cho nên người tu sĩ Phật giáo lấy cái vui của người và lấy cái thiện để chuyển hóa cái khổ của người để làm nguồn vui chung cho mình, cho người. Người tu sĩ Phật giáo không có cái vui riêng cho mình. Vì vui buồn đối với người tu sĩ Phật giáo chỉ là pháp vô thường nên chẳng vui cũng chẳng buồn chỉ lúc nào thân tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi.
Hỏi:Vì Phật dạy không làm khổ mình, khổ người? Khi mình hy sinh cứu người và cứu vật, bị tật nguyền hay hy sinh mà không muốn làm khổ mình thì mình phải quán xét làm sao?
Đáp:Người tu sĩ Phật giáo đã biết thân, thọ, tâm và pháp là vô thường, không có cái nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì hy sinh giúp người thoát khổ, thoát chết, nhưng tâm vẫn bất động. Mà tâm bất động thì thân này có chết, có tật nguyền, có sao đi nữa thì họ có buồn khổ đâu. Cho nên họ dám xông pha vào lửa đỏ, vào sóng to lũ lụt để cứu người mà không hề sợ hiểm nguy đến tính mạng của mình như những câu chuyện: Vết thẹo của người mẹ, Con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn, và cái chết thản nhiên của cô gái Evin trông chiếc tàu từ từ chìm xuống đáy biển mang theo cô.. Khi quán xét các pháp vô thường thì vết thẹo trên gương mặt của người mẹ, cái chết của con chim ưng và cái chết của cô Evin thì đâu có nghĩa gì nữa. Còn những người không hiểu các pháp vô thường thì cho đó là làm khổ mình, nhưng khi họ hiểu các pháp vô thường, vô ngã thì tâm họ bất động. Tâm họ bất động thì cái thọ khổ không tác động vào tinh thần sắt đá của họ.
Tu hành muốn đạt được chỗ tâm bất động không phải đễ, nhất là khi chúng ta đứng trước các loại cảm thọ của thân mà tâm bất động, đó là một loại thiền định xả cảm họ thì tâm mới bất động dễ dàng. Chỗ này nói thì dễ nhưng tu tập cho đúng pháp mới đạt đứợc.
Tâm bất động có hai phần:
1- Tâm bất động thuộc về tâm do tri kiến giới luật đức hạnh.
2- Tâm bất động thuộc về thân do tri kiến tỉnh thức định Tứ Thiền..
Nhờ nhập vào Tứ Thiền, sức định lực của Tứ Thiền quét sạch các cảm thọ nên tâm không còn cảm nhận thọ khổ vì thế tâm mới bất động dễ dàng.
Còn có một tâm bất động, đó là ý chí ngút ngàn xem thường các cảm thọ, mặc dù tâm chưa có thiền định nhưng nhờ tín lực “chết bỏ” không sợ các cảm thọ nên thản nhiên trước sự đau đớn tận cùng của sức chịu đựng bãn thân.
Hỏi:Phải chăng mình nghĩ rằng mình rất tự hào về những điều mình đã làm, không hối tiếc, không coi trọng cái thân này. Dù cho cái thân có tàn tật thì cũng không sao. Nhưng nếu cái thân này bị tàn tật do cứu người mà làm khổ gia đình mình phải chăm sóc cho mình thì mình lại làm khổ người thân của mình, vậy thì làm sao đây? Xin Thầy chỉ dạy rõ cho con biết. Vì Đức Phật nói “Phải hùng lực cứu người, cứu vật” Vậy trước khi cứu người cứu vật có phải tư duy suy nghĩ hay không?
Cám ơn Thầy - Kim Quang
Đáp:Người tu sĩ Phật giáo bao giờ cũng trang bị tri kiến hiểu biết của mình đầy đủ để khi lâm trận chỉ còn chiến đấu và giành phần thắng về mình. Như các con đã biết: Lớp học giới luật đức hạnh là lớp trang bị kiến thức không những để học những bài học và còn áp dụng những bài học đạo đức đó vào đời sống hàng ngày để khi hữu sự tức là có sự việc xảy ra là tự ứng phó một cách tự nhiên tức là phản xạ tự nhiên, chứ không cần phải quán xét suy tư vì quán xét suy tư thì quá chậm.
Trang bị đức hiếu sinh cho con, khi con hy sinh cứu người thân con có tàn tật hay nằm bệnh viện những người thân có nuôi con, có giúp đỡ cho con bất cứ sự nặng nhọc nào họ cũng vui sướng có một người con hay một người thân có một tâm hồn yêu thương cao cả biết hy sinh cho mọi người, tuy cơ thể có các cảm thọ nhưng tinh thần con hạnh phúc vô cùng. Một cháu bé 13 tuổi cứu thóat 11 người chết đuối. Một chàng thanh niên xông vào lửa đỏ cứu sáu người thoátchết thiêu, chàng bị phỏng nặng nhưng tinh thần chàng rất hạnh phúc và mọi người ai cũng quý trọng. Trong thời gian chữa trị mọi chi phí thang thuốc điều trị, chàng được mọi người lo lắng đầy đủ.
Làm việc thiện thì trong hoàn cảnh nào cũng đầy đủ phước báo, cho nên nhân nào quả nấy, chúng ta cứ hành thiện, cứ thương yêu mọi người rồi mọi người sẽ thương yêu chúng ta.
LÀM GIÚP BẠN
ĐỒNG TU CÓ PHẠM GIỚI KHÔNG?
Hỏi:A/ Con không biết những hành động này có phải là tham hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho con.
Hỏi:Có vài tu sinh nhờ con in dùm một tờ giấy A4 to ghi dòng chữ “Độc cư 100%. Xin thương yêu và tha thứ.” Con không biết khi làm những việc riêng tư như vậy cho người khác mà không phải việc chung cho tu viện thì có phải phạm giới hay không? Vì khi con làm những việc riêng cho mình hay cho ai mà dùng giấy, máy của tu viện thì có phạm vào tội tham lam lấy của không cho hay không?
Đáp:Làm những gì giúp đỡ người và mình tu tập là làm việc tốt. Tu viện là của các con, các con giữ gìn là giữ gìn cho các con, sử dụng nó trong việc tu học rèn luyện nhân cách là đúng không có tham lam, còn sử dụng nó cho đời sống cá nhân riêng tư. không phải trong sự tu học là sai, là có tham lam
Ví dụ: Mở đèn sáng tụ ba tụ năm nói chuyện phím, dùng điện nấu nước pha sữa pha chè nấu mì ăn uống phi thời là sai v.v....
Tu viện được thành lập ra là làm lợi ích cho mọi người, là để cho mọi người có nơi học tập đạo đức và rèn luyện nhân cách, chứ không phải mở ra là để trở thành một ngôi trường tư thục, cho nên sử dụng những gì của tu viện đều phải cân nhắc kỹ lưỡng, vì đó là của chung của mọi người.
Hỏi: Giả sử con cần keo dán vài thứ trong thất, mà trong phòng máy tính có sẵn con có thể lấy về xài rồi đem trả lại hay không? Nếu không thì con cũng phải mượn Cô Út. Đằng này Cô Út đã cho sẵn trong phòng rồi thì mượn thêm chi làm phiền Cô Út nữa.
Đáp:Vấn đề này cần phải lưu ý: Những vật dụng dùng làm việc chung cho tất cả tu sinh, khi muốn dùng vào việc riêng trong việc tu học thì cần phải hỏi người quản lý. Hỏi tức là xin, mà xin thì không phạm vào giới lấy của không cho. Còn sẵn trong phòng có lấy về dùng mà không thưa hỏi thì phạm vào giới đức ly tham. Tuy là một vật nhỏ mọn, nhưng nó sẽ làm mất nhân cách đạo đức con người trong tâm, cần phải trau dồi và rèn luyện nhân cách không để vi phạm những lỗi lầm nhỏ nhặt.
Hỏi:Có những giấy in ra hỏng con cắt ra làm đôi làm giấy nháp viết. Nếu con lấy thì con có phạm giới hay không?
Đáp:Tuy rằng giấy bỏ, nhưng là của chung của tu viện, khi con cần dùng đều phải hỏi qua nguời quản lý thì con không phạm vào giới lấy của chưa cho.
Hỏi:Chú Minh Điền có nhờ con dịch quyển Ka tô lô sử dụng máy ghi âm, con đánh bản dịch vào máy rồi in ra giấy đàng hoàng cho chú. Như vậy có phạm tội tham lam dùng máy và giấy của tu viện cho những việc như vậy không Thầy?
Đáp:Con làm giúp cho chú Minh Điền như vậy là tốt, con không có phạm lỗi gì hết, nhưng chú Minh Điền phải báo cho người quảng lý trong tu viện biết chú có nhờ con dịch quyển Ka tô lô và in ra để sử dụng máy ghi âm, nếu không báo là chú Minh Điền có lỗi..
Về giới luật cần phải cẩn thận trước khi làm một việc gì đều phải cân nhắc kỹ lưỡng để tránh phạm giới, tuy phạm phải những lỗi nhỏ nhặt nhưng nó sẽ đánh mất nhân cách lương tâm làm người. Lâu dần nó trở thành một thói quen thiếu đạo đức rất khó bỏ và giá trị con người không còn ai quí trọng nữa. Cho nên đức Phật dạy: “Nên sợ hãi các lỗi nhỏ nhặt”, vì các lỗi nhỏ nhặt mà không ngăn chặn ngay từ lúc đầu thì nó sẽ trở thành những lỗi lớn sau này.
Hỏi:B/ Thưa Thầy con đang gặp phải chuyện khó xử khi quán vô lậu. Xin Thầy chỉ dạy cho con được thông hiểu hơn về quán vô lậu kèm theo lòng thương yêu.
1. Khi con thấy thầy Thiện Tâm tóc dài lâu lắm rồi, đã mấy tháng nay con học chung với Thiện Tâm mà không thấy Thiện Tâm hớt tóc lần nào. Con suy nghĩ Thiện Tâm là người giữ hạnh độc cư trọn vẹn cho nên không muốn ra ngoài cắt tóc. Con có một cái tông đơ có thể giúp cho Thiện Tâm không cần ra ngoài mà vẫn cắt được tóc trong tu viện. Vậy là sáng nay con viết giấy hỏi Thiện Tâm có cần mượn tông đơ để hớt tóc hay không? Thiện Tâm lại nhờ thầy Chơn Thành làm trung gian mượn. Thầy Chơn Thành gặp con và nói với con rằng con làm như vậy là con hại Thiện Tâm làm cho tâm hai người phóng dật. Con quán xét đúng như vậy. Nhưng con nghĩ rằng vì con sống với đức hiếu sinh cho nên con mới có những hành động như vậy. Thiện Tâm là một người thầy giảng viên đứng lớp mà tóc tai bù xù dài thì không giống thầy dạy đạo đức. Người dạy đạo đức phải làm gương hạnh cho mọi người. Chính vì vậy mà con mới viết giấy cho Thiện Tâm. Xin Thầy chỉ dạy cho con phải làm như thế nào là đúng? Vì con suy luận rằng mình là người đang học đạo đức để trở thành một người có đạo đức thì mọi thứ phải có đạo đức. Ở đây đức sạch sẽ gọn gàng cũng là một đức hạnh tốt. Nếu như xưa kia quán vô lậu thì con sẽ tác ý “Chuyện mình mình biết, chuyện người người lo” nhưng hiện nay con thấy con sống theo kiểu khác, ai cần giúp đỡ con lại giúp đỡ. Ôi! Nếu làm như vậy thì con phạm giới độc cư rồi. Vậy thì làm sao đây Thầy?
2.
Đáp:Như Thầy đã dạy giới hạnh độc cư có ba giai đoạn tu tập: Ở đây, con ở giai đoạn Giới Luật đức hạnh, còn thầy Chơn Thành ở giai đoạn Tứ Niệm Xứ.
Tu hành phải biết linh động, khéo thiện xào, nhưng phải sáng suốt biết chúng ta đang tu tập ở giai đoạn nào mà áp dụng đúng pháp môn ở giai đoạn đó, chứ đừng áp dụng sai cách thì rơi vào ức chế. Chỉ trừ những bậc siêu phàm, có những đặc cách phi thường, học giới luật đức hạnh mà lại thích sống độc cư ở giai đoạn Tứ Niệm Xứ, họ không để ý những gì xảy ra bên ngoài mà lúc nào họ cũng sống bên trong với nội tâm của họ.
Nếu Thiện Tâm có đặc cách phi phàm thì tóc râu đâu cần cạo gọt, đến lớp dạy xong về thất đóng cửa chỉ sống một mình một bóng (độc cư, độc bộ, độc hành) thì những quán xét của con để giúp cho Thiện Tâm là sai, vì Thiện Tâm là người siêu phàm. Nhìn lối sống mà biết người tu đến mức độ nào, người có đặc tính phi phàm hay phàm phu tục tử.
Ví dụ: Thấy người hay bơi móc nói xấu, nói móc lò, nói mĩa mai người khác, nói dối, nói li gián, nói thêu dệt, nói lật lọng, nó lời hung dữ là người phàm phu tục tử. Còn ngược lại người chỉ âm thầm chiến đấu với giặc nội tâm sống độc cư trọn vẹn là bậc phi phàm dù học ở lớp nào mà đời sống họ khác lạ với mọi người trong giới hạnh độc cư là bậc đặc cách thì chúng ta không nên động đến họ để họ thực hiện con đường tu tập rốt ráo chứng quả trong thời gian ngắn nhất.
Hỏi:Việc thứ hai là vừa rồi con có gởi cho Thầy…. Nếu như xưa thì con cũng thay kệ và nhắc tâm rằng: “Chuyện mình mình biết, chuyện người người lo” Nhưng bây giờ con phải suy nghĩ lại và luôn xét rằng những điều mình làm, mình nói có đạo đức hay không? Có làm khổ mình, khổ người hay là thương mình thương người. Vì cũng chính ví dụ này con cũng không muốn rằng khi mọi người đọc được sẽ có cái nhìn sai về Thầy….. Có lẽ những gì con nói đều là tưởng.
Đáp:Người học đạo đức hiếu sinh không nên bơi móc chuyện sai phạm giới của người khác, không nên nói xấu người khác, nhất là trong lớp học không nói lỗi đến một người nào chỉ phát biểu ý kiến về bài học đạo đức. Các con nên lưu ý trong lớp học có người nào nói xấu người khác là người thiếu đạo đức các con nên tránh xa đừng chơi thân với họ. Học đạo đức mà còn nói xấu người khác là người không đáng cho chúng ta làm bạn, nếu họ chưa học đạo đức thì chúng ta còn tha thứ, chứ còn đã học đạo đức mà tánh nào tật nấy không sửa đổi thì những người này làm bạn với họ là có hại cho mình, vì những người này sẽ làm khổ mình khổ người.
Đối với Thầy danh lợi đã lìa xa, cho nên ai khen chê cũng không sao cả, con đừng bận tâm. Danh lợi khen chê chỉ làm mờ mắt người thế gian, chứ còn Thầy đã buông xuống hết rồi, ai có tin theo Thầy tu hành thì Thầy có trách nhiệm phải dẫn dắt đi tới nơi tới chốn, còn không tin không theo Thầy tu tập thì Thầy hết duyên, nếu còn sống thì thật là vô sự, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và bất động, còn nếu chết thì vào Niết Bàn. Hiện giờ danh lợi đối với Thầy như nước chảy qua cầu.
Hỏi: Kính mong Thầy chỉ dạy cho con biết cách quán vô lậu kèm theo đức hiếu sinh phải như thế nào cho đúng hơn? Nó có gì khác với cách quán vô lậu lúc xưa hay không?
Đáp:Học giới luật đức hạnh là quán vô lậu, nó không có gì khác với quán vô lậu ngày xưa. Quán vô lậu ngày xưa là quán chung chung các pháp, còn bây giờ dạy quán riêng rẻ từng giới luật đức hạnh, từng pháp môn cụ thể rõ ràng hơn, vừa quán lại vừa áp dụng vào đời sống hằng ngày để thực hiện tâm vô lậu. Cho nên hiện giờ quán vô lậu là đi vào chi tiết và pháp hành nhiều hơn. Vì thế việc xả tâm ly dục ly ác pháp thực tế cụ thể rõ ràng nhiều hơn ngày xưa quán vô lậu. Quán vô lậu ngày xưa là có quán chung chung với các pháp nên sự lợi ích không bằng bây giờ.
Hỏi:Qua những câu trả lời của các bài học, con thấy là trong mỗi đoạn văn có khi chứa Giới Đức, có khi chứa Giới Hạnh.
Giới Đức là nói lên tính của đức đó, còn Giới Hạnh là nói lên sự hoạt động của đức đó qua thân, khẩu, ý.
Khi câu nói nào đó có tính giới đức thì Thầy dùng là: “Câu này nói lên Đức ... Hiếu Sinh ...” Ví dụ: Đức Tín Tâm Hiếu Sinh Khẩu Hành.
Khi câu nào nói nói lên lời nói có nội dung của Đức nào đó thì Thầy ghi là ví dụ:
“Câu này nói lên Đức Hiếu Sinh Khẩu Hành Bình Đẳng” hoặc
“Đức Hiếu Sinh Thân Hành Bình Đẳng” hoặc
“Đức Hiếu Sinh Thương Mình Ý hành”.
Câu “Đức Hiếu Sinh Thương Mình Ý hành” Có phải là ý nói về Đức hạnh không Thầy? Nếu phải thì có thể con trả lời là “Đức Hiếu Sinh Ý hành Thương Mình” được không Thầy?
Con chỉ mới phát hiện ra những điều này, chắc có lẽ vì con vào lớp học trễ hơn mọi người hai tháng cho nên không nắm được cơ bản. Nhưng con cũng kính trình lên Thầy để Thầy chỉ dạy con thêm và sửa những lỗi sai của con.
Còn điều gì mà con chưa hiểu được xin Thầy chỉ dạy thêm.
Đáp:Như trên Thầy đã giải thích thì những gì con hiểu và ghi vào đây là đúng không sai. Vậy hãy cố gắng rèn luyện nhân cách của mình cho thân tâm vô lậu hoàn toàn để sớm chứng đạt chân lí..
Hỏi:“Các thầy Bà La Môn nghe xong, đều giật hết lễ phục mang trong mình với hai bàn tay chùi chưa sạch máu, mấy trăm con cừu được thả ra, vui vẻ chạy rong trên đường phố như vừa thóat khỏi địa ngục mà sự u mê của người mới tạo ra. Ngài mang lại,”Đoạn này nói lên đạo đức gì?
Trả lời: Nghe lời dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ của đức Phật các vị Bà La Môn cởi bỏ lễ phục và thả cừu, đó là đạo đức minh mẫn hiếu sinhcủa các vị thầy cúng Bà La Môn, chấp nhận ngay liền lời dạy của đức Phật, thật là tuyệt vời.
Con có thể thêm chữ “ thân hành” vào như sau hay không?đạo đức minh mẫn hiếu sinh thân hành.
Đáp:Được, con thêm vào thân hành cho đầy đủ ý nghĩa hành động của thân, câu đạo đức này là đúng, là dễ hiểu, nhưng không thêm vào thì mọi người cũng hiểu thân hành là túc từ ẩn
Hỏi:“Và nên nhớ rằng những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”. Lời dạy này là đạo đức gì?
Trả lời: Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH
Con có thể thêm chữ “NHÂN QUẢ”vào như sau hay không?
ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ.
Đáp:Được, chữ nhân quả sẽ làm rõ nghĩa đạo đức hiếu sinh khẩu hành, nhưng không thêm vào nhân quả thì chúng ta cũng hiểu nghĩa nhân quả bằng tùc từ ẩn .
Hỏi:“Người đổ phân thưa rằng: - Con là người gánh phân ô uế không sạch không dám lại gần Ngài”: Câu trả lời này là đạo đức gì?
Câu trả lời là: Câu trả lời này daïyTHIẾU ĐẠO ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH KHẨU HÀNH.
Ở đây cũng là câu nói của ông Chiên Đà La. Nếu con đặt chữ BÌNH ĐẲNG sau chữ KHẨU HÀNH có được không Thầy: THIẾU ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG.
Đáp:Không, vì câu này muốn nói lên sự bình đẳng, chứ không phải lên đức hiếu sinh, cho nên Đức Bình Đẳng làm chủ từ, nó phải đứng trước để điều khiển Đức Hiếu Sinh và Khẩu Hành, còn con đặt Bình Đẳng đứng sau làm túc từ thì đó là danh từ phụ cho Đức Hiếu Sinh và Khẩu Hành thì nó không xác định mạnh mẽ cho sự bình đẳng.
Hỏi:Cũng là câu hỏi và câu trả lời này theo như Đáp Án của kỳ thi đợt trước và kiểm tra ngày hôm qua của chúng con. Thầy và thầy Chơn Thành trả lời là ĐỨC MẶC CẢM HIẾU SINH THÂN HÀNH ... không giống trong Giáo Án dạy, nhưng con suy nghĩ như sau:
a) Ý nghĩa của chữ MẶC CẢM và THIẾU BÌNH ĐẲNG cũng giống nhau. Có phải không Thầy? Vậy ai trả lời sao cũng đúng hết. Câu đáp án thi là: “ĐỨC MẶC CẢM HIẾU SINH THÂN HÀNH”
b) Con nghĩ đây là câu nói của ông Chiên Đà La cho nên câu trả lời phải là KHẨU HÀNH, nhưng con không hiểu tại sao là THÂN HÀNH?
c)
Đáp: Trong Giáo Án tập 2 dạy: Thiếu Đạo Đức Hiếu Sinh Khẩu Hành, chứ không có dạy Thân Hành như vậy con nên đọc kỹ lại tập 2 bìa màu nâu.
Mặc cảm và Thiếu Bình Đẳng nghĩa lý không giống nhau, đức hạnh cũng không giống nhau. Vì Mặc cảm thuộc về hạnh, còn Bình đẳng thuộc về đức. Mặc cảm thuộc về tinh thần tiêu cực, còn Bình đẳng thuộc về tinh thần tích cực. Cho nên người ta gọi Đức Bình Đẳng chứ không ai gọi Đức Mặc Cảm, nhưng khi gọi đức Mặc Cảm thì phải có thêm một danh từ đạo đức nào đó, còn riêng nó đứng một mình thì không được gọi là đức mà gọi là hạnh. Cho nên ai muốn trả lời sao cũng được là không đúng, chỉ có việc di chuyển danh từ ra trước, ra sau câu cũng phải đúng nghĩa văn phạm và còn phải đúng nghĩa đạo đức của nó trong chủ đề bài học, còn làm sai người hiểu biết sẽ đánh giá trị mình thiếu tri kiến hiểu biết về đức và hạnh. Vả lại trong bài những người sinh trong giai cấp Chiên Đà La tự họ đã chịu ảnh hưởng nhiều đời, nhiều kiếp thành một truyền thống giai cấp hạ liệt .Từ tổ tiên cho đến ông cha của họ khi thấy những người giai cấp khác đều tránh đường hoặc quỳ mọp và không dám nhìn ngó thẳng mặt..
Hỏi:Nhưng chữ MẶC CẢM có ý nghĩa tiêu cực, chứ không phải tích cực, cho nên câu trả lời chữ MẶC CẢM không thể đứng sau chữ ĐỨC. Nếu muốn đứng sau chữ ĐỨC thì cũng giống như chữ THAM phải có dùng chữ LY. Vậy câu trả lời là: THIẾU ĐỨC LY MẶC CẢM HIẾU SINH KHẨU HÀNH hoặc THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH LY MẶC CẢM. Con không biết có đúng không? hay là trả lời chữ “Mặc Cảm” là hoàn toàn sai.
Đáp:Ly mặc cảm tức là không thấy buồn, không thấy xấu hổ, không thấy hối hận. Không thấy buồn, không thấy xấu hổ, không thấy hối hận tức là hoan hỷ mà hoan hỷ thì gọi là đức hoan hỷ thì dùng chữ và văn phạm rất chính xác, còn con dùng đức ly mặc càm hiếu sinh khẩu hành thì làm người khác khó hiểu, còn dùng chữ Ly Mặc Cảm đứng cuối câu làm túc từ thì mất ý chính của nó mà ý chính của câu này là thiếu đức hiếu sinh, vì đức hiếu sinh làm chủ từ. Cho nên đặt sai vị trí chủ từ, túc từ là mất ý nghĩa đạo đức của câu. Cho nên khi đáp án phải suy nghĩ từng nghĩa lý của câu, từng chữ trong câu đáp án chữ nào đứng trước, chữ nào đứng sau, chứ không phải muốn trả lời sao cũng được. Vì vậy khi chấm bài thi của các con, hầu như các con không biết áp dụng câu đúng nghĩa chủ đề và đúng vị trí văn phạm, nên câu đáp án của các con bị sai. Nhất là là phân đoạn trong bài, không biết hợp câu cùng một ý đạo đức, không biết chia câu khác nghĩa đạo đức cho nên phân đoạn các con còn lúng túng. Còn đáp án không biết dùng từ đạo đức nào đứng trước, từ đạo đức nào đứng sau và không biết áp dụng văn phạm cho câu văn mình nổi bậc nét đạo đức của nó.
Hỏi:Năm ngoái, mẹ thầy còn, bây giờ người đã khuất. Thầy chỉ còn có một mình thầy. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu trả lời:Câu này dạy đạo đức hiếu sinh ý hành trong sự mất mát tình thương yêu quá lớn..
Câu này trả lời là khẩu hành được không Thầy? Vì con thấy nguyên đoạn văn này là Thầy giáo nói.
Đáp:Đúng, câu này là khẩu hành , ý hành là sai. Khi tu học phải vận dụng tri kiến của mình đừng vội tin ai hết mà hãy tin nơi mình, nên mới có suy tư tận cùng để hiểu đâu là đúng, đâu là sai mà trong giáo án có lúc dạy đạo đức; có lúc chỉ còn đức mà không có đạo; có lúc dạy nhân quả nhưng có lúc không dạy nhân quả; có lúc dạy thân hành nhưng kỳ thật là ý hành hoặc khẩu hành, đó cũng là để trắc nghiệm sự tu tập của tu sinh, nếu tu sinh nào có tu học nghiên cứu đọc kỹ thì mới nhận ra những cái sai cái đùng trong sách. mà Thầy đã khéo triển khai tri kiến các con. Vì nhận ra được đức hạnh thì mới gọi là quán vô lậu xả tâm, còn nhận ra không được đức hạnh tức là nhận sai thì quán sai nên tâm không vô lậu và như vậy thì không xả được tâm. Cho nên con giỏi lắm! Có cố gắng nghiên cứu tu tập, có thắc mắc thưa hỏi nên mới thấy được lối trắc nghiệm ngầm để biết chờ cơ hội hướng dẫn cho các con tu tập chính xác trên bài học. Khi đã nhận trên bài học đúng thì khi áp dụng vào từng tâm niệm thi mới quán vô lậu đúng và như vậy các con mới được gọi là hành giả tu Định Vô Lậu.
Hỏi: “Ngoài các con ra ở trên đời này, thầy không còn có ai nữa; ngoài sự thương yêu các con, thầy không còn thương yêu ai hơn nữa. Các con ví như con của thầy. Thầy sẽ yêu dấu các con. Đáp lại, các con phải yêu dấu thầy”.
Câu trả lời: Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH TUYỆT VỜI.
Câu này thêm chữ KHẨU HÀNH được không Thầy?
Ñaùp:Ñöôïc! Caâu naøy daïy Ñaïo Ñöùc Hieáu Sinh Khaåu Haønh Tuyeät Vôøi .
Hỏi:“Lúc bấy giờ vua trong nước nghe tin đức Phật độ cho một người Chiên Đà La, lấy làm bất mãn”. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu trả lời là:Câu này chỉ rõ nhà vua THIẾU ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH.
Nếu thêm vào chữ Ý HÀNH thì có được không Thầy?
THIẾU ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH Ý HÀNH.
Đáp:Được! Câu này dạy Thiếu Đức Bình Đẳng Hiếu Sinh Ý Hành.
Hỏi:“Nàng liền hỏi rằng:
- Rừng nào tôi cũng vào chơi được, tại sao khu rừng này lại vào chơi không được? Mà còn phải tránh xa?. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?.
Câu này con có thể trả lời là ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH TÒ MÒ (NGHI VẤN) hay không Thầy?
Ñaùp:Ñöôïc! Caâu naøy daïy Ñöùc Hieáu Sinh Khaåu Haønh Nghi Vaán hay Hay Ñöùc Hieáu Sinh Nghi Vaán Khaåu Haønh
Hỏi:“Vị hầu cận thưa:
- Rừng này chỉ có ông Sa Môn trọc đầu, tên gọi là Thích Ca Mâu Ni. Công chúa không nên xem làm gì”. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?.
Trong sách Thầy trả lời là:THIẾU ĐỨC ÁI NGỮ HIẾU SINH KHẨU HÀNH
Câu này con có thể trả lời là THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH ÁI NGỮ hay không Thầy?
Đáp:Được! Ái ngữ đặt sau câu làm túc từ nên câu văn nghe thuận tai nhưng không mạnh..
Hỏi:-Đại vương hãy nghe kỹ điều này: muốn được lúa phải cày bừa gieo mạ; muốn giàu sang phải bố thí; muốn sống lâu phải làm lành; muốn được trí tuệ phải học hành nghiên cứu. Nghĩa là muốn được quả gì phải trồng nhân ấy, không thể lẫn lộn. Lời dạy này của đức Phật thuộc về đạo đức gì?
Câu trả lời : ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH
Nếu con thêm 2 chữ NHÂN QUẢ thì có đúng không Thầy? ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN QUẢ.
Đáp: Được! Câu này thêm Nhân quả làm rõ nghĩa đạo đức, nhưng không thêm nhân quả người ta vẫn nhận ra, vì nhân quả là túc từ ẩn
Hỏi:Ngoài ra con thấy rằng có sự khác biệt giữa các câu trả lời trong sách Giáp Án cũ ( in lần đầu) và file “Giáo Án Rèn Nhân Cách Tập I”. Con xin liệt kê lại đây. Nếu Thầy thấy tiện thì xin Thầy báo cho Thầy Chơn Thành để Thầy Chơn Thành thông báo sửa lại cho các tu sinh trong lớp. Và nếu Thầy biết thêm câu nào nữa thì xin Thầy báo luôn cho Thầy Chơn Thành. Cám ơn Thầy.
1- Bài “Giữ Giới Được Sanh Thiên”
Hỏi: - “Thôi ta hãy tạm uống để khỏi chết có vậy mới gặp được Phật. Lời nói này thiếu đạo đức gì?”
- Caâu trả lời cũ:Lời nói này là lời nói THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH trong khi đức Phật dạy “không nên giết hại chúng sinh”.
- Câu trả lời mới là: Lời nói này là lời nói THIẾU ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH trong khi đức Phật dạy “không nên giết hại chúng sinh”.2- Bài “Cúng tế và chữa bệnh”Câu hỏi 7:Đạo hữu xem đau bệnh thì uống thuốc, đau bệnh thì nghe pháp để trừ tâm bệnh: muốn sống lâu thì phải cứu mạng cho tất cả sanh linh. Đau bệnh mà cầu đảo thì ngu dốt, giết người để cứu mình thì tự sát . Câu nói này dạy đạo đức gì?- Caâu trả lời cũ:Câu nói này Hòa Thượng Minh Châu dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THƯƠNG MÌNH thật tuyệt vời.
- Câu trả lời mới: Câu nói này Hòa Thượng Minh Châu dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH THƯƠNG MÌNH thật tuyệt vời.
Kính thưa Thầy! Xin Thầy cho con hỏi vài câu:
1/ “Bài bỏ Qua Oán Thù” có câu hỏi sau:
Hỏi:- Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi. Câu này dạy đạo đức gì?”
Câu trả lời là: Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH LY THAM.
Theo con thấy câu này là lời nói của người khách thì phải thêm hai chữ Khẩu Hành. Con không biết có phải không? Xin Thầy chỉ dạy thêm cho con.
Nếu con trả lời câu này là
ĐẠO ĐỨC LY THAM HIẾU SINH KHẨU HÀNH,
ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH LY THAM KHẨU HÀNH hoặc
ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH LY THAM
thì có khác nhau đối với đoạn văn trên không Thầy?
Đáp: Thay đổi vị trí những từ trong câu đều có nghĩa khác nhau.
Ví dụ: Đạo đức hiếu sinh ly tham có nghĩa là nhờ lòng thương yêu mà lìa lòng tham. Còn câu Đạo đức ly tham hiếu sinh có nghĩa là nhờ lìa lòng tham mới có sự yêu thương còn danh từ khẩu hành thêm vào để xác định hành động, nhưng đặt trước hay sau những từ đạo đức nó có nghĩa khác nhau.
Ví dụ: Đạo đức hiếu sinh ly tham khẩu hành có nghĩa là nhờ lòng yêu thương nên mới nói lời ly tham. Còn câu Đạo đức ly tham hiếu sinh khẩu hành có nghĩa là nhờ lìa lòng tham nên mới nói lời yêu thương.
Đọc lại bài: Vì thương mình đang đói nên tôi mới lấy tiền: vì thương mình không tham nên tôi mới trở lại nói lời xin lỗi (ly tham).
Vì vậy câu Đạo đức hiếu sinh ly tham khẩu hành là đúng nhất
Hỏi:Những bài đầu quyển Giáo Án thì Thầy thường trả lời là Đạo Đức, nhưng càng về những bài sau Thầy chỉ dùng chữ ĐỨC thôi. Vậy có khác nhau hay không Thầy? Có lẽ Thầy muốn nhấn mạnh Đức A phải không Thầy? Vì thời gian đầu chúng con còn chưa rõ như thế nào là ý hành, khẩu hành, thân hành. Còn bây giờ thì đi sâu hơn về ý nghĩa các ĐỨC hơn. Và có khi ý Thầy muốn nhắc chúng con nên quán vô lậu về các ĐỨC đó để các Đạo Đức đó thấm nhuần vào trong tâm chúng con để chúng con sẽ trở thành các nhà đạo đức thật sự. Phải không Thầy?
Đáp: Đạo là dạy các con lúc đầu để xác định nền đạo đức của Phật giáo là đức hạnh gắn liền với đời sống con người chứ không phải của riêng của tu sĩ Phật giáo. Khi các con đã thông suốt thì không dùng chữ đạo mà dùng chữ đức hoặc chữ hạnh ngắn gọn., câu có ý định nghĩa mạnh hơn.
Khi đáp án phải suy nghĩ cho kỹ bài học, nghĩa lý phải thông suốt, danh từ dùng phải chính xác, văn phạm phải am tường thì đáp án sẽ không sai. Vì thế trong sách giáo án dạy từ dễ đến khó, từ ít danh từ đến nhiều danh từ ghép lại, cho nên mới gọi là rèn luyện tri kiến nhân cách con người.
Hỏi:Xin Thầy cho con biết những câu trả lời cho câu hỏi sau có đúng không?
Câu hỏi: Trẫm nay xin nguyện luôn luôn cúng dường mọi món cần thiết, không dám để thiếu thốn. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu trả lời đúng trong sách là:ĐỨC CUNG KÍNHHIẾU SINH CÚNG DƯỜNG KHẨU HÀNH.
Nếu con trả lời:
1. ĐỨC CUNG KÍNHHIẾU SINH KHẨU HÀNH CÚNG DƯỜNG.
2. ĐỨC CUNG KÍNH CÚNG DƯỜNGHIẾU SINH KHẨU HÀNH.
3. ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH CUNG KÍNH CÚNG DƯỜNG.
Vì con nghĩ đây là câu nói của vua cho nên con có những thắc mắc. Xin Thầy giải thích cho con rõ.
Đáp: Đức Cung kính Hiếu sinh Cúng dường Khẩu hành, câu này có nghĩa là do lòng cung kính thương tưởng đức Phật thành tâm cúng dường mới nói ra lời .
Hỏi: 1- Đức Cung kính Hiếu sinh Khẩu hành Cúng dường câu này có nghĩa là do lòng cung kính thương tưởng đức Phật mới nói lời thành tâm cúng dường (tạm được)
2- Đức Cung kính Cúng dường Hiếu sinh Khẩu hành câu này có nghĩa là do lòng cung kính cúng dường thương tưởng đức Phật mới nói ra (tối nghĩa).
1- Đức Hiếu sinh Khẩu hành Cung kính Cúng dường câu này có nghĩa là do lòng thương tưởng đức Phật mới nói ra lời thành tâm cung kính cúng dường.
Mọi người đối với đức Phật chỉ có lòng tôn trọng và cung kính trước rồi mới thương tưởng cúng dường.
4/ “Cho rằng làm như vậy ô nhục hàng Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua chúa”. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu trả lời trong sách: Câu này nói lên sự cố chấp giai cấp của nhà vua khiến cho nhà vua đánh mất ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG.
Theo con hiểu thì đây là câu nói của nhà vua cho nên chữ BÌNH ĐẲNG để sau chữ Khẩu Hành.
Đáp: Câu này nên sửa lại cho đúng nghĩa Thiếu Đức Bình Đẳng Hiếu Sinh Khẩu Hành
Hỏi:Nhưng đối với một câu khác
“Người đổ phân thưa rằng :
- Con là người gánh phân ô uế không sạch không dám lại gần Ngài”: Câu trả lời này là đạo đức gì?
Câu trả lời là: Câu trả lời này THIẾU ĐẠO ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH KHẨU HÀNH.
Ở đây cũng là câu nói của ông Chiên Đà La vậy tại sao chữ BÌNH ĐẲNG lại đặt sau chữ Đạo Đức, mà không trả lời là: THIẾU ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG.
Cũng là câu hỏi và câu trả lời này theo như Đáp Án của kỳ thi đợt trước và kiểm tra ngày hôm qua của chúng con. Thầy và thầy Chơn Thành trả lời là đức MẶC CẢM ... không giống trong Giáo Án dạy, nhưng con suy nghĩ: ý nghĩa của chữ MẶC CẢM và THIẾU BÌNH ĐẲNG cũng giống nhau. Có phải không Thầy? Vậy ai trả lời sao cũng đúng hết.
Ñaùp: Caâu naøy ñaõ traû lôøi roài.
Hỏi:“Còn bùn lầy dơ bẩn kia thì nên quán xem như là bào thai của bà mẹ, chính tự trong bào thai mà sinh nở đóa hoa công đức”. Lời dạy này là đạo đức gì?
Câu trả lời trong sách là : Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH CHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ.
Câu này trong sách là câu của vua nói. Vậy thì con nghĩ phải thêm chữ “Khẩu Hành”
Và câu trả lời là: ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNHCHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ phải không Thầy?
Đáp: Đúng.
Hỏi:Nếu như câu hỏi là “Câu này dạy đạo đức gì?” Thì trả lời như sau có đúng không Thầy?
ĐẠO ĐỨC CHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ HIẾU SINH KHẨU HÀNH
Đáp: Đúng.
Hỏi:“Chỉ khi nào tôi thay đổi được bản thân mình”. Câu này dạy về đạo đức nhân quả gì?
Câu trả lời trong sách là: Câu này dạy về ĐỨC HIẾU SINH THƯƠNG MÌNH Ý HÀNH.
Nếu con trả lời là: Câu này dạy về ĐỨC THƯƠNG MÌNH HIẾU SINH Ý HÀNH. Thì có đúng không Thầy?
Vậy khi nào thì đặt câu trả lời trước và sau chữ HIẾU SINH ?
Đáp: Khi nào trả lời nhấn mạnh đạo đức đó thì đứng trước Hiếu Sinh, còn nhấn mạnh Đức Hiếu Sinh thì đức hiếu sinh đứng trước
Hỏi:“Nàng liền hỏi rằng:
- Rừng nào tôi cũng vào chơi được, tại sao khu rừng này lại vào chơi không được? Mà còn phải tránh xa?. Câu này dạy đạo đức nhân quả gì?.
Câu trả lời trong sách là: Lời ngăn cản này nói lên tính ganh tỵ, THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Các Bà La Môn hèn nhát, tỏ lộ tính khiếp đãm và sợ hãi đức Phật quá rõ rệt.
Hình như câu trả lời này không ăn khớp với câu hỏi phải không Thầy?
Đáp: Đúng vậy, câu này Thầy đã trả lời rồihãy xem lại bài trước
TÌNH THƯƠNG
MỘT HƯỚNG HAY ĐA HƯỚNG
Hỏi:Theo như trong Giáo Án, tình thương đa hướng là tình thương có sự cân bằng 2 vế: Thương mình và Thương người. Có phải chăng đối với một người chưa tu xong, khi họ thể hiện tình thương đối với bất kỳ ai đều là tình thương một hướng?
Đáp: Không phài vậy đâu con ạ! Mặc dù con tu hành chưa chứng đạo, nhưng con giúp ai vui và chính lòng con cũng vui thì đó là tình thương đa hướng, chỉ một hướng là con vui mà người khác khổ. Hoặc người khác vui mà con khổ . Cho nên trong đời người sinh ra là có sẵn tình thương nhất hướng và đa hướng chứ không phải tu xong mới có đa hướng, nếu đợi tu xong mới có tình thương đa hướng thì tình thương đa hướng không phải là của con người. Những gì đức Phật dạy chúng ta trong đời sống con người đều đã có sẵn chứ không phải đợi tu xong rồi mới có, Chân lí của con người là những gì của con người đã có sẵn, còn những gì chưa có mà mới tạo ra chân lí đâu được gọi là chân lí của loài người..
Hỏi:Khi thể hiện lòng thương đối với mọi người lòng con luôn vui vẻ, làm giúp ai được việc gì thì lòng con vui vui. Cảm giác mình có ích cho mọi người. Mặc dù là những việc nhỏ. Nhưng dưới mắt của người tu sĩ giữ giới luật nghiêm chỉnh thì những việc đó là phá giới là phạm giới luật, phá giới độc cư.
Đáp: Khi con thể hiện đức hiếu sinh đúng trong Giáo Án Rèn Nhân Cách lớp Ngũ Giới không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh họ lại càng mến phục và kính trọng con nhiều hơn. Tai sao vậy?
Vì người sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai là người sống phòng hộ sáu căn (độc cư) tuy họ tiếp xúc với mọi người mà hạnh độc cư không lìa. Bởi vì năm giới đức họ phải giữ gìn nghiêm chỉnh theo đúng pháp, nghĩa là lúc nào lòng yêu thưong của họ cũng ngự trị trong tâm như hình với bóng không lìa xa nửa bước, nhờ đó họ mới giữ được giới thứ nhất và kế tiếp lúc nào tâm họ cũng ly tham đối với sáu trần, đối với từng tâm niệm không tham muốn một vật gì. cả; lúc nào họ đối với nhưng người trong gia đình đều thương yêu và quý trọng, họ luôn luôn dùng lời ái ngữ, không bao giờ dùng lời hung ác nạt nộ la mắng; lúc nào cũng ôn tồn, nhã nhặn, không bao giờ nói dối, nói không thật, luôn luôn giữ gìn uy tín đối với mọi người; lúc nào cũng sáng suốt minh mẫn không bị cám dỗ bởi rượu chè cà phê thuốc là, cờgian, bạc lận, cá cược v.v...Người giữ gìn năm giới là người phòng hộ sáu căn (độc cư) bằng năm đức hạnh. Vậy người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nào dám cho rằng phá hạnh độc cư, chỉ người không hiểu giới hạnh độc cư mới cố chấp cho người nói chuyện là phá hạnh độc cư. Chúng ta phải hiểu người nói chuyện phạm giới độc cư và người nói chuyện mà không phạm giới độc cư; Chuyên nào nói ra không phạm giới độc cư; chuyện nào nói ra bị phạm giới độc cư; thời gian nói chuyên bị phạm giới độc cư và thời gian nào nói chuyện không bị phạm giới độc cư. Học giới luật là phải th6ng suốt những điều này
Giới luật của Phật chúng ta cần phải học nhiều hơn nữa, chứ cố chấp trong giới luật thì cũng bị sai pháp, sai hạnh tự làm khổ mình khổ người mà mình không biết. Đó là trình độ hiểu biết giới luật còn kém lắm.
Hỏi:Vậy khi chúng ta giúp đỡ ai mà bị ám ảnh rằng mình đang phá giới luật thì khác gì mình đang làm khổ mình. Nếu mình chỉ biết giúp đỡ mọi người, mình biết mình làm việc này là đem lại hạnh phúc cho mọi người và đem sự an vui đến cho mình và không có bị giới luật ràng buộc thì mình không có tâm lo lắng rằng mình không làm sai cái gì cả. Vậy tình thương này có phải là tình thương đa hướng hay không?
Đáp: Giới luật là thiện pháp, giúp người sống trong thiện pháp thì làm sao phạm giới, chí có giúp người trong ác pháp thì mời phạm giới, còn giới hạnh độc cư là pháp phòng hộ sáu căn nó có ba giai đoạn tu tập, chứ nó đâu phải là pháp câm, không nói như đã dạy ở trên.
Hỏi:Vậy thì giới luật độc cư phải hiểu rõ như thế nào để không bị hiểu sai mà không dẫn đến làm khổ mình? Nếu hiểu sai về giới luật thì hóa ra tu để giải thoát mà không giải thoát, tu bị ức chế có phải không thưa Thầy?
Đáp: Thầy đã dạy ở trên
Hỏi:Mặc dù con chưa tu xong, nhưng đâu phải chưa tu xong thì mọi hành động thương yêu của mình được gọi là không phải đức hiếu sinh, phải không Thầy?
Đáp: Thầy đã dạy ở trên
Hỏi: Tất cả mọi người xung quanh đều cần có tình thương của người khác. Nhất là trong gia đình cha mẹ anh chị em, bà con, làng xóm, mọi người đều cần có tình thương yêu của chúng ta. Khi chúng ta thể hiện tình thương đối với những người thân mà không bị dính mắc vào tình cảm nhớ, thương, sầu, bi, ưu, khổ thì đâu có bị ái kiết sử trói buộc phải không Thầy? hay là khi đã có tình cảm giữa mình với người thân thì bị gọi là ái kiết sử ràng buộc? Vì có thể khi mình thể hiện lòng thương yêu của mình đối với mọi người thì chính mình làm cho sợi dây ái kiết sử của họ trói buộc thêm, như vậy là mình cũng có lỗi hay sao?
Đáp: Tình thương nhất hướng hay đa hướng đều là đức hiếu sinh, vì thương đa hướng nên không làm khổ mình, khổ người, còn tình thương nhất hướng không là khổ người nhưng làm khổ mình.
Ái kiết sử là tình thương làm khổ mình, khổ người. Thương cha mẹ, anh, em chị em, vợ chồng con cái mà không làm khổ cho nhau là đức hiếu sinh, còn thương mà làm khổ nhau là ái kiết sử.
Con người ai cũng có sẵn đức hiếu sinh, nhưng chúng ta không biết, không phân biệt nó với ái kiết sử. Vì vậy chúng ta mới học đức hiếu sinh lớp Ngũ Giới để loại trừ ái kiết sử và luôn luôn sống với đức hiếu sinh..
Hỏi:Khi người thân bị bệnh hay sắp chết thì người có đạo đức hiếu sinh phải làm gì hả Thầy?
Đáp: Khi có người thân bệnh sắp chết thì phải về lo chăm sóc giúp đỡ thuốc thang và an ủi, đem giáo pháp của Phật hướng dẫn giúp cho tinh thần người sắp chết không sợ hãi v.v...
Hỏi: Khi bị ái kiết sử trói buộc là có nhớ thương, sầu, bi, khổ, ưu, có trăn trở, có sự níu kéo, day dứt. Khi ở xa thì không bị tình cảm gia đình lôi kéo thì không bị ái kiết sử trói buộc. Nhưng khi chúng ta nghe tin người nhà, người thân bị bệnh hoặc sắp chết, rồi ta trở về thăm thì có bị gọi là ái kiết sử ràng buộc hay không?
Đáp: Không bị ái kiết sử, mà đức hiếu sinh. Khi nghe người thân bệnh sắp chết mà khóc than, ưu bi sầu khổ, buồn đau là ái kiết sử . Còn về thăm và chăm sóc giúp đỡ thuốc thang cho ăn uống bồng ẳm, an ủi, trấn an tinh thần là đức hiếu sinh..
Hỏi:Vì tình thương yêu mà ta về thăm an ủi, trấn an, động viên; vì tình thương yêu mà ta tùy thuận về để người đó an vui khi thấy mặt ta. Nhưng ta vẫn quán xét và biết mọi chuyện rằng: bệnh, chết là vô thường, là nhân quả. Do vậy mà tâm luôn bất động không lo lắng không đau buồn, không khóc lóc. Như vậy thì có phải gọi là không bị ái kiết sử trói buộc hay không Thầy?
Đáp: Không.
Hỏi:Ai cũng có gia đình, cha mẹ luôn mong ngóng người con ở xa về thăm gia đình. Nếu mình là người có đạo đức hiếu sinh thì mình phải làm sao thưa Thầy?
Đáp: Đi tu chứ đâu phải chết, đức Phật ngày xưa khi tu xong Ngài trở về độ cha mẹ dòng họ anh em và chị em, còn chúng ta tuy tu chưa chứng thỉnh thỏang chúng ta về thăm cha mẹ anh chị em nếu chúng ta có tu học những điều hay biết của Phật thì chúng ta nên tryuền đạt lại cho những người thân thì đó là đức hiếu sinh. Chỉ trừ khi chúng ta quyết tử trên Tứ Niệm Xứ 7 ngày 7 tháng 7 năm để chừng đạo thì sống độc cư độc bộ độc hành ở giai đoạn 3 thì mới không về thăm.
Hỏi:Nếu mình là người có đạo đức hiếu sinh sống biết yêu thương người thì lâu lâu mình về thăm người thân. Vậy có phải là bị ái kiết sử trói buộc hay không? hay là tâm phải như thế nào mới gọi là không bị trói buộc vào ái kiết sử, như thế nào gọi là bị trói buộc vào ái kiết sử?
Đáp: Không! Ái kiết sử là lòng thương mà ưu bi sầu khổ khóc than lo lắng sợ hãi v.v..
Hỏi:Sự thăm viếng nhau là sự thể hiện tình thương của mình đối với cha mẹ anh chị em trong nhà, để cho gia đình bớt lo lắng, khi thấy mặt người con của mình ở xa về thăm thì đỡ nhớ hơn. Vậy mình vì người mà về thăm thì như vậy có gọi là bị ái kiết sử ràng buộc hay không?
Đáp: Không.
Hỏi:Nếu đi tu để mà cắt đứt mọi tình cảm gia đình, người thân thì có đúng với người có đạo đức hiếu sinh hay không?
Đáp: Không.
Hỏi:Dù cho mình nói mình đã cắt đứt tình cảm gia đình để đi tu, nhưng làm sao mà có thể quên được những kỷ niệm khi còn sống chung với gia đình? Theo con nghĩ tình cảm gia đình mình luôn vẫn phải giữ, nhưng tình thương yêu của người tu sĩ đã nhân rộng, phóng rộng ra rồi cho nên không còn ích kỷ chỉ nghĩ đến người thân nữa mà đối với người tu mọi người như nhau, khi nghe ai khổ vẫn đến thăm viếng như nhau, không còn phân biệt người thân hay người ngoài. Chính vì vậy mà người thân của mình vẫn nằm trong số người mình yêu thương nhưng không phải vì những người thân mà tình cảm của mình bị quỵ lụy, day dứt, trói buộc. Có phải như vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đúng như vậy.
Hỏi:Nói chung con nói hơi nhiều, điều con quan tâm là khi con học đức hiếu sinh rồi thì con rất cần xác định cho đúng tình cảm của mình đối với gia đình làm sao cho sống đúng là người có đạo đức hiếu sinh: không làm khổ mình và không làm khổ người. Kính xin Thầy chỉ dạy
- Cám ơn Thầy - Con- Kim Quang
Đáp: Những điều chưa hiểu cần phải hiểu, người tu hành theo Phật giáo không phải tu hành để trở thành cây đá như Thiền Tông.
THIỆN TÂM THƯA HỎI
Kính thưa Thầy! Con, Thiện Tâm xin thưa hỏi:
Đầu thư con kính chúc Thầy luôn khoẻ mạnh và bình an!
Thưa Thầy đã lâu rồi chúng con không được gặp thầy nên cũng rất là mong nhớ. Nhất là các vị Phật tử chưa từng gặp Thầy thì lại càng tha thiết hơn. Tuy nhiên con cũng biết rằng Thầy đang rất bận rộn và vất vả lắm để lo cho sự tu tập của chúng con và với tất cả mọi người nữa. Do vậy con chỉ mong rằng khi nào có dịp thuận tiện Thầy sẽ về thăm chúng con. Không còn gì vui bằng Thầy ạ!
Hôm nay con xin được kính trình lên Thầy những băn khoăn và thắc mắc mà chúng con gặp phải trong quá trình tu học, kính mong Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con được sáng tỏ hơn. Chúng con tu tập được tốt hơn. Con xin được trình bày những vấn đề như sau :
Hỏi:Trong bài học thứ 16 những tựa đề: “Cúng tế và chữa bệnh” có câu hỏi 8 như sau: “Đại ý bài này dạy đạo đức gì ? Thuộc về đạo đức nhân quả cận tử nghiệp báo hay đạo đức nhân quả hiện tại nghiệp báo?” Trong phần trả lời của giáo án Thầy có dạy bài này “ vạch rõ nhân quả hiện tại nghiệp báo và nhân quả cận tử nghiệp báo cho chúng ta hiểu biết tường tận.”
Chúng con nghĩ nhân quả hiện tại nghiệp báo thì dễ thấy và dễ hiểu rồi. Đó là những lời dạy của đức Phật với nhà vua như: “… muốn được lúa phải cày bừa gieo mạ; muốn giàu sang phải bố thí; muốn sống lâu phải làm lành; muốn được trí tuệ phải học hành nghiên cứu … giết sinh mạng cứu sinh mạng làm cho người tiến mau đến cõi chết, tức là tự giết mình …” Cũng như lời dạy của Hoà Thượng Minh Châu như. “đau bệnh thì uống thuốc, đau bệnh thì nghe pháp để trừ tâm bệnh; muốn sống lâu thì phải cứu mạng cho tất cả sinh linh. Đau bệnh mà cầu đảo thì ngu dốt, giết người để cứu mình thì tự sát. Cho nên người giết loài vật để ăn thịt mà mong cầu bổ khoẻ bình an thì không bao giờ có ”.
Thưa Thầy ! Có phải những lời dạy trên đây là để chỉ cho nhân quả hiện tại nghiệp báo không ạ ?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi:Còn chỉ về nhân quả cận tử nghiệp báo có phải là đoạn: “Mẫu hoàng nghe được lời Phật dạy trong lòng nhẹ nhàng, tiêu trừ được bệnh hoạn”. Phải vậy không, thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi:Ngoài ra có còn ý nghĩa nào chỉ cho nhân quả cận tử nghiệp báo ở trong bài học này nữa không thưa Thầy? Chúng con kính xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Hôm trả lời câu hỏi 8 này chúng con có phân vân chỗ “nhân quả cận tử nghiệp báo” này không được tự tin cho lắm. Vì vậy hôm nay con xin được trình bày lên đây, kính mong Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được sáng tỏ, thông suốt hơn .
Ở đây cũng do con chủ quan nên không nêu thắc mắc trước để đến khi thảo luận sẽ có sự trả lời chính xác luôn thể. Như vậy bài học sẽ nắm vững hơn. Con xin rút kinh nghiệm ở điểm này.
Đáp: Nghiệp báo cận tử nghiệp lúc người sắp lâm chung hiện ra rất rõ bằng trong giấc mộng, bằng những hình ảnh do tưởng uẩn hiện ra.
Ví dụ 1: Một người đồ tể thường giết trâu bò chó gà heo dê khi sắp chết thấy chúng đến cắn xé đòi mạng
Vì du 2: Một người làm từ thiện hay giúp đỡ người khi sắp chết, đều thấy mình làm từ thiện và mọi người vui vẻ tỏ lòng biết ơn
Cận tử nghiệp là nghiệp cuối cùng của thân mạng này, nên sống như thế nào thì sắp chết thấy như thế nấy, Sống thiện thấy thiện, sống ác thấy ác..
Hỏi:Trong giới luật “Độc Cư” con cũng còn có vài điều chưa được thông tỏ lắm trong vấn đề “ Khai, giá, trì, phạm ” Thầy ạ! Do đó lắm khi rơi vào thế bị động và trở nên lúng túng. Thầy Chơn Thành có lẽ sẽ trình bày lên Thầy chi tiết
Đáp: Giới độc cư là pháp phòng hộ sáu căn nên không cò “khai, giá, trì, phạm” mà có ba giai đoạn tu tập.
Hỏi:Con nhận thức rằng “Độc Cư” có nghĩa là để phòng hộ sáu căn, không không bị sáu trần chi phối, để giúp cho hành giả thực hiện việc sống với chính mình được dễ dàng hơn. Giúp cho hành giả không bị chạy theo tình cảm của người này, người nọ, để tâm hồn được vô tư với mọi người.
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi:Độc cư giúp cho hành giả chuyên chú tâm vào vấn đề tu tập, tư duy bài học, quan sát thân tâm mình được nhất tâm mà không bị sự chi phối của những câu chuyện của những người này, người nọ mang lại hoặc những lời bình phẩm này kia ... làm cho mình bị phân tâm và sanh ra đủ các ác pháp như tâm nghi ngờ, ngã mạn, sân hận …
Vì vậy về hình tướng thì “Độc Cư” theo con hiểu như thế này:
- Chỉ ở Tiểu giới đàn, hoặc khu vực mình ở mà không sang thất của người khác để nói chuyện phím, để tâm sự, trao đổi …
- Khi có duyên sự đi ra ngoài (trong Tu Viện) phạm vi của mình thì cũng không giao tiếp và nói chuyện với bất cứ ai.
- Có thể giao tiếp với cô Út khi có nhu cầu cần thiết cho cuộc sống như: Xin cuốn vở, cây viết, quyển sách …
- Có thể giao tiếp với Thầy đứng lớp khi có những thắc mắc, và gặp trực tiếp ở lớp .
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi:Ngoài ra có những trường hợp như sau đây chúng con có bị phạm độc cư không ?
a) Thầy đứng lớp đến thất để thăm hỏi và trao đổi với tu sinh về sự tu tập.
b) Khi một tu sinh bị ốm con có thể đến để thăm hỏi, động viên chia xẻ với tu sinh ấy.
c) Khi nghe thất của tu sinh gần bên, chuông đồng hồ đổ đã lâu mà tu sinh ấy không tắt. Có lẽ tu sinh ấy bị ngủ say. Trong trường hợp này con có thể khai giới để giúp cho vị tu sinh kia thức dậy bằng cách qua đập vào vách liếp được không ?
d) Khi đi trong tu viện có ai đó hỏi thăm “mấy giờ rồi” con có thể khai giới để trả lời cho người kia được không ?
e) Khi con đến gặp cô Út để xin một đoạn ống nhựa để gắn vào nhà cầu. Cô Út chỉ sang tu sinh Pháp Quang và bảo con sang bên ấy tu sinh sẽ lấy giúp cho con. Vì tu sinh Pháp Quang biết rành những món này. Trong trường hợp này con có thể khai giới để nhờ vị tu sinh này giúp đỡ được không?
f) Khi con đến khu nhà bếp để tìm gặp cô Út để nhờ cô, như xin cây viết chẳng hạn. Con không thấy cô Út đâu cả, nhưng con gặp chú Ân (hoặc người làm công khác) đang ở đó. Trong trường hợp này con có thể hỏi thăm chú Ân thấy cô Út đâu không , có được không ? (khai giới độc cư).
g) Khi con chợt nhớ ra ở nhà còn có việc gì đó mà chưa giải quyết kịp (ví dụ như có một số cây cảnh sợ không ai chăm sóc thì chúng sẽ bị hư, chết nên con muốn nhờ chị con, hoặc gia đình hãy đem cho ai đó tuỳ thích…) thì con có thể viết thư về nhà được không ? (thông qua Thầy đứng lớp).
h) Khi có điện thoại ở gia đình gọi đến, con có thể khai giới để nghe được không ? (thông qua Thầy Giám Luật).
i) Trong trường họp con gửi sách về cho gia đình xem, nhưng không biết sách có đến nơi được không. Trong trường hợp này con có thể xin điện thoại về nhà để hỏi thăm có được không ? (thông qua Thầy Giám Luật)
j) Trường hợp gia đình gửi cho con một ít tiền. Con có thể dùng tiền này để nhờ cô Út mua giúp con một cái máy nghe, để con thâu lời nói của mình để theo dõi sửa chữa cho lời nói tốt hơn. Liệu việc này có được phép không thưa Thầy ? ( Chị con có hứa sẽ gửi cho con một ít tiền khi nào thuận tiện).
k) Trên lớp học, nếu có tu sinh nào đó tỏ ra quan tâm bằng cách hỏi thăm. Ví dụ tu sinh Minh Đức hỏi con ở đấy có nhiều muỗi không? Trong trường hợp này con trả lời ngắn gọn có được không?
Đáp: Được, không phạm giới
Trên đây là một số trường hợp mà con nghĩ có thể xảy ra trong cuộc sống tu tập. Ngoài ra có những trường hợp khác nhưng con chưa nghĩ tới. Con kính xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con, để giúp con được sáng tỏ thêm.
Hỏi:Sáng nay ở lớp chúng con, Thầy Thanh Quang có trình bày với lớp rằng trong bức tâm thư thứ 40 Thầy gởi cho Phật tử Kim Quang. Thầy đã trả lời cho Phật tử Kim Quang nhiều câu hỏi. Trong đó Thầy có dạy rằng: “…bây giờ, trong lúc tu học đức hiếu sinh, tu sinh có thể đến thất bạn để thăm khi bạn bị ốm mà không bị phạm giới.
Điều này đã khiến cho chúng con có vài thắc mắc. Con xin kính trình lên Thầy rõ.
- Bức tâm thư 40 này có phải Thầy chỉ dạy riêng cho phật tử Kim Quang, chứ không phải chung cho mọi người ?
Đáp: Một người hỏi Thầy là mọi người được học, cho nên thư của Thầy là gửi cho tất cả các tu sinh
Hỏi:- Trước đây con có nghe Thầy dạy trong một bức tâm thư mà con không nhớ rõ số bao nhiêu… rằng: Nếu gửi riêng cho ai thì Thầy sẽ viết tay. Còn nếu gửi chung cho cả lớp thì Thầy sẽ đánh máy. Thế nhưng bức tâm thư 40 này thì chúng con chưa được nghe và lại được đánh máy nữa. Như vậy con có thể mượn bức tâm thư này để tìm hiểu thêm được không, thưa Thầy ?
Đáp: Được, con nên mượn đọc, mỗi bức thư của Thầy là những bài học giới luật đạo đức và các pháp hành, cho nên các con cần phải đọc nhiều hơn nữa.
Hỏi:Thầy Thanh Quang có đưa cho con xem bức tâm thư này, nhưng con không dám mượn vì sợ phạm giới độc cư.
Và bức tâm thư kia nếu như Thầy chỉ dạy riêng cho phật tử Kim Quang, mà con xem thì lại phạm vào sự tò mò không nên. Nghĩ vậy mà con đã không dám mượn Thầy ạ ! Và cũng mong thầy Thanh Quang thông cảm!
Đáp: Thư của Thầy không có trả lời riêng tư mà trả lời riêng tư thì Thầy viết thư tay còn thư này trả lời cho một người là trả lời chung cho các con, tại sao sợ lại tò mò không dám đọc?
Hỏi:Thưa Thầy, con xin bổ sung ở phần “ khai, giá, trì, phạm” của giới Độc cư một ý nữa thế này:
Ví dụ như có một người gặp con và tặng cho con một món vật ( như trước đây chú Thanh Trí muốn tặng con một chiếc đồng hồ báo thức ). Thay vì im lặng bỏ đi, con có thể khai giới và nói lời cảm ơn, cũng như sự từ chối của mình để họ đỡ buồn và vui lòng có được không thưa Thầy ?
Đáp: Con tu tập ở giai đoạn độc cư nào? Phải hiểu rõ ở giai đoạn nào, chứ tu như vậy là sai hết con ạ!Tu mà không hiểu là tu mù, tu sai mà không biết. Thật đáng thương.
Hỏi:Nói chung, trong những trường hợp bất chợt, gặp người muốn hỏi mình điều gì đó có vẻ cần thiết. Thay vì im lặng và xá chào bỏ đi thì thấy họ chưng hửng và tội quá. Lúc ấy con có thể khai giới và trả lời rồi sau đó bỏ đi. Tức là có sự tự ý thức nơi mình, không để lôi cuốn theo người. Như vậy có được không, thưa Thầy?
Đáp: Được, không phạm giới
Hỏi:Trong trường hợp có người quen ở quê vào Tu Viện muốn gặp và trao đổi ít lời gì đó. Con có thể khai giới tiếp chuyện được không ?
Đáp: Được, không phạm giới
Hỏi:Con nghĩ rằng, trong vấn đề tu tập thì sự độc cư giúp cho hành giả đỡ phiền hà bởi những tâm tư, tình cảm của những người khác tác động và lôi kéo, làm cho tâm trí luôn xao động, hướng ra ngoài và chạy theo “thất tình lục dục”. Do đó càng ít tiếp duyên, càng tốt. Tuy nhiên có những trường hợp như con đã nêu trên đây; hoặc có những trường hợp khác nữa mà con chưa nghĩ đến, khi gặp phải nếu không có sự thông suốt thì con thấy rất dễ bị ức chế và tâm trí ray rức Thầy ạ ! Vì vậy hôm nay con kính trình tất cả những suy tư của con lên đây, kính mong Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ ràng, sáng suốt hơn. Con cám ơn Thầy.
Kính thưa Thầy ! Đến đây con chợt nhớ đến bài phân tích về “Đức Độc Cư hiếu sinh ý hành” mà Thầy đã phân tích về độc cư đúng và độc cư sai ở bài học “Lá thư của mẹ” thì con thấy Thầy chú trọng và nhấn mạnh về phần nội tâm sống với đức hiếu sinh là chính. Con nghĩ: Nếu như vậy thì trong vấn đề này cần nhiều đến sự linh hoạt, thiện xảo theo sự quán xét, tư duy của mình. Tuy nhiên, chúng con nghĩ rằng mình chưa vượt thoát khỏi sự chi phối của “dục” nên cũng dễ bị đội lốt. Do đó có một sự chuẩn mực của Thầy thì chúng con sẽ yên tâm hơn. Một lần nữa con xin cảm ơn Thầy!
Con của Thầy - Kính thư - ThiệnTâm.
Đáp: Độc cư có ba giai đoạn tu tập, đó là chuẩn mực của nó tu tập ở giai đoạn nào thì phải giữ gìn độc cư ở giai đoạn đó, đừng ở giai đọan này mà tu tập ở giai đọan khác thì tu sai pháp.
vvvv
Kính thưa Thầy!
Nhân dịp chúng con học đến câu hỏi số 44 trong bài “Lá thư của Mẹ” nói về ĐỨC HỐI LỖI HIẾU SINH Ý HÀNH. Con xin Thầy chỉ dạy cho chúng con cách thức sám hối đúng pháp.
Trong bài Thầy có nói đến ngày BỐ TÁT. Vậy ngày Bố Tát là gì?
Đáp: Mỗi tháng có hai ngày BỐ TÁT, ngày giữa tháng là ngày 15 và ngày cuối tháng là ngày 30. Trong sách Giáo Án Rèn Nhân Cách lớp ly tham tập 1 Thầy đã dạy rất kỹ.
Ngày ấy Thầy giảng viên xin phát lồ trước các tu sinh rồi xin sám hối rồi lần lượt đến các tu sinh, người nào cũng xin phát lồ sám hối. Đó được xem là ngày kiểm thảo để xin sửa sai những lỗi lầm.
Ngoài hai ngày bố tát nếu tu sinh có vi phạm những lỗi lầm thì không sám hối trước chúng mà chỉ xin sám hối riêng với thầy giảng viên.
Dù phạm lỗi nhỏ hay lỗi lớn, tốt nhất các con nên đến trước tượng Phật nói rõ những lỗi lầm rồi xin hứa sẽ không tái phạm lại nữa ./.
(Ngày 23-11-2007)
Kính gửi: Phước Tồn
1- Trước khi nhận cơm phải đi một vòng trong tu viện là tập luyện OAI NGHI đi trong đoàn cho quen và cũng chính tập đi trong CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC.
2- Nếu con thấy con kiến bị nạn thì con nên dừng lại cứu con kiến đang bị các con kiến khác hại, khi cứu con kiến xong thì con tiếp tục đi sau đoàn.
3- Khi thấy có con kiến bị giậm thì con nên nhường cho các sư đi trước, còn riêng con giúp con kiến để tránh ra khỏi lối đi rồi con tiếp tục đi theo sau.
4- Khi thấy con kiến bị giậm mà bỏ đi luôn là thiếu đức hiếu sinh, không xứng đáng là đệ tử của Phật.
5- Thời gian thọ thực là tùy theo người ăn nhanh và ăn chậm, nhưng dù nhanh hay chậm cũng chỉ trong 1,30 giờ mà thôi. Vì trong 1,30 giờ có 30’ tụng niệm và ước nguyện, cho nên ăn chỉ có 1 giờ. Một giờ ngồi ăn là đủ sức tỉnh giác trong bữa ăn không thiếu không thừa. Còn ăn uống loại cứng loại mềm, ăn trước hay sau là tùy người ăn chứ không có giới nào cấm.
6- Khi ăn chung nhau thì phải chờ đợi nhau, đó cũng là pháp tu tập đức nhẫn nại. Người ăn trước thì ngồi tại chỗ giữ tâm chánh niệm tỉnh giác xả tâm chướng ngại đợi chờ, cũng như người ăn sau cũng giữ tâm chánh niệm xả tâm chướng ngại để cứ tự nhiên ăn cho đến khi xong, chứ không phải bớt cơm hay bỏ cơm như con đã nói. Cách thức con hỏi trong thư không phải là người tu tập chánh niệm tỉnh giác xả tâm ly dục ly ác pháp.
7- Vì thân con có bệnh nên không được phí thời gian nhiếp tâm an trú tâm trên mọi thân hành để xả bệnh, đó là điều cần thiết của con.
8- Đi trong Tăng đoàn mà bị nặng đầu không phải do chỗ tu tập tỉnh giác mà do đi chưa quen trong chúng rồi sinh chướng ngại tâm, chứ đi nhanh đi chậm khi tu tập tỉnh giác chánh niệm vẫn dễ dàng không có khó khăn, chỉ vì con đi chậm tập tỉnh giác quen rồi đến khi đi nhanh thì không tỉnh giác, đó là tập sai pháp. Pháp tỉnh giác chánh niệm tu trong những oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, ăn, uống, ngủ nghỉ, nhanh chậm và hơi thở bình thường, dài, ngắn đều tu tập được cả.
9- Nghĩa là người khất sĩ không được dùng đồ vật để giành tức là đồ vật thừa hai thì không được, chỉ một mà thôi, tọa cụ dùng để ngồi và nằm chỉ một miếng vải dài 2,00m khổ 0,80m hoặc 0,60m, xếp lại dùng để ngồi, trải ra dùng để nằm. còn nếu dùng hai miếng, một miếng dài, một miếng ngắn là có vi phạm. Hiện giờ ở trong tu viện nên tập ba y một bát trả lại đồ mền mùn gối chăn chiếu cho tu viện để tập làm quen với đời sống ba y một bát thiểu dục tri túc, còn để đồ đạc nhiều là không đúng hạnh của người khất sĩ, tức là sống không buông xả. Sống không buông xả đi tu làm gì cho uổng một đời.
10- Nói lén lỗi người khác là có lỗi, còn người ta cầu xin mình chỉ lỗi mà mình chỉ lỗi cho họ sửa để trở thành người tốt, ở giữa đại chúng thì không có lỗi gì cả, chỉ nói lén lỗi người khác sau lưng họ là con có lỗi, con là người xấu. Cho nên ngày thỉnh nguyện sám hối là ngày giúp chúng ta khắc phục những lỗi lầm để không còn lỗi lầm nữa.
Lời dạy của Phật:“Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”, đó là một phương pháp xả tâm tuyệt vời; đó là một phươn pháp để tâm quay vào quán Tứ Niệm Xứ (Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu) nhờ quán như vậy tâm không phóng dật. Còn ngày bố tát thỉnh nguyện là ngày tự nguyện, tự giác sửa mình trong giới luật Phật, phải quỳ trước giữa đại chúng phát lồ tự khai những lỗi lầm của mình và xin chừa bỏ không vi phạm nữa. Sau khi phát lồ xong liền cầu xin mọi người khác trong đại chúng chỉ cho những điều mình vi phạm giới luật để mình biết và giữ gìn không vi phạm giới luật nữa. Trong giờ phút người bạn đồng tu phát lồ sám hối thì mình chỉ thẳng những lỗi lầm phạm giới luật của người bạn, đó là mình không nói xấu, nói lỗi người, mà giúp nguời từ xấu trở thành tốt; đó là ân nghĩa; đó là một việc làm tốt, một việc là rất cần thiết của mọi người đang tu học. Bởi vì mình tốt mình cũng muốn bạn mình tốt theo.
Người ta không xin mình chỉ lỗi mà mình chỉ lỗi người là mình sai, Ở đây nơi phát lồ sám hối mà có người chỉ lỗi là mình phải biết ơn người chỉ lỗi cho mình.
11- Đồ ăn không cất giữ một món nào trong thất cả, dù là muối tiêu, muối ớt, muối xả v.v….cũng không được cất giữ, phải nhớ kỹ những điều này.
Thăm và chúc các con tu tập xả tâm tốt.
Thầy của con
(22-11-2007)
Kính gửi: Thiện Tâm
Thầy sẽ trả lời tất cả những câu hỏi của con:
Hỏi: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ tỉnh giác và cảnh giác có điểm giống và khác nhau như thế nào? Hay khác nhau hoàn toàn?
Đáp: Danh từ TỈNH GIÁC và CẢNH GIÁC có nhiều điểm khác nhau như sau:
1- TỈNH GIÁC là một pháp môn tu tập của Phật giáo nguyên thủy để giúp con người chủ động thực hiện đức hiếu sinh và các đức hạnh khác, còn CẢNH GIÁC không phải là một pháp môn tu tập chỉ là một sự đề phòng.
2- TỈNH GIÁC là tâm bình tỉnh trước các ác pháp và các cảm thọ, luôn luôn sáng suốt quan sát từng các đối tượng (sáu trần) tiếp xúc sáu căn (mắt thấy, tai nghe…) để giúp cho người tu hành không dính mắc, nên nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng một cách dễ dàng để tâm được an lạc, thanh thản và vô sự. Còn CẢNH GIÁC là nỗi lo lắng, luôn luôn nghi ngờ người này người kia.
3- TỈNH GIÁC là tâm AN VUI, còn CẢNH GIÁC là tâm lo sợ NGHI NGỜ.
4- TỈNH GIÁC là tâm sáng suốt chủ động biết rõ từng hành động thân, miệng, ý của mình trước khi làm, nghĩ và nói những cái gì, còn CẢNH GIÁC chỉ là để phòng những đối tượng hại mình, chứ không lưu ý từng hành động thân, miệng, ý.
5- TỈNH GIÁC là thiện pháp không làm khổ mình khổ người, còn CẢNH GIÁC làm khổ mình nên lúc nào cũng dè dặt lo ngại.
6- TỈNH GIÁC là pháp xuất thế gia, còn CẢNH GIÁC là pháp thế gian.
7- TỈNH GIÁC là thiện pháp, mà thiện pháp là chuyển ác pháp nên người tu tập tỉnh giác ít xảy ra tai nạn, còn người CẢNH GIÁC chỉ là một đức cẩn thận đề phòng bảo vệ cá nhân mình mà thôi, cho nên cảnh giác chỉ là nghi ngờ dò xét chứ không phải tỉnh giác. Cho nên tỉnh giác và cảnh giác hoàn toàn khác xa.
Hỏi:Ví dụ: Trong các câu chuyện của bài học hôm nay “người dược sỉ bị sát hại bởi hai tên cướp hung hãn” bác Hoá do thiếu cảnh giác nên mới chở hai tên cướp, nhưng lúc ấy bác Hóa có tỉnh giác. Do vậy không thể nói bác Hóa thiếu tỉnh giác được!
Đáp: Câu ví dụ trên đây hiểu sai nghĩa của hai từ TỈNH GIÁC và CẢNH GIÁC: “Bác Hoá do thiếu cảnh giác nên mới chở hai tên cướp, nhưng lúc ấy bác Hóa có tỉnh giác. Do vậy không thể nói bác Hóa thiếu tỉnh giác được!”Con nên nhớ trong CẢNH GIÁC có TỈNH THỨC chứ không có TỈNH GIÁC đó là con hiểu sai. nếu có TỈNH GIÁC thì bác Hóa không bị chết. Vì bài học này là bài thông tin trên báo nên dùng CẢNH GIÁC. Nhưng trong cảnh giác không có tỉnh giác như trên đã nói, nó chỉ có TỈNH THỨC nếu có TỈNH GIÁC thì không cần CẢNH GIÁC, vì vậy trong Tỉnh Giác Chánh Niệm thì không ai lừa gạt nó được, nó thường quan sát kỹ các đối tượng. Quan sát kỹ các đối tượng không phải là cảnh giác mà là bản chất của Tỉnh giác
Hỏi:Bởi vậy tỉnh giác khác với cảnh giác hoàn toàn!
Đáp: Đúng vậy, tỉnh giác khác với cảnh giác hoàn toàn!
Hỏi:Trong sự việc của bác Hoá thiếu cảnh giác nên chở 2 tên cướp có thể nói rằng bác Hoá là “thiếu tỉnh giác được không ?
Đáp:Bài học này có hai cách dùng, nếu bài học này là bài thông tin trên báo không phải là bài học đạo đức nhân bản - nhân quả thì dùng từ CẢNH GIÁC là đúng, còn bài học này nếu dùng về đạo đức hiếu sinh ly tham thì nên dùng từ TỈNH GIÁC thì rất chuẩn xác, nhưng trong bài học dùng CẢNH GIÁC là dùng về thông tin để mọi người cảnh giác, các con nên lưu ý.
Hỏi:Khi nào thì dùng tỉnh giác, khi nào thì dùng cảnh giác cho phù hợp?
Đáp:Ở đạo đức nhân bản - nhân quả thì dùng từ TỈNH GIÁC, còn ở góc độ thông tin thế gian thì dùng từ CẢNH GIÁC
Hỏi:Nếu dùng sai từ có tại hại gì không ?
Đáp:Nếu dùng sai từ TỈNH GIÁC và CẢNH GIÁC thì không có hại gì, nhưng chứng tỏ mình không hiểu đạo đức và cũng không biết phương pháp rèn luyện nhân cách để trở thành người có đạo đức. Nếu dùng TỈNH GIÁC cho cuộc sống hằng ngày thì không cần dùng CẢNH GIÁC, còn dùng CẢNH GIÁC thì phải dùng thêm TỈNH GIÁC mới đem lại sự bình an cho mình thật sự, còn chỉ dùng riêng có cảnh giác là đem đến cho mình một sự bất an lo lắng. Ở đây trong bài Thầy dùng CẢNH GIÁC là chỉ cho thông tin và cũng chỉ cho các con còn thiếu tỉnh giác nên phải còn tu tập nhiều TỈNH GIÁC hơn nữa mới dám dùng TỈNH GIÁC.
Hỏi:Thưa Thầy: con xin phép được hỏi về một điều nữa là tư cách của người đứng lớp thể hiện qua việc đứng lên hay ngồi khi phát biểu. lâu nay con áp dụng cách thưc đứng lớp ở trường học phổ thông nên con chỉ ngồi mà phát biểu, nhận xét, trình bày một vấn đê gì đó .. và chỉ đứng vậy khi có việc phải chào hỏi hoặc nhận đồ vật gì của tu sinh mang đến mà thôi.
Trong những ngày qua khi Minh Độ thực hành đứng lớp thì sư thường xuyên đứng lên khi phát biểu vv. Nói chung là đứng lên rất nhiều.
Con cảm thấy phân vân và suy nghĩ có thể con còn sơ sót, chưa phải lễ khi phát biểu, đọc bài hoặc đáp trả lời chăng?
Vì vậy con kính xin Thầy hướng dẫn giúp cho con rõ thêm về hành động đứng lớp khi nào thì phù hợp, đúng lễ, không thất lễ và cũng không bị hình thức vv. để chúng con áp dụng chính xác.
Được sự chỉ dạy và hướng dẫn của Thầy chúng con vô cùng biết ơn. Con xin cảm ơn Thầy.
Đáp:Một người tu hành theo Phật giáo, mục đích là phải diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, vì vậy đức lễ cung kính tôn trọng mọi người là trên hết, cho nên Minh Độ đứng lớp dạy và thực hành đức khiêm hạ như vậy là đúng.
Thăm và chúc các con tu tập xả tâm tốt
Thầy của các con
Thời gian trôi qua quá nhanh, mới đó mà đã hai tháng rồi, giống như một giấc mộng. Nhìn lại sự tu tập của các con Thầy rất lo lắng, vì tu tập như vậy làm sao chứng đạt chân lí được. Phải không các con?
Muốn chứng đạt chân lý là phải tu tập xả tất cả chướng ngại pháp trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm và pháp, chứ đâu tu tập ức chế ý thức để cầu không niệm.
Tu tập Tứ Niệm Xứ mà cứ như tu tập Tứ Chánh Cần, tu như vậy làm sao đi đến chỗ chứng đạo được! Chỗ này các con hãy lắng nghe và tìm hiểu nghĩa lý thực hành cho rõ ràng từng pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, rồi từng giai đoạn tu tập của các pháp môn này.
Cùng một pháp môn nhưng giai đoạn đầu tu tập khác; giai đoạn sau tu tập khác huống là hai pháp môn khác nhau trong hai lớp khác nhau của Bát Chánh Đạo như: lớp Chánh Tinh Tấn và lớp Chánh Niệm. Lớp Chánh Tinh Tấn là phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần, còn lớp Chánh Niệm là phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Vì thế cần phải hiểu rõ nghĩa như sau:
1- Tu tập Tứ Chánh Cần là “ngăn” và “diệt” các ác pháp để luôn luôn “sinh” thiện tăng trưởng thiện pháp. Các con nên lưu ý những danh từ: “NGĂN” và“DIỆT; SANH” và“TĂNG TRƯỞNG”. Vậy ngăn và diệt; sanh và tăng trưởng là nghĩa như thế nào? Còn tu tập như thế nào? Thầy đã dạy các con rồi. Các con có nhớ không?
“Ngăn” nghĩa là ngăn ngừa, ngăn chặn, ngăn cản không cho vào.
“Diệt” nghĩa là làm cho tiêu mất, làm cho chết, làm cho tiêu diệt, làm cho không còn, không tồn tại
“Sinh” nghĩa là sinh ra, làm ra cho nhiều, sản xuất.
“Tăng trưởng” nghĩa là làm cho lớn, cho nhiều, cho mạnh.
2- Tu tập Tứ Niệm Xứ là trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu. Các con nên lưu ý những danh từ: “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM ƯU”. Vậy quán, nhiếp phục, tham ưu nghĩa là gì? Và cách thức tu tập “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM ƯU”. như thế nào? Thầy đã dạy các con rồi. Các con còn nhớ không?
“Quán” nghĩa là quan sát bằng mắt; bằng sự cảm nhận.
“Nhiếp phục” nghĩa là thu phục làm cho phục tùng; làm cho đầu hàng; làm cho không còn chướng ngại pháp và ác pháp nữa; làm cho không còn phá phách; làm cho không còn đau khổ; làm cho không còn phiền não; làm cho không còn giận hờn tham, sân, si, mạn, nghi nữa
“Tham ưu” nghĩa là tham muốn và phiền não, nghĩa chung là những chướng ngại pháp.
Có hiểu nghĩa rõ ràng như vậy các con mới tu tập đúng pháp thì sự chứng đạt chân lí mới nhanh chóng và dễ dàng. Các con đang hiểu sai pháp nên tu hành không đúng. Tu Tứ Niệm Xứ mà cứ tu tập Tứ Chánh Cần như trên đã nói, chỉ còn năm tháng nữa mà tu sai làm sao chứng đạo. Hãy mau mau sửa lại sự tu tập cho đúng, kẻo phí thời giờ vô ích.
Tu tập như vậy làm sao chánh pháp của Phật thường còn? Tu mà không chịu khó quan sát xem xét những giới luật mình đang thọ và giữ gìn (Mười Giới Đức Thánh Sa Di), có vi phạm giới nào không? Giới luật là đời sống phạm hạnh của người tu, là pháp ly dục ly ác pháp, thế mà các con không giữ gìn cho trọn vẹn luôn luôn vi phạm giới luật, để trở thành người phá giới, nhất là giới hạnh độc cư. Giới hạnh độc cư là giới phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi miệng, thân, ý. Các con không giữ gìn nó thì làm sao tâm ly dục ly ác pháp cho được; tu mà không giới luật thì không xả tâm chỉ biết ức chế tâm và còn để tâm dung ruổi chạy theo dục lạc ở đời; theo tình cảm của cuộc sống người này với người kia; theo các ác pháp dùng lời nói li gián, để chia rẻ, để ganh ghét, để thù hận với nhau, thì còn nghĩa lý gì là tu hành nữa. Phải không các con?
Tu mà nói chuyện người này đúng, người kia sai; tu mà còn so bì hơn thua với nhau từng chút, từng ly; tu mà đi rình ngó người này tu như thế này, người kia tu như thế kia, thì làm sao chứng đạo được các con?. Nhìn thấy sự tu tập của các con mà Thầy rất buồn lòng. Buồn là nghĩ đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người làm sao có người dựng lại được, khi các con tu tập như vậy. Tâm Thầy lại còn xót xa hơn, khi nghĩ đến hạnh phúc của loài người trên hành tinh này quá mỏng manh, nhất là loài người không bao giờ có được hạnh phúc ấy. Hiện giờ các con là những người đại diện cho mọi người mà hiểu lầm và tu hành sai pháp như vậy. Rồi đây làm sao có người thay thế Thầy dựng lại Chánh pháp của Phật? Thầy đã già rồi, đừng ỷ lại vào Thầy. Phật sống đến 80 tuổi. Ông A Nan sống 120 tuổi, nhưng có người còn bảo Ông A Nan già lú lẫn...
Ôi! Chúng sanh ít phước, làm sao thọ hưởng được nền đạo đức ấy. Các con là những người đại diện cho muôn người, vạn triệu người trên hành tinh này như trên đã nói mà tu tập như vậy thì còn hy vọng gì nữa các con! Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn và mãi mãi các con sẽ mất Thầy.
Còn năm tháng nữa, chứng nào tật nấy làm sao các con bỏ được tâm bỉ thử đây! Làm sao sống được đạo đức làm người sống không làm khổ mình khổ người. Tu hành mà các con luôn thấy lỗi người không thấy lỗi mình thì đạo đức gì đây! Nhìn các con tu hành lòng Thầy đau xót như ai cắt ruột.
Các con có biết không? Còn năm tháng nữa, tu như vậy làm sao chứng đạo được các con?
Một lần nữa, nếu không có người chứng đạo, Thầy sẽ ra đi! Và đi! Đi mãi!!! Nếu còn duyên Thầy sẽ ẩn bóng viết xong bộ sách “ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI”, rồi Vĩnh biệt các con. Các con ở lại mà sống với cuộc đời đầy ác pháp, đầy nước mắt và đau khổ. Chừng đó các con có nhớ Thầy, thì hãy nhớ giới luật và Tứ Niệm Xứ. Giới luật và pháp môn Tứ Niệm Xứ là thầy của các con; là ngọn đuốc soi đường cho các con đi; là chỗ nương tựa vững chắc cho đời tu hành của các con. Các con nhớ kỹ lời dạy này, đừng bao giờ quên hỡi các con?
Thấy pháp hành các con áp dụng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ ràng, do đó khi thực hành vào pháp xả tâm trên Tứ Niệm Xứ thì lại ức chế tâm, tu như vậy không đúng theo lời Thầy dạy. Do không hiểu đúng lời Thầy dạy nên các con tu hành thấy khó khăn và vất vả, thật đáng thương. Biết làm sao bây giờ đây, sự hiểu biết của các con có giới hạn, nên lời nói và sự cố gắng của Thầy để diễn đạt cho các con hiểu, nhưng sự hiểu của các con còn hạn cuộc trong không gian và thời gian của ý thức. Vì thế, các con chỉ hiểu ở mức độ đó, không thể nào hiểu hơn được nữa, nên cũng đành chịu thôi vậy.
Ở đây, chỗ các con đã hiểu sai về Phật pháp, nhất là về sự chứng đạo của Phật giáo. Cho nên hiện giờ quý sư, quý thầy, quý ni và quý cư sĩ đang tu theo Phật giáo đều nghĩ rằng: “chứng đạo là chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại ghê gớm lắm”. Hiểu như vậy là hiểu sai Phật giáo. Phật giáo là nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai, mà mọi người lại hiểu Phật giáo là một tôn giáo thần quyền, là một loại thiền định siêu đẳng, là một thế giới ngoài thế giới của loài người, nên kinh sách phát triển Bắc tông cũng như kinh sách Nam tông đều hướng dẫn tu tập ức chế tâm và còn nghĩ rằng: con người cần phải nhờ vào oai lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ và còn phải tu tập nhiều đời nhiều kiếp. Nhất là còn phải tạo nhiều phước báu hữu lậu như: bố thí, cúng dường xây dựng chùa, tháp, đúc chuông, tạc tượng Phật và làm từ thiện v.v... Nhưng thật sự không phải vậy. Kinh sách Phật giáo Nguyên thủy đức Phật đã khẳng định trong bài chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Sau buổi thuyếp pháp đó, năm anh em Kiều Trần Như đều chứng pháp nhãn thanh tịnh và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán. “Nghe xong bài thuyết pháp này và một bài thứ hai có đầu đề “Anttalakkhana sutta”, bàn về thuyết vô ngã (không có cái Ta), năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu trở thành A La Hán”(Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni do HT Minh Châu biên soạn trang 29).
Đọc đoạn kinh này xong chúng ta biết rằng Phật giáo không phải là pháp môn khó tu tập như thiền Yoga và thiền Tông Trung Hoa. Đối với Phật giáo chỉ cần hiểu đúng và sống đúng là chứng quả A La Hán.
Danh từ chứng đạo đã khiến cho mọi người hiểu nó qua trí tưởng tượng nhiều hơn, nên chứng đạo là chứng cái gì cao siêu và phi thường vượt ngoài tầm tay con người. Vì thế, người ta thấy nó quá khó khăn vô cùng. Tư tưởng thấy quá khó khăn cũng là một điều cản trở rất lớn trên bước đường tu tập chứng đạo.
Như đoạn kinh trên đã nói: năm anh em Kiều Trần Như nghe xong pháp và chứng quả A La Hán đâu có khó khăn gì! Vì thế, chúng ta nên xét kỹ lại các pháp đang tu tập, nhất là pháp môn Tứ Niệm Xứ thì sự chứng đạo đâu có khó khăn gì. Phải không các con?
Nhưng vì mọi người đã hiểu lầm lạc. Họ đâu biết rằng: “Chứng đạo chỉ là sống với một tâm không bị dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tác động. Cho nên, chứng đạo không có chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại cả, chỉ là một cái tâm bình thường như mọi người, nhưng không có chướng ngại pháp nào làm cho tâm người ấy bị dao động”.
Chứng đạo không có nghĩa là chứng thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán võ, tàng hình, biến hóa, đằng vân, độn thổ, biết chuyện quá khứ, vị lai của mọi người v.v... mà chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Chứng đạo chỉ là sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự, lúc nào cũng như lúc nào không bị kèm chế, không bị bắt buộc phải tu tập như thế này, phải làm như thế kia. Trong sự chứng đạo chỉ có một điều quan trọng nhất, đó là phải sống đúng giới luật như trong bộ sách Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống tập I đã dạy. Chúng ta phải quyết tâm buông xả đời sống nhân quả đang hiện có trong thân tâm của chúng ta.
Mục đích tu hành của chúng ta là làm chủ bốn nỗi đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh và chết, nhưng muốn làm chủ sanh, già, bệnh và chết thì chúng ta phải hiểu cho rõ ràng: Cái gì làm cho chúng ta bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Muốn biết rõ được điều này chúng ta hãy vào kinh Trung Bộ tập I, tạng kinh Việt Nam, trang 364, đọc Kinh Thánh Cầu mà đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ kheo, có hai sự tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỳ kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? Ở đây này các Tỳ kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng bạc là bị sanh. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh.
Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị già? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng bạc là bị già. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tầm cầu cái bị già.
Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị bệnh? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị bệnh; vàng bạc là bị bệnh. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tầm cầu cái bị bệnh.
Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị chết? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị chết; vàng bạc là bị chết. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị chết, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại tầm cầu cái bị chết.
Và Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sầu? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu; gà và heo là bị sầu; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị sầu; vàng bạc là bị sầu. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu lại tầm cầu cái bị sầu.
Và Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị ô nhiễm? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu là bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng bạc là bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu”.
Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết, đó là sanh y, tức là những vật chất, những người thân. Những vật chất và những người thân xung quanh chúng ta gọi chung là các pháp mà chúng ta lầm tưởng những pháp đó đang phục vụ đời sống của mình và mang lại hạnh phúc, nhưng khi những vật chất đó càng nhiều hơn thì sự khổ đau cũng nhiều hơn. Những vật chất đó càng nhiều thì chính chúng ta là những người nô lệ cho những vật chất đó, đang bị chúng sai bảo và dẫn dắt chúng ta vào cảnh giới ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết như trong kinh Thánh Cầu đã dạy ở trên và kinh Thập Nhị Nhân Duyên đã dạy dưới đây: “Có duyên sanh thì ắt phải có duyên ưu bi, sầu khổ và bệnh, chết”, và như vậy hai bài kinh đã dạy không sai khác.
Muốn thoát ra khỏi bốn sự đau khổ này chúng ta hãy đọc tiếp kinh Thánh Cầu để được đức Phật chỉ đường: “Và này các Tỳ kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỳ kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị chết, tìm cầu cái bất tử, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Thánh cầu”.
Sau khi đọc đoạn kinh trên đây các con có biết cách thức tu tập xả ly và từ bỏ cái bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu và bị ô nhiễm chưa? Nếu không biết cách thức tu tập xả ly từ bỏ sanh, già, bệnh, chết ... thì các con sẽ lầm lạc vào chỗ tu tập ức chế thân tâm, có thể dẫn đến chỗ rối loạn thân kinh như trên Thầy đã dạy.
Các con phải biết, tu hành theo Phật giáo là một sự sống bình thường, chứ lý đâu lại diệt hết ý thức phân biệt vọng niệm thiện pháp của mình, Cho nên có vọng tưởng hay không vọng tưởng đều là ý thức bình thường của mỗi con người, nhưng người tu hành sống đời đạo đức không làm khổ mình khổ người thì không chấp nhận những vọng tưởng có tính bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Vì thế khi có các vọng tưởng đó thì dùng đúng pháp của Phật đã dạy để xả ly, để từ bỏ, để đoạn diệt, không nên để nó lưu lại trong tâm dù một phút, một giây, phải đuổi đi một cách quyết liệt, một cách dũng cảm, một cách gan dạ; phải đầy đủ nghị lực chiến đấu với những vọng tưởng và các cảm thọ đó. Tất cả những vọng tưởng đó là ác pháp, là cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Cho nên chúng ta đều phải ngăn và diệt cho tận gốc cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết này. Tu hành chỉ có làm một việc như vậy thôi, chứ có tu tập gì nhiều đâu!
Còn những vọng tưởng không sanh, không già, không bệnh, không chết thì để nó tự nhiên, có gì mà phải ngăn diệt nó. Nó là ý thức của chúng ta, nó đâu phải là chướng ngại pháp. Vậy mà các con hễ thấy niệm là diệt, là tìm mọi cách ức chế cho đừng có niệm như Pháp Bảo Đàn Kinh dạy: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Như kinh Di Đà dạy: “...Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật...” . Như kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh ký tâm” Đó là phương pháp tu hành của Đại thừa và Thiền tông ức chế ý thức tối đa khiến cho người tu hành rơi vào thiền tưởng, Do rơi vào thiền tưởng mới tưởng con người có Phật tánh; mới tưởng có thế giới Cực Lạc, Thiên Đường; do rơi vào thiền tưởng nên không biết đường đi đến cứu cánh, giải thoát hoàn toàn. Vì thế họ phải tự an ủi cuộc đời tu hành của mình bằng cách phải tu tập nhiều đời, nhiều kiếp.
Các con hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Thế nên, các Tỳ kheo không nên phóng dật. Ta chính nhờ không buông lung (phóng dật) mà thành Chánh Giác, vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung (phóng dật) mà có được. Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của đức Như Lai”. Kinh Du Hành trang 207 Trường A Hàm tập I thuộc tạng kinh Việt Nam.
Các con có nghe rõ lời dạy này chưa? Lời đức Phật dạy quá rõ ràng: tâm không phóng dật tức là tâm không buông lung, hai chữ buông lung xác định nghĩa rất cụ thể: tâm không buông lung là tâm không chạy theo dục lạc và các pháp thế gian, chứ không phải tâm không niệm. Các con nên phân biệt cho rõ: Tâm không buông lung có nghĩa là ý thức không khởi niệm ham muốn cái này cái kia, còn tâm không niệm có nghĩa là ý thức không khởi niệm vọng tưởng. Ý thức không khởi niệm là pháp môn của ngoại đạo, còn Phật giáo ý thức không phóng dật, không buông lung chạy theo pháp trần, nhưng các niệm thiện vẫn còn. Vì thế đức Phật dạy: “Vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có được” Cho nên tâm không phóng dật, nhưng các pháp lành từ nơi tâm không phóng dật mà sanh ra. Đọc câu kinh này chúng ta thấy người tu hành có hết vọng tưởng không?
Tại sao tu hành chúng ta lại hiểu là phải diệt hết vọng tưởng? Diệt hết vọng tưởng để trở thành cây, đá thì còn ý nghĩa gì là sự giải thoát?
Tu là để làm chủ những sự đau khổ, để hết đau khổ, chứ đâu phải tu là làm cho chúng ta trở thành người ngu ngu, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn như người mất hồn, đi thì gầm gầm không dám ngó nhìn ai, nói nói, cười cười một mình.
Tu là đem lại cho chúng ta một tâm hồn hân hoan vui vẻ, đoan trang, chánh trực, không liếc xéo, liếc ngang, không nói xấu, nói lỗi người khác, không li gián người này với người kia.
Tu là đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, thoải mái, chứ đâu phải đi cúi đầu, khom lưng, bước thấp bước cao.
Tu là tỉnh giác, nhưng tỉnh giác đâu có nghĩa là chỉ có biết cảm nhận bước đi và hơi thở ra, hơi thở vào mà thôi. Tỉnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với chánh pháp. Nếu các con hiểu đúng nghĩa như vậy thì sự tu tập đâu có sai pháp và chứng đạo đâu có khó khăn mệt nhọc gì.
Cho nên nói tu tập là nói theo tôn giáo, nhưng nói theo tôn giáo thì người ta lại hiểu tu tập là ngồi thiền, niệm Phật, trì chú, tụng kinh, bắt ấn, cầu siêu, cầu an, lạy lễ hồng danh Phật để sám hối cho tiêu tai, giải tội v.v... Tu tập nói theo đời sống bình thường của con người là sửa sai những điều làm khổ mình, khổ người; sửa sai những hành động làm ác; sửa sai những điều bị ô nhiễm nghiện ngậm; sửa sai những lời nói ác, lời nói dối, lời nói li gián khiến cho mọi người mất đoàn kết bất hòa; sửa sai những ý nghĩ ác, những ý nghĩ làm hại người.
Vì sửa sai để trở thành con người tốt, con người có đạo đức. Cho nên tu theo Phật giáo chỉ có sửa sai tâm tính của mình, vì thế đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” hoặc “Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện” hoặc “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”. Những lời dạy trên đây của đức Phật là những lời dạy để sửa sai những thói hư tật xấu của mình; để mình trở thành người tốt; người có đạo đức; người không còn thói hư tật xấu nữa; người sống luôn luôn không làm khổ mình, khổ người.
Người chứng đạo rồi cũng giống như người bình thường nhưng lại phi thường vì sanh, già, bệnh và chết không sai khiến thân tâm họ được, còn người chưa chứng đạo thì bị sanh, già, bệnh và chết tác động vào thân tâm khiến cho thân tâm bất an thường bệnh tật, phiền não, khổ đau, sợ hãi, lo lắng, thương ghét, giận hờn v.v...
Một lần nữa người chứng đạo và người bình thường chỉ khác nhau là ở chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Người sống bình thường chỉ cần biết đâu là con đường thiện và đâu là con đường ác và không sống theo con đường ác, chỉ sống theo con đường thiện. Người biết sống được như vậy là người chứng đạo. Cho nên chứng đạo đâu có khó khăn gì. Phải không các con? Tu đâu có nghĩa là làm thay đổi thân tâm khác thường; tu là ngăn và diệt những hành động làm khổ mình, khổ người; tu là bảo vệ và giữ gìn trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và cảm thọ, tức là giữ gìn tâm thanh thàn, an lạc và vô sự từ ngày này sang ngày khác.
Sau hai tháng tu hành xả tâm vi tế trên Tứ Niệm Xứ, trên gương mặt của quý sư, quý thầy, quý cô và quý cư sĩ nam, nữ sao không hân hoan, sao không thoải mái, dễ chịu, trông có vẻ khắc khổ lắm vậy.
Cho nên các con cần phải xác định cho rõ ràng: Tu chứng là chứng cái gì?
Như trên đã nói, đâu phải tu hết vọng tưởng là chứng đạo như Thiền Tông dạy: “Chẳng niệm thiệm niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Tu hết vọng tưởng để làm gì các con? Nó không có giải thoát bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết được, hết niệm để chạy theo dục tưởng hỷ lạc.
Đâu phải tỉnh giác là chứng đạo? Tỉnh giác chỉ là giai đoạn đầu mới tu tập tỉnh thức để phá tâm si mê, mờ mịt, vì vô minh, vì hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.
Đâu phải tu có thần thông là chứng đạo? Thần thông chỉ là một trò ảo thuật của tưởng thức để lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin.
Tu đâu phải ngồi thiền nhiều là chứng đạo? Ngồi thiền nhiều nhập định tưởng. Định tưởng là một loại thiền định vô sắc do tưởng uẩn tạo ra. Tu mà nhập vào thiền tưởng để làm gì? Có ích lợi gì cho mình, cho người. Xưa đức Phật nhập vào các định tưởng: Không Vô Biên Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, khi tu xong Ngài ném bỏ như ném bỏ chiếc giày rách. Có đúng như vậy không các con?
Chứng đạo là chứng ở trạng thái tâm định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng, khi ý thức muốn sai bảo thân tâm làm một việc gì thì thân tâm làm theo đúng như ý.
Chứng đạo là chứng một đạo lực có Bốn Thần Túc để thực hiện Tam Minh, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.
Cho nên, trước khi chưa chứng đạo, những người muốn tu tập chứng đạo phải biết rõ trên đường đi đến chứng đạo. Và còn phải biết rõ sự chứng đạo lợi ích cho mình cho người như thế nào? Nếu chưa hiểu biết rõ sự lợi ích như trên đã nói thì đừng nên tu tập, vì có tu tập cũng chẳng lợi ích gì cho ai cả, còn phí sức, phí tiền của vô ích.
Đường đi đến chứng đạo là con đường Tứ Niệm Xứ. Nếu không trên pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập thì không bao giờ chứng đạo, nhưng trên Tứ Niệm Xứ tu tập thì phải tỉnh giác, nếu thiếu tỉnh giác thì không tu tập được. Vậy tỉnh giác như thế nào?
Khi tâm ham muốn một điều gì thì biết ngay tâm ham muốn điều đó, đó là tâm tỉnh giác. Khi biết tâm tỉnh giác được như vậy thì ý thức bảo: “Tâm không được ham muốn, ham muốn đó là ác pháp, là pháp khổ đau”. Ý thức lệnh bảo như vậy thì tâm chấm dứt ham muốn.
Khi tâm đang sân giận, ý thức bảo: “Tâm phải chấm dứt ngay sân giận, sân giận là pháp ác, là pháp đau khổ” khi tác ý như vậy là tâm không còn sân giận.
Khi thân già yếu, ý thức bảo: “Thân vô thường, nhưng không được yếu đuối run rẩy phải quắc thước”; khi tác ý như vậy thì thân lần lần không còn yếu đuối và run rẩy, luôn luôn quắc thước.
Khi thân bị bệnh, ý thức bảo: “Thân phải mạnh khỏe, tất cả bệnh tật đều phải lui ra khỏi thân”. Lệnh của ý thức như vậy thì bệnh lần lần lui ra sạch.
Khi thân sắp chết, thở không được thì ý thức bảo: “Thân phải thở lại bình thường, không được chết”. Ý thức lệnh như vậy thì thân mạnh khoẻ và thở lại bình thường.
Khi thân đang mạnh khoẻ bình thường mà muốn chết, muốn bỏ thân này thì ý thức ra lệnh: “Hơi thở phải tịnh chỉ, từ bỏ thân tứ đại này”. Lệnh như vậy thì hơi thở lần lần ngưng hoạt động, tâm nhập vào chỗ bất động Tứ Thiền Thiên và xuất Tứ Thiền Thiên nhập vào trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của Niết Bàn. Lúc bấy giờ tứ đại tan rả.
Trên đây là năng lực của những người tu chứng đạo, ý thức của họ hoàn toàn chủ động điều khiển sự sống chết của cơ thể họ. Cho nên người tu chứng đạo làm chủ sự sống chết, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Do làm chủ sự sống chết tự tại như vậy, nên mọi người ai cũng quyết tâm tu cho bằng được, nhưng lại tu sai, rơi vào chỗ ức chế tâm.
Theo Phật giáo tu chứng đạo không có khó khăn, nhưng vì không hiểu biết rõ ràng pháp tu hành nên trở thành khó khăn như trên đã nói.
Tu khó sao đức Phật tu tập chỉ có 49 ngày chứng đạo? Tu khó sao Thầy tu có sáu tháng rưỡi chứng đạo? Tu khó sao năm anh em Kiều Trần Như nghe bài pháp Tứ Diệu Đế và bài pháp vô ngã liền chứng pháp nhãn thanh tịnh và tu tập không bao lâu chứng quả A La Hán.
Phật pháp đâu phải khó tu, chỉ vì chúng ta nhận lầm pháp hành nên tu sai. Cho nên muốn tu tập theo Phật giáo thì những gì cần thông hiểu phải thông hiểu cho rõ ràng (giác ngộ) về các pháp hành và nhận ra cho được trạng thái chân lý, đó là điều cần thiết mà mọi người tu hành nên lưu ý. Vì thế, đức Phật dạy: “Nên thân cận thiện hữu tri thức”. Nhờ có thân cận thiện hữu tri thức chúng ta mới hiểu rõ các pháp hành và chân lý. Khi hiểu rõ các pháp hành là chúng ta biết cách thức sống để hộ trì chân lý. Sống để hộ trì chân lý thì đâu có cái gì để tu. Không có cái gì để tu thì có cái gì khó. Phải không các con?
Nói tu tập là nói theo tôn giáo, chứ Phật giáo nói tu tập là nói sống không làm khổ mình, khổ người. Sống không làm khổ mình khổ người là hộ trì và giữ gìn bảo vệ chân lý. Người nào biết sống hộ trì và giữ gìn bảo vệ chân lý là không hiểu sai Phật pháp. Còn ngược lại tu khác sống khác là không hiểu Phật pháp, nên tu tập gần chết mà không chứng đạo. Người hiểu đúng chỉ cần sống biết xả các chướng ngại pháp là chứng đạo.
Trong thời đức Phật còn tại thế, khi người ta nghe Phật thuyết pháp xong là chứng pháp nhãn thanh tịnh. Chứng pháp nhãn thanh tịnh rồi từ đó họ biết cách sống, luôn luôn xả những chướng ngại pháp để giữ gìn và bảo vệ chân lý, nhờ đó chẳng bao lâu họ chứng đạo.
Dưới đây Thầy sẽ trích dẫn ra những đoạn kinh Phật thuyết mà người nghe xong liền chứng các quả A La Hán.
Những bài phụ lục được trích dẫn ra đây là nhằm làm sáng tỏ đường lối tu tập của Phật giáo để mọi người hiểu rằng chứng quả A La Hán của đạo Phật không phải là khó khăn, chỉ cần có quyết tâm ly dục ly ác pháp thì chứng đạo dễ dàng.
“Thân phụ đức Phật, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) bây giờ đã già yếu, nghe tin đức Phật đã thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương Xá). Vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả Rajagaha (Vương Xá), thỉnh cầu đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua đến Vương Xá, được nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A La Hán. Vị sứ giả thứ 10 là Kaludàyi, vốn là người bạn thân của đức Phật, lúc Ngài còn là Thái tử. Ông này đến Vương Xá, nghe Phật thuyết pháp cũng xin xuất gia và không bao lâu chứng quả A La Hán như chín vị sứ giả trước. Kaludàyi không quên chuyển tới đức Phật lời phụ vương mời đức Phật về thăm gia đình. Đức Phật nhận lời, lên đường cùng với đông đảo đệ tử”. (Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 35 do HT Minh Châu biên soạn)
Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng chỉ cần nghe Phật thuyết giảng xong là các vị quan trong triều vua liền bỏ xuống hết danh, lợi, cha mẹ, gia đình, vợ con, của cải, tài sản, quan chức v.v… để được theo Phật xin xuất gia. Chứng tỏ giáo pháp của Phật rất thực tế về đời sống con người, nói về khổ và nguyên nhân sinh ra khổ của kiếp người, đó là một sự thật không còn ai phủ nhận được, đúng là 100/100, nên khi nghe Phật thuyết pháp xong thì các quan liền buông xuống hết, theo Phật tu hành và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.
Trên đây là các quan chứ không phải là tu sĩ Bà La Môn đã có tu. Vậy khi nghe pháp và chứng đạo chỉ có một thời gian rất ngắn. Như vậy pháp Phật tu hành đâu có khó khăn gì. Phải không các con?
Chỉ một bài kinh này cũng đủ xác định: Chứng đạo đâu phải khó khăn và thời gian chứng đạo đâu có lâu dài. Có đúng như vậy không các con?
“Đức Phật và các đệ tử của Ngài được vua Tịnh Phạn, quần thần và dân chúng đón tiếp long trọng. Được nghe đức Phật thuyết pháp. Vua chưng ngay Sơ quả (Tu Đà Hoàn). Khi nghe bài thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai (Tư Đà Hàm) , còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả. Lần thứ ba đức Phật giảng kinh Dhammapala Jataka cho vua cha và vua cha chứng Thánh quả thứ ba (A Na Hàm. Sách kể rằng: sau này trên giường bệnh vua cha được đức Phật về thăm và giảng pháp, Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A La Hán. Và sau bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm đức Phật tròn 40 tuổi.” (Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 36 do HT Minh Châu biên soạn)
Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy một người già như vua Tịnh Phạn khi nghe Phật thuyết pháp xong sống biết buông xả ly dục ly ác pháp liền chứng Sơ Quả; khi nghe bài pháp thứ hai liền chứng Nhị Quả; khi nghe bài pháp thứ ba liền chứng Tam Quả và lần nghe pháp cuối cũng đức Vua liền chứng quả A La Hán và nhập Niết Bàn. Như vậy Phật pháp đâu phải khó tu. Tu khó là do các con chịu ảnh hưởng của Đại thừa và Thiền Tông, cứ lo tu tập ức chế ý thức cho hết vọng tưởng, nên tu khó và tu mãi chẳng đi đến đâu.
Thấy người xưa buông xả quá dễ dàng, còn ngày nay Thầy khô cổ giảng dạy sách tấn khích lệ các con buông xả:
“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
Vạn sự vô thường buông xuống đi!
Các con không dám buông xả nên từ năm này đến năm khác tu cứ giậm chân tại chỗ. Nhất là các con lại hiều sai sự chứng đạo của Phật, nên có gắng ức chế tâm cho hết vọng tưởng như trên đã nói. Thành ra tu tập cho tới bây giờ mà chưa có người nào chứng quả A La Hán. Quả A La Hán, tu tập đâu có khó khăn như các đoạn kinh trên đã dạy. Thầy sẽ chứng minh thêm một phụ bản nữa để các con thấy sự chứng đạo của đạo Phật không có khó khăn.
“Rahula (Hán dịch La Hầu La)là người con trai độc nhất của đức Phật, khi đức Phật còn là Thái tử. Lần đầu tiên đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên 7 tuổi, được mẹ và dì Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahala được chấp nhận vào tăng đoàn, và được đức Phật giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ.
Một trong những bài kinh nổi tiếng, đức Phật đích thân giảng cho La Hầu La sau khi La Hầu La xuất gia, là kinh Ambalatthika Raluhovada sutta, trong đó đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh..
Nhờ luyện tập pháp tu định niệm hơi thở, theo lời chỉ dẫn của đức Phật, và sau khi nghe giảng kinh Cula Rahulovada, Ngài La hầu La chứng quả A La Hán. Ngài qua đời trước Phật và Xá Lợi Phất. Trong “Trưởng Lão Tăng Kệ”. Sau khi Ngài chứng quả A La Hán, Ngài có hai bài kệ như sau:
Nhờ ta được đầy đủ
Hai đức tình tốt đẹp
Được bạn có trí gọi
La Hầu La may mắn
Ta là con đức Phật
Ta lại được pháp nhãn
Các lậu hoặc đoạn tận
Không còn có tái sanh
Ba minh ta đạt được
Thấy được giới bất tử”
Đối với La Hầu La qua đoạn kinh trên chúng ta thấy La Hầu La có nghe pháp, có tu tập, rồi có chứng đạo, nhưng chứng đạo cũng không có khó khăn, thời gian cũng không lâu.
Như vậy trong thời đức Phật người nào được nghe Phật thuyết pháp rồi quyết tâm từ bỏ ly dục ly ác pháp và cuối cùng người nào cũng chứng quả A La Hán hết chỉ có những người nghe pháp rồi bỏ qua không chấp nhận và không thiết tha xả bỏ tham, sân, si, mạn, nghi thì không bao giờ chứng đạo được.
Muốn tu chứng đạo mà đời không dám bỏ thì tu làm sao chứng được. Trong bộ sách Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống tập II Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa sống không nhà cửa không gia đình”. Đây là những giới luật đầu tiên cho người mới xuất gia theo Phật giáo. Người mới xuất gia là người phải buông xả sạch đời sống thế gian. Cho nên những người nghe pháp xong liền xin Phật xuất gia thì không bao lâu họ sẽ chứng quả A la Hán, chính là do họ buông xả sạch đời sống thế tục.
Mười vị sứ giả của vua Tịnh Phạn sai đến mời Phật về thăm cố đô, nhưng khi gặp Phật nghe pháp liền xin xuất gia theo Phật tu hành không cần đến danh lợi, tiền của, vật chất, gia đình, vợ con, quan cao chức lớn. Có xả tâm như vậy mới có chứng quả A La Hán một cách dễ dàng và chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi
Để kết luật những lời tâm huyết này Thầy xin nhắc các con, hãy nên lưu ý pháp tu Tứ Niệm Xứ “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu”. Bài kinh dạy như vậy nhưng rất nhiều người hiểu sai thành thử chia pháp môn Tứ Niệm Xứ thành ra bốn pháp tu tập. Cho nên có trường thiền chuyên tu QUÁN THÂN; có trường thiền chuyên tu QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu QUÁN TÂM; có trường thiện chuyên tu QUÁN PHÁP. Đây là một cái sai của các nhà học giả tu hành chưa tới nơi mà dám chia pháp môn Tứ Niệm Xứ, rồi đem dạy người tu tập thật là tội nghiệp.
Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn xả mọi chướng ngại trên thân tâm, cho nên nó mới được gọi là nhiếp phục tham ưu. Nhưng khi quán thân là đã có quán tâm, quán thọ và quán pháp.
Khi ngồi tu Tứ Niệm Xứ là không tu gì cả, chỉ ngồi chơi như người vô sự. Người vô sự thì tâm họ ở đâu? Đã vô sự thì ý thức quán thân nó, chứ nó ở đâu?
Quán thân không có nghĩa là nó đang tư duy suy nghĩ, quán ở đây có nghĩa là nó tỉnh giác cảm nhận toàn thân tức là nó đang quan sát thân. Cho nên thân nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; tâm nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; thọ nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; pháp có chướng ngại gì thì nó liền biết. Nhờ biết đó mà nó dùng pháp như lý tác ý đuổi đi các chướng ngại ra khỏi bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Khi các chướng ngại ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp thì ý thức lúc biết thân, lúc biết thọ, lúc biết tâm, lúc biết pháp. Khi nó đang quán như vậy thì các con đừng tác ý khởi niệm, nếu khởi niệm là tâm các con đang phóng dật. Mục đích tu tập của TỨ NIỆM XỨ là tâm không phóng dật. Chỉ khi nào trên thân, thọ, tâm và pháp có chướng ngại pháp thì mới tác ý xả, còn không chướng ngại thì không tác ý. Các con đừng hiểu lầm xả từng niệm trong tâm, đó là các con tu sai pháp
Các con nên lưu ý cách thức QUÁN TỨ NIỆM XỨ, nếu không lưu ý các con sẽ quán sai thành ra quán ức chế tâm, chứ không phải quán Tứ Niệm Xứ.
Pháp môn này đức Phật tu tập 49 ngày đêm là chứng đạo. Thầy sáu tháng rưỡi chứng đạo. Ông Châu Lợi Bàn Đặc cũng do tu tập pháp môn này mà chứng đạo. Vì thế, trước khi nhập Niết Bàn đức Phật đã di chúc lại cho người đời sau: “Hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm Thầy, đừng lấy ai làm thầy; làm ngọn đuốc soi đường, làm chỗ nương tựa vững chắc”.
Còn năm tháng nữa chúc các con chứng quả A La Hán để không phục lòng Thầy mong đợi.
Thân thương chào các con
Kính gửi: Huệ Ân, Chơn Thành, Chơn Tâm, Chơn Đức, Chơn Nghĩa, Thanh Quang, Thanh Đức, Thanh Tâm, Thanh Nhẫn, Từ Quang, Từ Đức, Từ Hạnh, Tâm Nhẫn, Tâm Đức, Tâm Như, Tâm Ngộ, Tâm Liên, Đức Thông, Đức Minh, Đức Tâm, Liễu Huệ, Liễu Châu, Liễu Tâm, Liễu Thanh, Liễu Hương, Liễu Hoa, Liễu Pháp, Liên Hương, Liên Châu, Liên Ngọc, Liên Hạnh v.v... và các cụ, các bác từ Nam chí Bắc, từ trong nước đến ngoại quốc.
Kính thưa các cụ, các bác! Trong những ngày gặp gỡ phật tử ở mọi miền đất nước, Thầy lo lắng và thương xót thân tứ đại của các cu, các bác đã báo động thời gian còn lại không bao lâu nữa. Rồi đây kẻ ở người đi và đi mãi mãi, nhưng đi về đâu các bác các cụ có biết không?
Sự ra đi không hẹn ngày, và không bao giờ trở lại, gặp nhau hiện giờ rồi đây sẽ không còn gặp nhau nữa. Phải không các cụ, các bác? Vĩnh biệt các cu, các bác!!! Nhưng các cụ, các bác còn nhớ những lời Thầy dạy chăng?
Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là nơi các cụ, các bác về khi bỏ thân tứ đại này. Nơi đó mãi mãi không còn tái sinh luân hồi nữa; nơi đó không còn khổ đau nữa các cụ, các bác ạ! Nơi đó là nơi chư Phật ba đời đều an trú.
Trước kia trong những ngày từ Nam ra Bắc Thầy gặp các cụ, các bác trong chiếc thân tứ đại rồi ngày mai sẽ gặp các bác các cụ trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. Các cụ, các bác có biết không? Nếu các cụ, các bác giữ gìn được trạng thái ấy, bằng không thì Thầy trò khó gặp nhau nữa các cụ, các bác ạ!
Muốn giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự là một việc làm đâu phải dễ. Nếu không ngày từ bây giờ, lúc thân tứ đại còn khoẻ mạnh, còn sức lực, còn sáng suốt mà không lo tu tập, đợi đến khi thân tứ đại già nua, mỏi mòn, yếu đuối thì tu tập và rèn luyện làm sao kịp nữa. Lúc bấy giờ có muốn giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì giữ gìn làm sao được nữa, quá muộn rồi.
Nghiệp lực quá mạnh khi nó đến thăm viếng các cụ, các bác, lúc bấy giờ các cụ, các bác không còn sức chịu đựng được nữa, tinh thần không còn minh mẫn sáng suốt, nhiều khi nó làm cho các cụ, các bác hôn mê không còn biết gì cả, sống mà như chết. Giờ phút ấy còn gì nữa hỡi các bác các cụ? “Nghiệp tương ưng luân hồi”. Hết một kiếp người rồi mãi mãi...Ôi! Một sự luân hồi đầy khổ đau, nào ai biết phải không các cụ, các bác ?
Các cụ, các bác cứ hình dung tưởng tượng từ khi chết đến khi tái sinh nằm trong bụng mẹ là một chuỗi dài khổ đau vô cùng, vô tận của kiếp người. Chết thì trăn trở rã rời cơ thể, đau nhức, mệt nhọc... Sinh thì nằm co trong bụng mẹ, ngâm mình trong chất nhơ bẩn, uế trược, chật chội, cựa quậy khó khăn vô cùng. Đó là một cuộc tái sinh luân hồi khổ đau như vậy. Thế mà mọi người ai biết sự khổ đau này các bác các cụ ạ!
Muốn chấm dứt tái sinh luân hồi thì ngay từ bây giờ các cụ, các bác phải siêng năng tận lực tu tập, rèn luyện trước “Các chướng ngại pháp thiện hay ác, vui hay buồn đều phải buông xuống, buông xuống cho thật sách.” Nhưng phải buông xuống như thế nào đây?
Buông xuống bằng phương pháp hướng tâm, bằng phương pháp như lý tác ý, bằng phương pháp quán tư duy, bằng phương pháp nhân quả, bằng phương pháp Định Niệm Hơi Thở; bằng phương pháp tác ý tâm thanh thản an lạc và vô sự; bằng tri kiến giải thoát.
Các cụ, các bác tuổi cao thì nên dùng một câu tác ý này thì sẽ buông xuống sạch: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta cả. Tất cả đều là pháp khổ đau, phải buông xuống và chấm dứt ngay liền.” Khi tác ý như vậy xong các cụ, các bác nên tác ý tiếp để dẫn thân tâm vào chỗ không đau khổ. Nếu tâm đang bị khổ đau thì các cụ, các bác nên tác ý câu này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Tác ý xong liền đưa tay ra, vô, đếm đúng năm lần rồi lại tác ý như câu trên. Nếu thân bị bệnh đau nhức bất cứ chỗ nào, bất cứ bệnh gì thì các cụ, các bác nên tác ý câu này: “Thọ là vô thường, cái bệnh nhức đầu này ( bệnh gì nói rõ tên ra) phải ra khỏi thân ta. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Khi tác ý rồi im lặng đưa tay ra vô cho đúng năm lần rồi lại tác ý như trước. Cứ thế mà tiếp tu tập cho đến 10 phút hoặc 20 phút thì cảm thọ đau trong thân sẽ chấm dứt.
Còn khi thân không bệnh đau nhức và tâm không có chướng ngại pháp thì nên tác ý giữ tâm bất động: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp không phải là Ta, không phải của Ta, phải đi ra khỏi thân tâm Ta. Ở đây chỉ có tâm bất động mà thôi.” Khi tác ý xong ngồi im lặng lắng nghe thân tâm bất động, chỉ khi nào có niệm, có cảm thọ thì mới tác ý trở lại.
Kính thưa các cụ, các bác! Các cụ, các bác hãy nhớ: “Hiện giờ khi thân còn mạnh khỏe thì hãy cố gắng siêng năng tu tập đừng bỏ qua một thời gian nào cả, dù một phút, một giây hay một sát na ngắn ngủi, vì thời gian tuổi đời của các cụ, các bác còn lại rất quý:
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tất bóng thời gian khó hỏi han”
Hãy giao mọi việc lại cho các con cháu, chúng nó đều trưởng thành, trở thành những người gánh vác mọi việc tốt đẹp. Còn phần các cụ, các bác hãy tự lo cứu mình thoát ra biển khổ sinh tử đang nổi phong ba bão táp; hãy tự thắp đuốc lên mà đi, không ai đi thay con đường đó cho các cụ, các bác, mà hãy tự lo cho mình, vì thời gian còn lại quá ít.
Những thời gian còn lại chỉ đủ để các cụ, các bác luyện tập chuẩn bị cho mình có đầy đủ nội lực, sức tỉnh thức cao tột để khi giặc sinh tử đến thăm là sẵn sáng chiến đấu tận cùng.
Khi chuyên cần tập luyện và giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì nó có một nội lực rất mạnh, một sức đề kháng kinh khủng, nó sẽ giúp cho các cụ, các bác đẩy lùi mọi chướng ngại pháp như: bệnh tật, phiền não, tai nạn, sợ hãi, lo rầu, thương ghét, giận hờn v.v...Chính vì thế nó giúp cho các cụ, các bác giữ gìn tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ.
Khi nghiệp đến với các cụ, các bác thì chỉ cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp đều vô thường hãy đi đi! Không được ở trong thân tâm Ta nữa. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Tác ý như vậy xong cứ đưa tay ra vô với lòng kiên gan, bền chí; với ý chí dũng mãnh, đầy đủ nghị lực thì không có chướng ngại nào mà còn tồn tại trong được.
Chỉ cần tác ý ba bốn lần thì chướng ngại pháp sẽ không còn tác động vào thân tâm của các cụ, các bác nữa, nhưng các cụ, các bác phải nhớ kỹ, khi muốn đẩy lùi các chướng ngại pháp thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, vì giới luật là thiện pháp, chúng sẽ chuyển tất cả nghiệp báo khổ đau nhiều đời nhiều kiếp của các cụ, các bác. Trong khi đó để giúp giới luật chuyển biến nhân quả mau lẹ thì dùng pháp như lý tác ý như trên đã dạy. Nhờ có hai pháp:
1- Giới luật.
2- Pháp như lý tác ý.
Hai pháp này sẽ giúp các cụ, các bác đẩy lùi các chướng ngại pháp và không còn một ác pháp nào tác động vào thân tâm các cụ, các bác được.
Trước khi từ giả cõi đời này chỉ có pháp môn trên thân quán thân để nhiếp phục mọi tham ưu mới có đủ năng lực giúp các cụ, các bác thoát khổ và chấm dứt luân hồi sinh tử.
Trên thân quán thân đó là pháp trụ để nhiếp phục do sức tỉnh thức cao, còn sức tỉnh thức chưa cao như các cụ, các bác thì nên dùng pháp Như lý tác ý mà đức Phật thương xót để lại cho chúng ta ngày nay, đó là pháp diệt trừ các lậu hoặc đệ nhất.
Thưa các bác, các cụ! Các cụ, các bác hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ Kheo, có như lý tác ý, lậu hoặc chưa sinh thì không sinh, lậu hoặc đã sinh thì đoạn diệt”. Một pháp bảo quý báu vô giá không có vàng bạc châu báu ngọc ngà kim cương đem so sánh được, xin các cụ, các bác nhớ kỹ cho.
Các cụ, các bác hãy nhớ ôm chặt pháp Như Lý Tác Ý như cầm thanh gươm thư hồng kiếm trước giặc sinh tử; như Triệu Tử Long Đương Dương Trường Bản trước quân Tào trùng trùng lớp lớp mà không hề nao núng. Có như vậy mới làm chủ giặc sinh tử; có như vậy mới có ngày ca khúc khải hoàng làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Như trên đã nói, chỉ có pháp môn Như Lý Tác Ý này giúp các cụ, các bác thoát khổ đau và chấm dứt luân hồi. Xưa kia vì thương xót chúng sanh nên Ngài dạy cho chúng ta pháp môn mầu nhiệm này như cây chổi thần để hằng ngày quét sạch tất cả các ác pháp khiến tâm chúng ta không còn lậu hoặc. Đây là pháp ngăn ác diệt ác pháp tuyệt vời; đây là thanh gươm thư hùng kiếm ngăn giặc sanh tử giữ vững thâm tâm như tường đồng vách sắt; đây là chiếc phao các cụ, các bác hãy ôm cho thật chặt, dù cho sóng to gió dữ của nghiệp thân như thế nào cũng không được bỏ phao, phải giữ gìn không được rời tay để đến bờ bên kia. Nếu không giữ gìn chặt buông pháp tức là buông phao, các cụ, các bác sẽ chìm xuống đáy biển sanh tử luân hồi mãi mãi muôn đời muôn kiếp. Từ đây Thầy trò không còn gặp lại nhau nữa. Phải không các cụ, các bác?
Được sinh làm người là khó, được gặp chánh pháp lại còn khó hơn!
Hôm nay các cụ, các bác đã hội đủ nhân duyên, nên mới gặp được cả hai? Các cụ, các bác đừng dễ duôi, phải siêng lo tu tập rèn luyện thân tâm để thoát khỏi vòng tay sinh tử luân hồi.
Các cụ, các bác có biết chăng? Thế giới này là thế giới của nhân quả, vì thế, nhân quả luôn luôn làm chủ, nhân quả luôn luôn sai khiến con người và vạn vật, chúng thường giam cầm và biến mọi người mọi vật thành những nô lệ. Vậy các cụ, các bác làm sao thoát ra khỏi ngục tù và thoát kiếp nô lệ này?
các cụ, các bác có thấy chăng? Chúng bảo các cụ, các bác giận hờn là các cụ, các bác liền giận hờn; bảo các cụ, các bác tham muốn là các cụ, các bác liền tham muốn; bảo các cụ, các bác lo rầu, phiền não là các cụ, các bác liền lo rầu phiền não; bảo các cụ, các bác đau bệnh là các cụ, các bác liền đau bệnh; bảo các cụ, các bác chết là các cụ, các bác liền chết...
Những điều này còn ai là không biết. Phải không các cụ, các bác?
Người đời vô minh, có mắt như mù, có tai như điếc, tâm hồn điên đảo, cứ mãi khư khư cho rằng thân tâm này là Ta là của Ta; cha mẹ vợ con anh chị em là của Ta; nhà cửa, của cải, tài sản, danh vọng v.v..là của Ta.
Mọi người điên đảo đã hiểu sai lầm, vì thế, muôn đời ngàn kiếp phải chịu khổ đau. Các cụ, các bác có biết không?
Thân tâm này vô thường, luôn thay đổi liên tục; mới trẻ đó lại già rồi; mới hôm qua mạnh khỏe, nay đã đau ốm bệnh tật; mới hôm qua còn sống, nay đã chết rồi. Vì thân tâm này vô thường, nó là nơi tập trung muôn sự khổ đau; là ổ bệnh tật. Do đó thân tâm này không phải là của các cụ, các bác; không phải của các cụ, các bác thì dính mắc chấp đắm nó làm gì?. Nó cũng không phải là của các cụ, các bác thì bảo vệ, nuôi dưỡng, giữ gìn nó làm gì?
Các cụ, các bác nên hiểu: trước giờ phút lâm chung thân tâm này tan rã, các cụ, các bác đừng sợ hãi, gan dạ, kiên cường, dù cơn đau như ai cắt ruột, như ai banh da, xẻ thịt cũng chẳng hề dao động, phải bình tĩnh sáng suốt trước giờ ra đi; trước lúc chia tay với mọi người để đi vào lòng đất; phải nhớ dùng pháp Như Lý Tác Ý để giữ gìn thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Thầy trao cho các cụ, các bác thanh gươm thư hùng kiếm chém đá như chém bùn. Các cụ, các bác còn nhớ không?
Hãy nắm chặt trong tay, đừng bao giờ lìa xa nó các cụ, các bác ạ! Lúc cận tử nghiệp kề bên thì các cụ, các bác luôn luôn nhớ câu tác ý: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, không được dao động, không được sợ hãi, phải bình tĩnh. Tất cả các pháp trên thế gian này đều vô thường không có pháp nào là Ta, là của Ta cả. Hãy buông xuống đi! Buông xuống đi! Buông xuống cho thật sạch.”
Trên giường bệnh hoặc trong cơn hoạn nạn nào các cụ, các bác nên nhớ tác ý câu trên, nó sẽ giúp các cụ, các bác vượt qua biển cả sóng to, gió lớn, bão tố ầm ầm v.v...Trong lúc này chỉ duy nhất còn có một tâm thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi. Đó là chiếc phao cuôi cùng các cụ, các bác không được bỏ, nếu bỏ nó thì muôn đời ngàn kiếp không bao giờ còn gặp Phật, gặp Thầy nữa, thì sáu nẻo luân hồi khổ đau sẽ đón rước các cụ, các bác.
Thăm và chúc các cụ, các bác đầy đủ gan dạ vững mạnh, lúc nào tâm cũng thanh thản an lac và vô sự.
Chơn Như ngày 27 tháng 8 năm 2006
Thầy của các cụ, các bác.
(Ngày 30 tháng 9 năm 2006)
Kính gửi: Các con thân mến đang tu tập tại Tu Viện Chơn Như.
Các con thân thương! Thầy xin gửi lời thăm và chúc các con tu tập chứng đạo trong thời gian ngắn nhất giống như Phật chỉ có 49 ngày thành đạo.
Ngày tháng trôi qua quá nhanh, chỉ còn hơn một tháng rưỡi nữa là các con mãn khóa tu. Khi mãn khóa tu tập các con phải đứng lớp thay Thầy dạy mọi người tu tập.
Nếu đủ duyên thì đầu tháng 10 Âm lịch Thầy sẽ mở lớp Thọ Bát Quan Trai. Đầu tháng 11 Âm lịch sẽ mở lớp Thọ Tam Quy và lớp Thọ Ngũ Giới. Mỗi lớp phải có người đứng dạy, nữ dạy theo nữ, nam dạy theo nam. Trong tu viện đã có hai phòng học cho nam và nữ riêng biệt, vì thế rất tiện cho các con dạy.
Nhân duyên đã đến lúc các con đền đáp công ơn Phật, công ơn Thầy, công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục, công ơn đàn na thí chủ. Vì lợi ích, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa khoa học của con người trên hành tinh này nên cần phải có đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người, vì sự lợi ích, vì sự an vui của nhân loại mà các con hãy đứng lớp dạy thay Thầy.
Thầy đã già rồi chỉ còn ẩn tu và soạn viết sách đạo đức cho các con mà thôi.
Hiện giờ Thầy biết các con đều có đủ kinh nghiệm và kiến thức đứng dạy các lớp học và tu tập đã nói ở trên. Các con cứ dựa theo giáo trình Thầy đã soạn thảo “Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ” thì sự dạy tu tập không có khó khăn.
Như các con đã học qua lớp Chánh tri kiến. Lớp Chánh tri kiến là triển khai tri kiến giải thoát của các con, nó mở màn cho một chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Tri kiến giải thoát tức là thắng tri trong Phật giáo. Thắng tri tạo thêm một sức mạnh cần thiết để con người làm chủ được thân tâm, đoạn tận tâm tham, sân, si đưa đến chấm dứt đau khổ. Với thắng tri như vậy tâm sinh nhàm chán ly tham, từ bỏ, đoạn diệt, và cuối cùng đưa đến giải thoát hoàn toàn theo tiến trình như đức Phật đã dạy: “Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc làm nên đã làm, nay không còn trở lui trạng thái này nữa”. (Tương Ưng IV, 29).
Đọc đoạn kinh này các con thấy sự tu tập chứng đạo và đứng lớp dạy cho mọi người đâu có khó khăn. Từ khi đức Phật thuyết giảng Tứ Diệu Đế để khai ngộ và đi đến chứng quả A La Hán cho năm anh em Kiều Trần Như và tất cả gia đình, bạn bè của Yasa là 60 người. Khi được khai ngộ đến chứng quả A La Hán chỉ có một thời gian ngắn, điều này không thể ai ngờ được, nhưng đó là một sự thật, lịch sử còn ghi chép rõ ràng, trong kinh sách Nguyên thủy.
Khi tu tập chứng đạo xong, đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ khưu rằng: “Này các Tỳ khưu, Ta đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các Tỳ khưu, các ngươi cũng đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các Tỳ khưu, hãy cất bước du hành vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa, vì sự lợi ích, sự an vui của chư thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung một (nơi). Này các Tỳ khưu, hãy thuyết giảng giáo pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ”.
Thầy xin nhắc thêm các con, hôm nay các con cũng vậy, khi đã tu học với Thầy có khác gì các Tỳ khưu ngày xưa tu học với đức Phật. Họ chỉ nghe Phật thuyết giảng xong, thâm nhập pháp liền buông sạch, trong vòng hơn một tháng là chứng đạt chân lí. Khi chứng đạt chân lí họ vâng lệnh Phật đã chia tay mọi người để đi giáo hóa chúng sanh mỗi nơi.
Hôm nay các con cũng vậy, người nào đã làm chủ tâm mình; đã hết tham, sân, si; đã bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; đã tâm không phóng dật thì hãy thay Thầy đứng lớp dạy người tu tập. Đứng lớp dạy người tu tập là phải theo thứ lớp mà dạy đạo.
* Thứ nhất là phải dạy giới luật (ăn, ngủ, độc cư, nhẫn thục, tùy thuận, bằng lòng).
* Thứ hai là phải dạy tỉnh giác (đi kinh hành).
* Thứ ba là phải dạy xả tâm (Định Vô Lậu, tri kiến giải thoát).
Ba pháp này được xem là Giới, Định, Tuệ. Nếu bỏ giới mà tu tập Định, Tuệ còn gọi là Định Tuệ song tu thì cũng giống như người bắt rắn độc lại nắm bắt ở lưng hay ở đuôi. Con rắn ấy có thể quay đầu cắn người ấy nơi tay hay nơi một thân phần khác, và người ấy có thể bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Vì bắt rắn một cách sai lạc. Rút ra từ những kinh nghiệm tu tập bản thân của các con. Hầu hết các con ở đây tu hành không chứng đạo là do phá giới độc cư chỉ tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu.
Vì thế, mà có một số người tu tập lạc vào tưởng uẩn gần như muốn điên, do các con xem thường giới luật mà tu tập sai pháp nên mới xảy ra như vậy.
Nếu các con cần lưu ý một chút là sự tu chứng đạo các con rất dễ dàng.
Sóng gió có xảy ra mới thấy giá trị một ngày ở trong Tu Viện, cho nên mọi người không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là Thầy rất tiếc, tiếc cho các con đã phí thời gian tuổi đời không còn nhiều nữa.
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng,
Tấc vàng tìm được không gì khó,
Tấc bóng thời gian khó hỏi han.”
Các pháp đều vô thường, tất cả những gì đã xảy ra đều bỏ xuống hết, có pháp gì bền chắc đâu mà các con phải phóng dật; có pháp nào của các con đâu mà các con phải quan tâm. Chỉ có bây giờ, sống ngay trong hiện tại đúng giới luật, tu tập đúng pháp thì sẽ chứng ngay liền, không mất thời gian.
Ngộ và thâm nhập là hai phần rõ rệt, các con nên lưu ý: có người ngộ mà chưa thâm nhập, nên phải tu tập, nhưng tu tập phải sống đúng giới luật, tu phải đúng pháp từ thấp đến cao thì mới thâm nhập; có người ngộ và thâm nhập ngay liền là người chứng đạo không cần tu. Ngộ mà chưa thâm nhập là ngộ suông, đời còn tiếc chưa dám buông xả sạch; ngộ mà thâm nhập là người thấy các pháp vô thường, khổ là thật nên buông xả sạch.
Ở đây, các con chưa hiểu điều này, nên ngộ các pháp vô thường nhưng không thâm nhập vô thường, vì thế không chứng được đạo. Không chứng được đạo rồi các con cứ nghĩ rằng ngộ là phải tu, tu là vất vả khó khăn.
Vậy phải cố gắng lên các con ạ! Chứng đạo không có khó khăn, người giữ giới luật nghiêm chỉnh, tâm sẽ không phóng dật là chứng đạo dễ dàng.
Các con có đọc “Những Chặng Đường Tu Tập Của Người Cư Sỉ chưa?”
Nếu đã đọc xong, chỗ nào chưa thông thì Thầy sẽ hướng dẫn thêm, còn sự dạy người tu tập, điều cần thiết ở đây là dạy kinh nghiệm thực hành của các con đã tu tập, chứ không phải dạy lý thuyết suông như giảng kinh thuyết pháp. Trong khi đứng lớp dạy học cũng là đang ở trên tâm bất động. Tâm bất động trong cảnh tịnh, thì tâm thường an trú trên thân; tâm bất động trong cảnh động, thì tâm thường an trú trong tri khiến giải thoát (thắng tri); tâm bất động trong các cảm thọ thì tâm thường an trú trong hơi thở.
Người mới ngộ và mới chứng đạt chân lí đều đi ra giảng dạy cho mọi người tu tập đều tốt cả, chứ không sợ chướng ngại gì cả. Và chính đi dạy cũng là điều cần thiết để thấy tâm mình chứng đạo thật sự hay chỉ là bị ức chế tâm.
Thầy mong rằng, tuy không có mặt của Thầy tại Tu Viện, nhưng các con sẽ rống lên tiếng rống sư tử, dựng lại những gì của Phật giáo đã bị dìm mất từ ngày xưa.
Ngay bây giờ, các con hãy chuẩn bị NGƯỜI ĐỨNG LỚP DẠY ĐẠO, đem kinh nghiệm tu hành của mình ra dạy, theo giáo trình mà Thầy đã soạn sẵn.
Các con tu tập đã có năng lực làm chủ tâm mình, giữ tâm bất động trước mọi hoàn cảnh; giữ tâm bất động trước các cảm thọ và đẩy lui các bệnh khổ; giữ tâm bất động trước sự sống chết không hề lo lắng và sợ hãi, tập tịnh chỉ hơi thở làm chủ sự sống chết như cô Huệ Ân.
Các con đã làm chủ được như vậy thì đó là một sự lợi ích rất lớn cho đời sống làm người của các con. Sau năm tháng tu tập làm chủ được như vậy, hôm nay các con xứng đáng đứng ra dạy mọi người tu tập, truyền lại những kinh nghiệm làm chủ thân tâm mình không phải ở lý thuyết suông mà cả một sự thực hành.
Hãy mạnh dạn đứng lớp thay Thầy dạy đừng sợ mình dạy không được. Dạy tu tập rất dễ dàng vì dạy trong kinh nghiệm tu hành của mình chứ không phải dạy lý thuyết suông theo kinh sách mà phải soạn thảo bài vỡ.
Trường hợp nhập định an trú và ngủ có khác nhau, nếu người không tu tập hoặc tu tập mà chưa nhập vào sức tỉnh thức cao thì khó phân biệt người ngủ và người an trú. Người an trú thì hơi thở nhẹ nhàng không phát ra tiếng động, thân bất động không giựt mình, còn người ngủ hơi thở phát ra tiếng động to như tiếng ngáy, tiếng động nhỏ nhiệm, gần như không nghe. Cho nên thấy ai ngồi bất động đều cho là ngủ là sai
Người an trú đúng pháp thì đầu không cúi, người an trú không đúng pháp thì rơi vào xúc tưởng hỷ lạc đầu hơi cúi, lưng thụng.
Các con hãy tu tập trong bốn oai nghi để xả tâm rốt ráo là tốt nhất. Các con tu tập chưa có Bốn Thần Túc nên vừa dạy và vừa tiếp tục giữ tâm bất động thì lần lượt Bốn Thần Túc sẽ xuất hiện.
Người đứng lớp dạy đạo giới luật phải nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Đó là bài học thân giáo sống động nhất của một người thầy. Các con nên lưu ý, nếu không đứng lớp thì thôi mà đã đứng lớp thì thân giáo là bài học quan trọng.
Thăm và chúc các con giữ tâm không phóng dật thì sẽ chứng đạo ngay liền, để xứng đáng là một người Thầy đứng lớp.
Thầy của các con
(Ngày 19 tháng 9 năm 2005)
Kính gửi: Quý Phật tử ở khắp mọi miền đất nước Việt Nam cùng quý Phật tử ở hải ngoại
Kính thưa quý vị! Từ lâu Thầy có một tâm nguyện muốn thành lập một khu an dưỡng từ thiện để giúp đỡ mọi người không phân biệt già trẻ, Phật tử, hay không Phật tử đều được về đó nghỉ ngơi, an dưỡng, dù chỉ trong một tuần lễ. Một tuần lễ tuy thời gian quá ngắn ngủi, nhưng ở đó quý vị được hướng dẫn học tập đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, không làm khổ người và khổ cả hai .
Nơi đó còn có một khu điều dưỡng hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn, đó là một bệnh xá tư từ thiện do một số y bác sĩ Việt Nam và ngoại quốc giàu lòng thương người đảm nhận để giúp đỡ cho những tu sĩ Phật giáo, họ đã bỏ hết cuộc đời vào chùa tu hành, chỉ còn ba y, một bát, sống đời độc thân, không nhà cửa, không gia đình.
Bệnh xá còn giúp đỡ cho quý Phật tử trong các nhóm từ thiện cùng như những người nghèo đều có thể đến đó điều trị mà ở đó không nhận một chi phi nào cả.
Những người tu sĩ, những Phật tử và những người nghèo khi có bệnh tật là một đều đau khổ nhất, vì tiền bạc không có. Nhất là tu sĩ vì họ là những người sống độc thân tu hành trong các chùa, các tu viện. Khi đã đi tu mà bệnh đau lại đi nằm bệnh viện là một điều rất ngại ngùng, nhất là không tiền khi gặp những bệnh ngặt nghèo. Còn trở về gia đình nhờ con cháu làm khán hộ thì không thể được. Phải không quý Phật tử?
Muốn thành lập được một khu an dưỡng như vậy thì phải do quý Phật tử khắp mọi miền, mọi nơi. Nhất là những Phật tử Việt Nam phải đoàn kết, chung lưng đậu cật thành lập nhiều hội từ thiện từ mọi nơi trong nước và hải ngoại để giúp nhau vượt khó trong mọi hoàn cảnh, để an ủi cho nhau khi bệnh tật và tai nạn khổ đau .
Nhóm Phật tử nơi nào điều lấy tên địa phương mà đặt tên cho hội từ thiện của mình.
Ví dụ: 1/ Hội từ thiện Nguyên Thủy Hà Nội.
2/ Hội từ thiện Nguyên Thủy TPHCM
3/ Hội từ thiện Nguyên Thủy An Giang.
4/ Hội từ thiện Nguyên Thủy Hải Phòng
5/ Hội từ thiện Nguyên Thủy Cam Ranh
6/ Hội từ thiện Nguyên Thủy Nghệ An
7/ Hội từ thiện Nguyên Thủy Hà Tỉnh
8/ Hội từ thiện Nguyên Thủy Mỹ
9/ Hội từ thiện Nguyện Thủy Pháp
10/ Hội từ thiện Nguyên Thủy Uc ....
Tất cả các hội từ thiện này sẽ họp nhau thành lập Khu An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc để giúp đỡ Tăng, Ni và cư sĩ trong nước cũng như ở nước ngoài, để an tâm tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc là nơi để Tăng Ni và cư sĩ Phật tử về đó an dưỡng tinh thần và cơ thể.
Thứ nhất về tinh thần thì được học tập và tu luyện đạo đức làm người sống không còn làm khổ mình khổ người theo tám lớp học của Phật giáo (Bát Chánh Đạo).
Thứ hai về cơ thể thì được học tập và tu luyện các phương pháp Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ để nhiếp phục những đau khổ trên thân tâm. Có nghĩa là đẩy lui bệnh khổ nơi thân và sự ưu phiền nơi tâm, khiến cho thân tâm được an ổn, khi đứng trước ác pháp, bệnh đau và sự sống chết không còn lo lắng sợ hãi nữa. Đó là về pháp môn để đối trị những sự đau khổ của kiếp làm người mà không ai tránh khỏi.
Về vật chất, Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc lại còn có một khu điều dưỡng để trị bệnh cho Tăng, Ni và cư sĩ khi tu tập chưa đủ đạo lực để nhiếp phục bệnh khổ làm chủ sự sống chết.
Khu điều dưỡng là để giúp cho Tăng, Ni và cư sĩ an tâm tu tập không còn lo sợ khi có bệnh tật xảy đến ..
Tâm nguyện của Thầy là như vậy, nhưng có thành công được là phải hội đủ phước lành của nhiều người và cần phải có sự đoàn kết, chung lưng đậu cật của mọi người. “Một cây làm chẳng nên non, ba cây dụm lại nên hòn núi cao”.
Sức mạnh đoàn kết của mọi người không có việc gì mà không làm nên, dù cho lắp biển dời non. Vậy Thầy xin kêu gọi quý Phật tử hãy vì nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo, phải được phổ cập đến với loài người để đem lại sự sống bình an yen vui cho hành tinh này và Phật giáo phải được mãi mãi trường tồn với nhân loại.
Giờ này Thầy chỉ ước mong các Phật tử hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Thầy để đem lại sự lợi ích chung cho tất cả tu sĩ và cư sĩ hiện giờ và các thế hệ con cháu của chúng ta mai sau, để có chỗ an dưỡng tinh thần và cơ thể. Đây là một việc làm hết sức quan trọng cho loài người biến cảnh thế gian thành cảnh giới Thiên đàng, Cực lạc.
Với việc làm này còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ thử thách, nếu chúng ta không bền chí và không một lòng, một dạ, thiếu sự đoàn kết từ hội từ thiện này đến nhóm từ thiện khác thì khó mà thành công.
Vậy một lần nữa Thầy kêu gọi các nhóm Phật tử trong nước cũng như ở hải ngoại hãy vì lợi ích cho bản thân mình, cho gia đình, cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước quê hương của mình, cho nhân loại trên hành tinh này mà hãy cùng nhau tay nắm chặt bàn tay, kết vòng tay yêu thương để bắt đầu tiến hành công việc ngày một tốt hơn.
Thăm và chúc quý Sư, Thầy Tăng, Ni và quý Phật tử ở khắp mọi miền đất nước cũng như ở bốn phương được mạnh khỏe an khương .
Kính ghi
Kính gửi: Tuệ Hạnh
1- Khi biết Phật pháp là đạo đức nhân bản – nhân quả, nên ai cũng muốn những người thân của mình đều nương vào Phật giáo để sống giới luật, đó là để chuyển hóa nhân quả nghiệp báo khổ đau, nhưng đạo Phật là đạo tự lực không ai cứu ai được, nhưng con có lòng thương những người thân của con thì nên khuyên họ quy y thọ giới, còn nếu họ không tự nguyện xin quy y mà con xin quy y thay thế cho họ rồi họ không giữ gìn giới luật, không dứt trừ nghiệp ác thì họ sẽ làm cho Phật giáo mất uy tín thì tội ấy sẽ về con, còn người thân con tự nguyện quy y mà không sống không giữ giới thì tội họ lãnh đủ.
2- Nếu Phật tử quy y thọ ngũ giới mà không giữ gìn năm giới nghiêm túc thì bị tội phỉ báng Phật pháp, quy y mà không thành đệ tử Phật.
3- Pháp danh con có nghĩa là trí tuệ và đức hạnh: Tuệ là trí tuệ; Hạnh là đức hạnh. Thầy lấy lời Phật dạy mà đặt pháp danh con: “Trí tuệ ở đâu là đức hạnh ở đó; trí tuệ làm thanh tịnh đức hạnh, đức hạnh là thanh tịnh trí tuệ”. Thầy đặt pháp danh con là muốn con sống giới luật nghiêm túc như Phật.
4- Muốn tu hành để chuyển đổi nhân quả nhất là về nam nữ gia đình phải mạnh dạn dứt khoát thẳng thắn, vì cuộc đời con người vô đạo đức, vũ phu thường hay lừa đảo, chửi mắng đánh nhau, phải cảnh giác.
5- Trong thời đức Phật không có kinh KIM CANG, kinh Kim Cang là kinh các Tổ thuyết. Kinh Kim Cang có nghĩa là lời dạy quý báu như hột soàn (Kim Cang có nghĩa là hột soàn) đụng đến vật gì thì vật ấy tan nát. Kinh này lý luận lý thuyết suông không thực hành được (Kinh nói láo)
6- Do tâm tham vọng của con người ai cũng muốn làm bá chủ vì thế mới chia Phật giáo ra Nam Tông, Bắc Tông, Đại thừa, Tiểu thừa
7- Ý thức phân biệt là có đối tượng, còn tưởng thức phân biệt là không có đối tượng.
Đi kinh hành có vọng tưởng khởi niệm là ý thức tưởng, còn đi kinh hành có lực đẩy hay có trạng thái hỷ lạc là hành tưởng và xúc tưởng hỷ lạc.
8- Bố thí Ba La Mật là bố thí mà không biết mình bố thí đó lối lý luận tánh KHÔNG của trí tuệ Bát Nhã. Kinh này dạy cho những người ở thế giới hư ảo chứ không dạy cho con người ở thế gian này.
9- Phật không có định Kim Cang, chỉ có Tổ mới có Kim Cang định, Định Kim Cang là định tưởng chứ không phải Tứ Thần Túc.
10- Thời đức Phật không có ông Duy Ma Cật, ông Duy Ma Cật chỉ là một nhân vật huyền thoại của Đại Thừa. Các Tổ dùng nhân vật này để lật đổ Phật Thích Ca Mâu Ni thay đức Phật Di Lạc vào ngôi giáo chủ.
11- Đó là những điều tưởng của Đại Thừa, ông Xá Lợi Phất không có móc mắt bố thí.
12- Con hãy nói với cô Liên Châu khi bệnh đau trở lại nên ngồi bán già nhiếp tâm an trú trong cánh tay đưa ra đưa vô với câu tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra” mỗi tay đưa ra đưa vô 5 lần rồi thay tay khác tu tập như vậy từ 10 phút đi nghỉ, nếu có sức khỏe thì tu tập đến 30 phút. Con nên khuyên cô giữ gìn tinh thần đừng sợ hãi, đừng dao động, và hướng dẫn cô cho cô biết rõ các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, không có pháp nào là cô, là của cô, là bản ngã của cô. Tất cả đều do nhân quả duyên hợp mà có sinh, có diệt. Con nhớ thay Thầy hướng dẫn và an ủi cô Liên Châu để cô không còn lo lắng, sợ hãi rất tội nghiệp, trong khi Thầy ẩn bóng.
13- Liên Hạnh, con hãy giữ gìn tâm trong sạch đúng năm giới của Phật dạy: 1- Không giết hại và ăn thịt chúng sinh; 2- Từ bỏ không lấy vật không cho; 3- giữ tâm thanh tịnh trong sạch không tà dâm; 4- không nói dối; 5- Không ham mê bài bạc cá cược rượu chè hút thuốc lá thuốc lào. Thì sẽ chuyển hết những gì người khác nghi ngờ con
14- Xá Lợi Phất đã vào Niết Bàn trước Phật thì đâu còn tái sinh nữa mà nói là tiền kiếp của NC. NC tự xưng mình là Xá Lợi Phật. Một vị Thánh Tăng trong thời đức Phật coi chưng mang tôi phạm thượng với bậc Thánh A La Hán. Xưng như vậy tôi lắm con ạ!
Thăm và chúc con tu tập xả tâm tốt
Thầy của con
Đây là lớp học đạo đức tình thương của Thầy triển khai nên lúc nào Thầy cũng ở sau lưng để dạy dỗ các con, cái suy nghĩ của con không đúng tinh thần đạo đức ở trong lớp học này, tu sinh trong lớp học đạo đức là những người đang ươm giống đạo đức, có đâu lại có những tư tưởng sân giận, nếu sân giận thì phải biết xả tâm, xả tâm là một bài học đạo đức rất tuyệt vời.
Qua bài học đạo đức về chú bé ném đá, con không hiểu phát biểu ý kiến sai, Khi người tài xế bước xuống xe quá tức giận nên nắm cổ áo chú bé để đánh thì chú bé sợ hãi phải khóc chứ sao? Lúc bây giờ chú bé vừa khóc vừa nói thì bác tài xế không đánh nhưng sửng sờ. Cho nên muốn phát biểu một điều gì cần phải hiệu rõ, Chính con hiểu tâm con qua tâm niệm của người khác nên thấy mọi người không thiện. Vì thấy mọi người không thiện, nên làm tâm con khổ.
Không ai nổi nóng, họ chỉ thấy con nói sai ý bài học mà phát biểu chỉnh đốn sự hiểu sai của con mà thôi.
Người đứng lớp dù có tài mà học viên không tin tưởng thì cũng đành chịu thôi. Huống là thầy Chơn Thành chỉ tập sự đứng lớp dạy được như vậy cũng rất đạt chất lượng.
Về giới luật và các pháp Yết Ma các con chưa thông suốt còn phải học nhiều nữa. Chỉ đọc sơ sơ giới cấm mà nghĩ như thế này, như thế khác là không hiểu gì hết. Cái sai của các con là hiểu lầm lớp học giới luật và lớp học kinh điển. Hai lớp học không giống nhau, vì giới phải dạy đúng giới, kinh phải dạy đúng kinh. Qua những bức thư các con gửi Thầy thì trình độ kinh và giới của các con còn phải học nhiều hơn nữa. Tu thì chẳng đến đâu mà học thì chưa thông suốt thật tội cho các con lắm
Giảng viên chỉ có bổn phận là dạy theo đúng giáo án chứ không được dạy ngoài giáo án, đó là lớp học sơ cấp của giới luật đức hạnh NGŨ GIỚI bằng cách đưa ra một mẫu chuyện đạo đức và đặt nhiều câu hỏi quanh mẫu chuyện đó để bắt buộc học viên động não nhờ đó mới thấm nhuần đạo đức. Đó là chương trình giáo dục đào tạo.
Những câu hỏi và những ý kiến ngoài bài học với mục đích xây dựng học viên biết cách xưng hô chào hỏi, đứng, ngồi trả lời những câu hỏi cho có nề nếp đạo đức. Lỗi này là do Thầy không chuẩn bị trước cho các con, nhưng nó là bài học đạo đức khó quên. Cái hay nhất là tinh thần đóng góp đạo đức bằng mọi ý kiến của tu sinh xây dựng lớp học
Thời gian tu học mà tất cả tu sinh xin thêm 30 phút thì giảng viên phải chấp nhận, nhưng một người xin thì không được.
Câu hỏi phải rõ ràng, thì câu trả lời mới xác định đúng, chứ hỏi chung chung thì không thể trả lời đúng được, thầy Chơn Thành trả lời ở góc độ trong tu viện chứ không phải trả lời ở ngoài tu viện, Vì đây là một bài học đạo đức trong giáo án mà các tu sinh chưa học đến.
Thầy Chơn Thành người đang tập đứng lớp chứ chưa phải là giảng viên, vì giảng viên phải biết biên soạn giáo án của lớp mình,
Thầy Chơn Thành còn đang tập sự đứng lớp nên ngồi ngang như các tu sinh vì Thầy còn đang tu học chứ chưa phải là tu xong.
Hình Thầy trong lớp học mới là giảng viên chánh thức nên được ngồi trên cao hơn các tu sinh. Đó là đúng theo tinh thần kính trọng Phật. Phật thường ngồi cao hơn chúng tỳ kheo. Sự xưng hô giữa giảng viên và học viên Thầy có gửi cho các con một bức thư rồi.
Tất cả những gì không hiểu thì các con có quyền thưa hỏi, một người hỏi là giải quyết cho bao nhiêu người, vì lợi lạc Thầy cho phổ biến những bức thư của Thầy gửi cho các con làm lợi lạc cho mọi người, có gì mà các con sợ, vì các con còn đang tu học chứ đâu phải tu xong, nếu tu xong các con có cần gì thưa hỏi.
Thầy của các con
(Ngày 23 tháng 9 năm 2006)
Kính gủi: Quý Phật tử Hà Nội, quý Phật tử khắp mọi miền đất nước, quý Phật tử ở nước ngoài, cùng quý Thầy, quý Cô và quý nam nữ Phật tử tại Tu Viện Chơn Như.
Kính thưa quý vị! Thầy xin gửi lời thân thương đến thăm và chúc quý vị dồi dào sức khỏe. Mong rằng quý vị luôn nhớ mãi những lời Thầy dặn bảo: “Chỉ có tâm thanh thản, an lạc và vô sự trước mọi nghịch cảnh, đó là cứu cánh; là giải thoát; là đạo đức thương mình, thương người”.
Đạo Phật chỉ có tâm bất động, không phóng dật theo các ác pháp và chấm dứt chạy theo lòng ham muốn của mình. Người hiểu biết và thâm nhập đạo Phật như vậy thì đâu có gì tu tập nhiều; thì đâu có gì tu tập khó khăn, mệt nhọc; thì đâu có pháp gì làm chướng ngại thân tâm họ được. Do đó sự chứng đạo dễ dàng như trở bàn tay. Có phải vậy không thưa quý Phật tử?
Vì thế trong thời đức Phật người ta chỉ nghe Phật thuyết pháp xong liền chứng đạo, điều đó là một sự thật, nhưng nghe nói đến chứng đạo nhanh chóng như vậy thì mọi người cho là vô lý. Chứng đạo sao mà dễ dàng đến như thế? Có phải đây là sự tưởng tượng không?
Nhưng sự thật chứng đạo theo Phật giáo dễ dàng như vậy. Chỉ vì người thời nay hiểu lời Phật dạy một cách sai lệch, xem sự tu tập rất khó khăn như các pháp môn của ngoại đạo, phải tu tập hành hạ thân tâm của mình quá nhiều. Đó là quý vị chịu ảnh hưởng giáo pháp của kinh sách phát triển.
Pháp Phật thì khác, tu tập không có khó khăn, không có mệt nhọc. Người nào không nghe pháp thì thôi mà đã nghe pháp thì có giải thoát ngay liền như lời đức Phật đã dạy: “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy”. Vậy thấy cái gì?
Ở đây, chúng ta phải hiểu ý nghĩa đến để mà thấy. Đến để mà thấy có nghĩa là chúng ta phải có lòng tin trọn vẹn với lời dạy của đức Phật, cho nên khi nghe đức Phật thuyết pháp xong là chúng ta hiểu biết và thâm nhập lời Phật dạy là đúng sự thật 100%. Biết đúng sự thật 100% thì liền buông xả tất cả các ác pháp, như các quan sứ thần đến thỉnh Phật về thăm cố đô, khi nghe Phật thuyết pháp xong họ liền buông xả sạch và xin Phật xuất gia.
Khi buông xả tất cả ác pháp thì có sự cảm nhận giải thoát ngay liền. Đó là lời nói không dối người. Còn lòng tin không trọn vẹn nên không xả tâm sạch. Không xả tâm sạch thì dù các con có tu tập bao nhiêu công lao, bao nhiêu năm tháng thì cũng khó mà chứng đạo được. Cho nên, chỉ có lòng tin là mạnh nhất; là buông xả dễ dàng.
Tin mà không dám buông xả, đó là chưa có lòng tin. Các con có biết điều này không? Khi nghe pháp xong liền buông xuống sạch, không động tâm trước bất cứ một ác pháp nào, dù là một cơn đau sắp chết cũng không hề sợ hãi, cũng không hề dao động tâm một chút nào cả. Có như vậy thì sự chứng đạo ngay liền tại chỗ đó, chứ các con còn đòi hỏi chứng đạo chỗ nào nữa.
Đạo Phật chỉ biết sống thấy lỗi mình, đừng thấy lỗi người và lúc nào cũng bất động tâm. Bất động tâm là chứng đạo, là giải thoát. Như vậy chứng đạo theo Phật giáo các con có thấy khó khăn không? Bây giờ các con có hiểu chưa? Có thấy bất động tâm là quan trọng không? Có thấy tâm không phóng dật là chứng đạo. Các con có hiểu chưa? Chứng đạo mà ngồi thiền như cóc là chứng đạo theo tà giáo của Bà La Môn.
Bao nhiêu câu hỏi của Thầy trên đây mục đích là để làm sáng tỏ tri kiến hiểu biết của các con về sự thật chứng đạo của Phật giáo dễ dàng như vậy. Thầy đã cố gắng hết mình đưa vào trí hiểu biết của các con, thế mà các con còn ngơ ngơ như người từ cung trăng mới xuống thế gian. Một lần nữa các con có hiểu những lời Thầy dạy chưa? Các con theo Phật giáo là để cầu giải thoát, chứ đâu phải theo Phật để cầu thần thông. Các con hãy buông xuống những thần thông hết đi. Đạo Phật không có dạy người tu thần thông các con ạ! Đạo Phật chỉ dạy cho con người biết các ác pháp để buông xuống, chỉ có buông xuống các ác pháp là giải thoát, là hết khổ đau. Có đúng như vậy không các con?
Khi tu tập xong Thầy có những ước nguyện là dựng lại chánh pháp của Phật giáo; là làm sống lại con đường giải thoát của đạo Phật; là đem lại ích lợi và hạnh phúc cho con người; nhất là đem lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Đó là điều Thầy biết chắc và ước mong như vậy, nhưng khuyên dạy mọi người thì ít ai làm theo, nên Thầy rất mệt mõi.
Thầy quyết tâm không bỏ các con, vì các con quá khổ, nước mắt của các con đã đổ xuống cho cuộc đời này nhiều lắm, không có Thầy các con còn biết nương tựa vào đâu, Thầy là nguồn an ủi của các con; Thầy là ngọn đuốc soi đường cho các con đi trong đêm tối mịt mù, Mất Thầy các con như gà con mất mẹ. Phải không các con?
Khi Thầy bắt tay vào làm việc thì gặp biết bao nhiêu là gian nan; biết bao nhiêu là sóng gió phủ phàn. Các con có biết không? Thầy chỉ biết thương và tha thứ, không biết giận hờn, oán trách, nói xấu một ai hết, vì tất cả các con đều vô minh, đều đáng thương cả.
Thầy dạy các con đoàn kết, các con lại không nghe, mãi tranh chấp hơn thua, những điều này khiến cho Thầy quá mệt mõi. Đối với Thầy chỉ có con đường vượt qua mọi thử thách, mọi gian lao, chứ không chùng bước. Nhưng đứng trước mọi nghịch cảnh Thầy không tranh chấp, không hơn thua với ai cả, dù bất cứ một người nào, dù là những trẻ con. Thầy chỉ có biết xả bỏ, biết thương yêu, biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng và biết im lặng như Thánh, nên cuộc đời Thấy sống an nhàn, thanh thản và vô sự.
Khi tu chứng đạt được chân lý xong, Thầy nhìn lại duyên chúng sanh đối với Thầy thì thấy không có đủ duyên để độ mọi người chứng quả A La Hán. Nhưng bây giờ phải làm sao?
Thầy tự trả lời: Phải tạo duyên mới chớ sao! Nhưng tạo duyên mới bằng cách nào?
Thầy dùng trí tuệ đã tu chứng quan sát: thì chỉ có Hòa Thượng Thanh Từ là nơi tạo duyên hóa độ cho Thầy mới dễ dàng. Nhờ tạo duyên đó mà bây giờ các con mới có những tập sách NGƯỜI CHIẾN THẮNG, TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT và nhiều sách khác nữa. Có đúng như vậy không các con?
Muốn tạo duyên mới này để đem lại lợi ích cho mọi người thì đó là những ước nguyện của Thầy.
Ước nguyện thứ nhất của Thầy là mong sao thấy các con đoàn kết và thương yêu nhau, đừng vì một lý do gì mà chia rẻ nhau; đừng vì một lý do gì mà ganh ghét nhau, xa cách nhau. Trên đời này các pháp đều vô thường nay thay đổi như thế nầy, mai thay đổi như thế khác, không lúc nào giống lúc nào, nó có đứng yên một chỗ đâu, nó đâu có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Phải không các con?
Vậy mà sao các con lại không đoàn kết mà cứ chia rẻ nhau, có lợi gì cho riêng các con đâu, còn làm đau lòng thêm các con ạ! Còn làm Thầy đau buồn các con có biết không? Trong khi Thầy ngày đêm làm việc để đem lại sự sống đạo đức không làm khổ mình khổ người cho các con; để đem lại hạnh phúc, an vui cho các con. Các con có biết không? Vậy mà các con còn muốn chia rẻ nhau, vì quyền lợi gì các con? Đau lòng lắm các con ạ! Nhìn Phật tử Hà Nội chia rẻ nhau thì xấu hổ với Phật tử cả nước. Các con có biết không?
Chỉ có việc gửi người đại diện vào một tổ chức chung của Phật tử Hà Nội để làm nhịp cầu đoàn kết, để Thầy có ngày về Hà Nội; để có cơ hội Thầy về thăm và xây dựng Trung Tâm An Dưỡng dạy các con học đạo đức, thế mà các con lại muốn chia rẻ nhau để làm gì các con? Để làm cho Thầy không bao giờ về thăm Hà Nội nữa phải không?
Mỗi Tổ, Nhóm các con nên gửi một người đại diện cho Tổ, Nhóm của mình để tất cả Phật tử Hà Nội cùng sinh hoạt hội họp đoàn kết nhau thành một khối lớn mạnh, chứ sao các con lại muốn làm cho nó suy yếu. Đất nước chúng ta là một đất nước nhỏ bé, nhờ toàn dân đoàn kết mà giành lại độc lập cho quê hương, dù đương đầu trước một nước lớn, một thế lực mạnh, chúng ta vẫn thành công. Các con còn nhớ lời Bác Hồ chăng? “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”. Phật tử Hà Nội hãy noi gương người đi trước; hãy làm ngọn đuốc sáng cho Phật tử các nơi khác. Đoàn kết là một sức mạnh. Các con có biết không?
Thầy ước mong các con đoàn kết, thương yêu và tha thứ những lỗi lầm của nhau, chị ngả em nâng. Còn một con sâu làm rầu nồi canh thì tệ lắm các con ạ! Một người nào trong các con gây chia rẻ khối đại đoàn kết Phật tử Hà Nội, lịch sự sẽ ghi lại tên tuổi và tiếng xấu muôn đời. Các con có biết không?
Các pháp trên thế gian này đều vô thường, có pháp nào thường đâu, có pháp nào là của các con đâu. Danh mà làm chi hỡi các con? Càng danh, càng lợi càng đau khổ, vậy sao các con không buông xuống để cùng nhau đoàn kết; để cùng nhau yêu thương mà chia sẻ những nỗi khó khăn và nhọc nhằn khi đứng trước và đương đầu một văn hóa hủ tục mê tín dị đoan lạc hậu đã ăn sâu vào lòng người, đã trải qua mấy ngàn năm; đã trở thành một nếp sống phi đạo đức, phi khoa học; đã trở thành một phong tục tạp quán đa thần khó bỏ. Nếu không có sự đoàn kết của các con thì làm sao dẹp bỏ những văn hóa hủ tục tệ hại ấy hỡi các con?
Ước nguyện thứ hai của Thầy là mong sao thấy các con sống đời đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Nhưng ước nguyện ấy rất khó thành công, vì các con sống nói lỗi về người khác quá nhiều. Lại còn dùng những ngôn ngữ ác pháp nào là Thần Táo; nào là Ma Vương; nào là Quỷ dữ, nào là Ma Đăng Già; nào là Đề Bà Đạt Đa v.v... để ám chỉ những điều xấu ác cho họ, họ là anh, chị, em của chúng ta từ mọi phương trời về đây, cùng học một giáo pháp, cùng một thầy dạy và cùng sống chung nhau trong một mái nhà của tu viện Chơn Như. Vậy mà chúng ta nỡ tâm nói xấu nhau để làm gì các con? Nồi da xáo thịt xấu lắm các con ạ! Đó là một điều mà người trí không thể làm. Phải không các con?
Chắc trong cuộc đời đầy đau khổ này, ai cũng muốn an vui, giải thoát, nhưng vì vô minh không hiểu nên họ nói và làm theo bản năng tự nhiên của họ, chứ họ có muốn làm như vậy đâu, sao các con không tha thứ và thương yêu họ. Phải không các con? Điều mà các con không thấy lỗi mình, mà thấy lỗi người thì Thầy thật là đau lòng, vì Thầy đã dạy các con quá nhiều, nhưng sao các con không ghi nhớ, lại quên đi để biến tâm các con hẹp hòi, nhỏ bé, ích kỷ, luôn có những lời không ái ngữ. Tất cả mọi người trên thế gian này đều đáng thương không đáng ghét các con ạ! Họ đang sống trong mê mờ nên họ rất khổ đau, vì thế chúng ta hãy thương yêu họ nhiều và nhiều nữa. Phải không các con?
Ước nguyện thứ ba của Thầy là mong sao thấy các con giữ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ để chứng đạt chân lý. Hy vọng này cũng quá mỏng manh, ước nguyện của Thầy khó thấy được. Rồi đây Phật giáo sẽ đi về đâu, đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người biết còn có dựng lại được nữa hay không? Khi Thầy vào hang ẩn bóng hoặc thị tịch.
Sự tu chứng đạo là điều quan trọng, còn sóng gió Chơn Như chỉ là những chuyện tầm thường thế gian, có đáng gì cho những người tu hành như các con để ý, thế mà các con lại quên đi, không giữ tâm bất động. Chuyện nhỏ mọn như vậy mà tâm các con phóng dật ào ào như mưa tuôn, thác đổ. Vậy các con tu tập cái gì đây?
Chuyện đời như các con đã biết, chỉ có hơn thua, ganh tị, tranh chấp vì danh, vì lợi mà giày xéo lên nhau, luôn làm cho mình khổ người khác khổ, đó là chuyện có đáng gì cho những người tu theo Phật giáo quan tâm để ý không? Chuyện đó các con hãy xem nó là chuyện trẻ con, khi các con đã biết đạo đức của Phật giáo thì hãy buông nó xuống, như lời Thầy đã dạy:
Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì,
Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
Vạn pháp vô thường buông xuống đi!
Các con có nghe những lời Thầy dạy trên đây không? Những lời này Thầy đã dạy lâu lắm rồi, tới bây giờ mà các con chưa thâm nhập sao? Ôi! Thật là đau lòng.
Khi nghe đức Phật thuyết pháp xong là năm anh em Kiều Trần Như đã thâm nhập liền, như vậy làm sao không chứng quả A La Hán được. Phải không các con? Còn bây giờ các con hiểu, nhưng không thâm nhập thật đáng thương. Mấy ngày nay tâm các con động như cái chợ. Thầy đã dạy các con tất cả các pháp để tu chứng quả A La Hán không còn sót pháp nào Thầy chưa dạy, chỉ trừ những pháp nhập định và thực hiện Tam Minh, vì các con chưa có ai tu tập tới đó.
Đừng bi quan, mặc cảm, các con dở thì phải cố gắng học tu nhiều hơn nữa thì sẽ giỏi các con ạ! Có những lỗi lầm thì cố gắng sửa lại sẽ trở thành người tốt, người hiền. Thánh Hiền đều từ những người lỗi lầm mà biết sửa đổi, chứ Thánh Hiền đâu phải từ trên trời rơi xuống. Phải không các con? Người tu hành theo Phật giáo đều là những người biết sửa đổi từ xấu chuyển thành tốt; từ ác chuyển thành thiện, chứ Phật đâu có ở cõi trời Đâu Xuất giáng trần. Phật xuất thân từ người thế gian các con ạ! Chúng ta cũng vậy, phải cố gắng hơn nữa, để xứng đáng là những người con của Phật, là những người đệ tử thánh thiện không lỗi lầm.
Liễu Tâm vào tu viện tu tập thì Liễu Vân theo lời Thầy lãnh trách nhiệm kêu gọi các Tổ, Nhóm cho người đại diện để thành lập một khối đại đoàn kết Phật tử Hà Nội, thế sao các con không muốn Phật tử Hà Nội đoàn kết mà lại muốn chia rẻ sao? Sống chia rẽ một nhóm nhỏ có lợi ích gì, khi các Tổ Nhóm khác đều đoàn kết nhau sống chặc chẻ trong tình thương yêu lẫn nhau, cùng đoàn kết in kinh sách để phổ biến đạo đức đến với mọi người thì hạnh phúc biết bao. Các con có thấy sự đoàn kết đó không?
Thầy sẽ nhận sự cúng dường đoàn kết của Phật tử Hà Nội, dù một đồng quý hơn vạn, triệu đồng mà thiếu đoàn kết.
Bây giờ các con đã thành lập Tổ Đoàn Kết để thay mặt cho Phật tử Hà Nội, thì mỗi việc làm phải có liên hệ thông qua với nhau, có như vậy mới gọi là đoàn kết. Phải không các con?
Các con đoàn kết thật sự, chứ không phải đoàn kết ngoài mặt “bằng mặt chứ không bằng lòng”. Nếu các con bằng mặt không bằng lòng thì Tổ nào sống như vậy thì được xem Tổ đó không phải là Phật tử chân chánh, không phải đệ tử Phật, không phải đệ tử Thầy. Vì đệ tử Phật, đệ tử Thầy thì không chống trái nhau, sống biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng; sống biết không làm khổ mình khổ người; sống biết thương yêu, biết tha thứ mọi lỗi lầm của nhau; sống biết thông cảm và chia sẻ những nỗi khó khăn, những hoàn cảnh cay đắng ngọt bùi v.v…... Đó là mục đích đoàn kết lợi ích như vậy. Các con có hiểu không?
Về kinh sách xin phép in ấn Thầy có nhiều tập sách có giá trị lợi ích rất lớn cho người Phật tử tu học tại gia cũng như xuất gia như: HÀNH THẬP THIỆN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG TU HỌC CỦA NGƯỜI CƯ SĨ, TẠO DUYÊN HÓA ĐỘ CHÚNG SANH, ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT 10 tập, ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI 24 tập, VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRUYỀN THỐNG trên 6 tập và NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY 4 tập. Những sách trên còn xin tái bản trở lại rất nhiều, vì số sách không đủ ấn tống cho Phật tử. Vậy quý Phật tử trong nước cũng như ở nước ngoài muốn ấn tống kinh dù cá nhân hay tập thể có tâm in ấn đều ghi danh sách rõ ràng để được in vào trang sách với tâm thành hồi hướng cho ai và việc gì xin ghi rõ rồi gửi cho Tổ Đoàn Kết Phật Tử để được ghi vào sổ công đức. Tổ Đoàn Kết Phật Tử mới gửi danh sách cho Tổ In Ấn. Tổ In Ấn theo thứ tự ngày tháng xin mà cho in danh sách vào sách. Có làm việc theo thứ tự hành chánh như vậy thì công việc mới dễ dàng và mới có đoàn kết. Còn làm việc theo tình cảm thì không trôi chảy được, và làm mất tình đoàn kết. Quý Phật tử có hiểu không?
Trường hợp đặc biệt trong gia đình có người mất Tổ viên muốn báo hiếu bằng cách xin ấn tống kinh sách thì Tổ In Ấn phải đặc cách cho danh sách của Tổ viên này được ưu tiên in kinh trước
Ở Hà Nội đã thành lập Tổ Đoàn Kết Phật Tử, mỗi tổ viên là một đại diện cho Tổ nhóm của mình, nếu Tổ Nhóm của mình không tham dự vào Tổ Đoàn Kết thì đương nhiên Tổ Nhóm này chia rẻ Phật tử Hà Nội thì Phật tử Hà Nội sẽ không chấp nhận. Coi như Tổ Đoàn Kết không có danh sách Tổ Nhóm này.
Mỗi lần có sóng gió Chơn Như là mỗi lần Chơn Như vươn mình lên cao hơn nữa để đi đến thành lập Trung Tâm An Dưỡng, mở các lớp đạo đức, các lớp Thọ Tam Quy, các lớp Thọ Ngũ Giới, các lớp Thọ Bát Quan Trai, các lớp Chánh Kiến, các lớp Chánh Tư Duy, các lớp Chánh Ngữ v.v....
Các con đã từng học đạo tâm bất động với Thầy, thế mà mỗi lần có sóng gió lại dao động tâm. Vậy các con học đạo bất động tâm như thế nào mà lại dao động? Sóng gió chỉ là một trò đùa của trẻ con có gì mà để tâm động như vậy.
Các con xem sóng gió Chơn Như to tác lắm sao? Các con có giải quyết được những gì không? Điều mà các con giải quyết là giải quyết tâm của các con cho được bất động.
Những bài học đã qua, mỗi lần sóng gió Chơn Như là có những bài học sống động hơn dẫn dắt các con đi đến đích giải thoát của Phật giáo. Các con có thấy không? Tại sao các con không lo phòng hộ sáu căn để cứu mình ra khỏi nhà sinh tử, vui sướng gì mà lại hội họp làm những điều phạm giới phá giới trái với những lời dạy của đức Phật, lời dạy của Thầy. Hay các con đã nghĩ Thầy đi mất rồi, mặc tình hội họp nói chuyện thỏa thích. Cuộc đời tu hành theo Phật giáo trước mặt cũng như sau lưng phải giữ đúng phạm hạnh, dù Thầy có đi đâu vắng cũng vậy, phải giữ gìn như Thầy đang có mặt ở tu viện, chứ sao lại hội họp nói chuyện như vậy. Các con làm được những gì? Khi mọi người trong tu viện chỉ là anh chị em chung trong một nhà, phải đối xử như thế nào, chứ không lẻ ruột bỏ ra da đem vào sao? Tình huynh đệ có chặt nhau thì chặt bằng sống dao chứ đừng chặt nhau bằng lưỡi dao. Phật giáo dạy chúng ta lấy tình thương mà trả oán thù, thì oán thù sẽ tiêu tan, chứ lấy oán thù trả oán thù thì oán thù chồng lên ngút ngàn thì làm sao gọi là đạo đức không làm khổ mình khổ người. Có đúng như vậy không các con?
Các con có biết không? Phải nổ lực tu hành cho đúng pháp thì ngay đó các con đã chứng đạo. Chứng đạo có gì khó đâu. Còn tu hành như các con tâm luôn luôn phóng dật, tu hành như vậy làm sao chứng đạo được.
Các con nói tu hành rất hay, nhưng khi có sóng gió mới thấy sự tu hành của các con quá dở. Sóng gió xảy ra trong tu viện này ai là người bất động. Người bất động là người chứng đạo đấy các con ạ!
Cơ thể hơi đau sơ sơ một chút là đi xin thuốc, xin thang uống, đó là bất động sao?
Chuyện sóng gió của tu viện là một việc rất tầm thường, rất trẻ con có gì quan trọng đâu. Vậy mà các con lại động tâm như vậy sao? Động tâm ào ào cả tu viện, như vậy các con thấy con đường tu tập của mình ra sao? Lùi hay tiến? Chứng đạo hay không chứng đạo đều biết rất rõ ràng. Phải không các con? Có duyên sóng gió mới đo được sự tu tập của các con, không duyên lấy gì đo, làm sao biết?
Thầy xin kể câu chuyện thứ nhất trong thời đức Phật, ngày xưa người ta lôi xác chết của một phụ nữ bị giết chôn sau thất Phật, rồi họ tố cáo đức Phật giết.
Câu chuyện thứ hai, người ta còn đưa một phụ nữ mang thai và bảo rằng đức Phật là một tác giả.
Hai câu chuyện xảy ra động trời như vậy nếu đặt các con cùng sống trong thời gian ấy thì các con xem Phật ra sao? Có phải bằng con mắt nghi ngờ khinh chê không? Có phải bỏ đức Phật ra đi không? Có đúng như vậy không các con?
Ngược lại những chuyện động trời như vậy mà chúng Tỳ kheo trong thời đức Phật im lặng như Thánh, họ không hề dao động, vì lòng tin của họ quá sâu đậm với đức Phật và họ là những người tâm bất động. Họ thấy đó là chuyện tầm thường của thế gian, có đáng gì cho họ nghi ngờ Phật, vì họ ngộ pháp Phật và biết Phật là người đầy lòng yêu thương và buông xả tất cả thì làm gì có việc ấy. Có đúng như vậy không các con? Nhưng các con tâm còn mê mờ, ngay cả khi nghe pháp xong liền chứng đạo là các con còn không tin, thì chuyện tài trời này làm sao các con không nghi ngờ.
Chúng ta hãy dẹp câu chuyện thần thông huyền thoại qua một bên để tìm thấy lòng người lúc bây giờ. Chúng Tỳ kheo trong thời đức Phật họ đã thâm nhập những lời dạy của Phật nên họ bất động khi thấy đức Phật bị hàm oan hảm hại. Những giáo sĩ Bà La Môn muốn hại Phật, thì họ phải dựng lên những chứng cớ rõ ràng, nếu không dựng lên những chứng cớ rõ ràng thì làm sao hạ uy tín của Phật được. Các con đừng nghe trong kinh dựng lên những thần thông để giải oan cho Phật như tiểu thuyết Trung Hoa thì thật là buồn cười. Có sóng gió như vậy mới thấy tâm Phật bất động, mới thấy Phật là người xứng đáng cho chúng ta cung kính tôn thờ. Phải không các con?
Còn Tu Viện chỉ sóng gió chẳng ra gì mà các con dao động hội họp ngày nào cũng vậy, chứng tỏ lòng tin của các con đối với Thầy còn yếu lắm. Nếu câu chuyện của Phật ngày xưa mà đặt vào Thầy thì các con sẽ bỏ đi hết chớ gì. Có đúng như vậy không?
Câu chuyện sóng gió của Chơn Như có ra gì mà tâm các con còn dao động, như vậy các con tu tập không có xả tâm mà chỉ ức chế tâm, tu như vậy có ích lợi gì cho ai, tu như vậy là tu sai pháp, tu như vậy là tu uổng công các con ạ!.
Danh đối với Phật có nghĩa lý gì, còn Thầy, khi các con bỏ đi Thầy chỉ mĩm cười ung dung bước vào tù, vì tội giết người, vì tội hiếp dâm Thầy không một lời minh oan các con ạ!
“Những buổi chiều tà mưa phủ trắng
Thầy cười tha thứ kẻ vô minh”
Danh như nước chảy qua cầu, có gì làm động tâm người tu sĩ Phật giáo. Thầy luôn luôn tha thứ và thương yêu những người làm khổ Thầy và ước nguyện đời sau họ sinh ra làm người thiện, gặp nhiều may mắn hơn, họ là những người đáng thương không đáng ghét, vì vô minh mà họ trở thành người làm khổ họ, chứ họ làm khổ Thầy sao được. Thầy là người bất động tâm, là người không còn tham danh, không còn tham lợi; Thầy là người không còn khổ đau trên cuộc đời này nữa. Phải không các con?
Đây là lời khuyên thân thương của Thầy gửi đến các con, những đứa con yêu thương của cuộc đời Thầy, khi gặp nhau trong những ngày đầy cay đắng, gian nan, muốn cứu giúp các con thoát vòng tay khổ đau mà không giúp được, vì các con không nghe lời Thầy, nên Thầy thật là mệt mõi vô cùng.
Trên cuộc đời hoằng hóa của Thầy gặp các con dù nam hay nữ, dù em ruột, cháu ruột của Thầy, dù bất cứ một ai làm khổ Thầy, Thầy vẫn tha thứ và thương yêu rất bình đẳng như nhau, không thù, không oán, không nói xấu ai cả. Dạy em ruột, cháu ruột của mình cũng như dạy tất cả mọi người Thầy đều dạy như nhau cả, nhưng sự hiểu biết và tiếp thu là do mọi người có cái hiểu, cái nhìn khác nhau. Thầy không dấu một kinh nghiệm nào cả. Thầy đã hiểu Phật giáo không có pháp nào bí mật, không có pháp nào cao siêu cả, chỉ có một pháp duy nhất đó là bất động tâm; là tâm không phóng dật, là tâm thanh thản, an lạc, vô sự; là tâm sống không làm khổ mình khổ người.
Hết mưa rồi lại nắng, Phật tử Hà Nội phải đoàn kết và đoàn kết hơn nữa mới xứng danh là người Hà Nội. Một trung tâm văn hóa của dân tộc Việt Nam anh hùng bất khuất trước mọi giặc ngọai xâm. Ngày nay người Hà Nội cũng xứng đáng là những người đại đoàn kết chặc chẻ để phá tan những văn hóa hủ tục mê tín lạc hậu.
Hết mưa rồi lại nắng, các con phải tu tập giới luật cho nghiêm chỉnh hơn, phải biết buông xả; phải biết tập sống không làm khổ mình khổ người; Phải biết thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm; phải biết không nói xấu ác cho người; phải biết sống như con tê ngưu một sừng; phải biết giữ tâm không phóng dật; phải biết chứng đạo ngay liền trong đời sống hằng ngày của các con.
Kính thưa quý Phật tử! Nếu các con sống đúng như những lời dạy trên đây là Thầy đang ở gần một bên với các con, còn ngược lại dù các con có muốn sống ở gần bên Thầy mà vẫn cách xa Thầy muôn ngàn vạn dậm. Thầy ẩn bóng với những người không tu, không sống trong thiện pháp, chứ không ẩn bóng với những người tu đúng, sống đúng pháp Phật.
Còn hai tháng nữa là mãn khóa tu chứng quả A La Hán. Vậy hiện giờ ai tu chứng và không tu chứng các con đều biết rất rõ có cần Thầy tuyên bố không?
Còn hai tháng nữa thời gian còn dài, có thể biết đâu khi bức tâm thư này ra đời thì lại có nhiều người ngộ và chứng quả A La Hán. Quả A La Hán đâu phải dành riêng cho người nào, chỉ có những người ngộ các pháp vô thuờng và biết buông xả sạch, thường sống trong một tâm bất động thì quả A La Hán về người đó.
Hãy cố gắng lên các con ạ! Phật pháp được dựng lại là do từ sự tu chứng của các con, chứ không phải của Thầy nữa. Trách nhiệm của các con lớn lắm. Các con có thấy không? Thầy đã giao gánh nặng thiện pháp cho các con rồi. Vậy từ đây các con phải thương nhau, đừng ganh ghét nhau, đừng tỵ hiềm, ích kỷ nhỏ mọn với nhau mà phải cùng chung lưng đâu cật chị ngã em nâng trên bước đường đạo đức nhân bản – nhân quả để đem lại sự lợi ích, sự an vui hạnh phúc cho đời, để biến cõi thế gian này thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.
Bức tâm thư này đến với các con tức là Thầy không bao giờ bỏ các con bơ vơ như gà con mất mẹ. Phải không các con?
Mặc dù Thầy không ở gần bên các con nữa, nhưng lúc nào Thầy cũng chăm sóc các con như người mẹ chăm sóc những đứa con thơ dại thân thương của mình. Bỏ sao được khi các con tu hành giống như đứa bé thơ mới biết đi chập chững; bỏ sao được khi bộ sách đạo đức làm người chưa xong; bỏ sao được khi bộ sách giới luật đức hạnh của Tăng, Ni chưa rồi; bỏ sao được khi giáo trình tu học từ căn bản đến chứng quả A La Hán chưa thành v.v...
Sau cùng Thầy gửi lời thăm và chúc các con, tất cả tu sĩ và cư sĩ đều chứng quả A La Hán ngay trong hiện tại.
Thân thương chào các con
(Ngày 10 tháng 2 năm 2007)
Kính gửi: Thiện Tâm, Minh Phước, Thiện Sơn
Trả lời Thiện Tâm
Tu viện biếu tặng mỗi tu sinh bốn tập Đường Về Xứ Phật đã được Nhà nước chấp nhận cho giấy phép in ấn và tiếp tục 6 tập nữa. Đây là một bộ sách mở màn cho việc chấn chỉnh lại Phật giáo. Các con nên cất giữ để làm tài liệu một bước ngoặc lịch sử Phật giáo. Lúc này không cần phải đọc mà chỉ lo áp dụng những bài học đạo đức hiếu sinh vào cuộc sống hằng ngày của mình, để gạn lọc cho thật sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi.
Thì giờ lúc này rất quý với các con, ngày ngày đến lớp học đạo đức để triển khai tri kiến hiểu biết về đức hạnh của mình. Khi về thất tập sống một mình, chỉ có sống một mình mới áp dụng đạo đức vào thân tâm. Nhờ đó một năm học trôi qua rất nhanh mới thấy đức hiếu sinh là mình, mình là đức hiếu sinh. Chính ngay đó là mục đích của Phật giáo các con đã đạt, Thiền Định cũng ở nơi đó và Tam Minh cũng ở nơi đó, các con không cần phải tu học gì nhiều. Còn bây giờ các con đọc sách thì cũng tốt nhưng kết quả tu hành thành Chánh giác con xa lắm.
Trả lời Minh Phước:
Sự quyết định trở về tu viện để tu học là đúng. Con đã về giải quyết và được Thầy con chấp nhận cho đi và như vậy con không có làm khổ người.
Thiền mà Sư phụ con đã dạy, không phải là thiền của Phật mà do các Sư Thầy kiến giải dựa vào Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu quán thân bất tịnh chế ra một loài thiền trị bệnh. Thật là điên đảo làm sai pháp Phật, biến Phật giáo thành tà đạo. Đó là một loại thiền tưởng, không đúng Chánh pháp làm chủ bệnh của Phật.
Con có đọc kinh Pháp Cú chưa?
“TÂM LÀM CHỦ, TÂM DẪN ĐẦU CÁC PHÁP” Câu này đức Phật dạy pháp như lý tác ý, cho nên trong pháp môn Định Niệm Hơi Thở đức Phật dạy làm chủ bệnh rất rõ ràng trong đề mục thứ năm của Định Niệm Hơi Thở: “AN TỊNH THÂN HÀNH TÔI BIẾT TÔI HÍT VÔ, AN TỊNH THÂN HÀNH TÔI BIẾT TÔI THỞ RA”. Tác ý như vậy, an trú tâm như vậy thì thân sẽ an ổn và không bệnh tật, bởi vì tâm làm chủ tâm dẫn đầu các pháp. Đó là lời Phật dạy trong kinh sách nguyên thủy còn lưu lại không có ai dám thêm bớt.
Đời sau tu hành chưa tới đâu, rồi tự sản xuất ra đủ loại pháp môn thiền định, nhưng nhìn lại thì giới luật vi phạm, sống không đúng phạm hạnh. Sống không đúng phạm hạnh dù có tu tập pháp môn gì hay thiền định gì thì cũng là tà thiền của ngoại đạo mà thôi.
Giới luật là thiện pháp, thiện pháp mới chuyển được ác pháp. Bệnh tật có hết hay không hết là do giới luật, còn các pháp môn chỉ trợ giúp làm giảm bệnh chứ không thể hết bệnh được. Ngay cả pháp môn Định Niệm Hơi Thở của Phật là pháp môn trực tiếp trên bệnh để đẩy lui, thế mà giới luật không nghiêm chỉnh thì bệnh chỉ giảm rồi trở lại như thường, chứ không thể hết luôn được.
Con hãy tin vào pháp môn và giới luật của Phật, tu tập và giữ gìn cho đúng, nhất là cánh tay đưa ra đưa vô để thay thế hơi thở của con, để đẩy lui bệnh tật thì con sẽ hết bệnh, phải tập an trú trong cánh tay cho được thì bệnh gì cũng đẩy lui hết cả.
Lên tu tập kỳ này con cố gắng giữ gìn độc cư để phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cho thanh tịnh. Lên lớp học đạo đức giới luật về thất giữ hạnh độc cư trọn vẹn, không nên tiếp duyên bằng điện thoại, nó làm động tâm con lắm, tu tập cánh tay an trú đẩy lui bệnh, và gạn lọc tâm tư con bằng đức hiếu sinh thì không lâu con sẽ chứng đạo. Con lên lần này Thầy rất hy vọng ở con và Phước Tồn, vì tuổi các con còn trẻ, tương lai Phật giáo là ở các con. Các con phải ráng cố gắng giữ gìn giới luật đức hạnh nhất là đức hiếu sinh.
Trả lời Thiện Sơn
Con có biết Tứ Thiền chưa? Mà bảo rằng nhập Tứ Thiền.
Định Tứ Thiền là một loại định cao nhất trong thiền định của Phật giáo. Thiền định của Phật giáo có XUẤT, có NHẬP hẳn hoi, chứ không phải như Thiền Đông Độ không xuất, không nhập
Thiền định của Phật giáo có XUẤT, có NHẬP là phải có pháp dẫn vào định. Vậy con biết pháp nào dẫn vào Định Tứ Thiền chưa? Nếu chưa biết con làm sao nhập Tứ Thiền. Hiện giờ con ngồi bất động không niệm khởi trong 6 tiếng đồng hồ, đó là tỉnh thức chứ đâu có thiền định gì. Con ngồi tu tỉnh thức như vậy một hai ngày hoặc lâu hơn 1, 2, 5, 10 tháng không niệm khởi, không ăn uống, không đi đại đi tiểu mà vẫn không được gọi là Tứ Thiền.
Nhập Tứ Thiền:
- Thứ nhất là giới luật phải nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
- Thứ hai Bảy năng lực giác chi phải xuất hiện đầy đủ.
- Thứ ba Tứ Thần Túc phải có.
- Thứ tư Tam Minh phải thực hiện cho được
Bây giờ con xét lại giới luật, đức hiếu sinh có trọn vẹn chưa? Thân tâm có bất động khi gặp ác pháp, khi gặp nghịch cảnh? Trên thân quán thân có trọn vẹn chưa? Hôn trầm thùy miên con có sạch chưa?
Qua những câu hỏi trên đây con thấy chưa thông chỗ nào thì hãy tu tập ngay chỗ nấy để cho nhuần nhuyễn.
Thăm và chúc các con tu tập xả tâm cho thật tốt, sống đời đức hạnh cho trọn vẹn.
Thẩy của các con
(Ngày 16 tháng 2 năm 2007)
Kính gửi: Quý phật tử thành phố Hồ Chí Minh.
Kính thưa quý vị! Thầy sẽ trả lời những nỗi thắc mắc về đạo đức nhân quả bố thí mà không được phước báu, còn lãnh tai họa thảm khốc.
1- Người đi tu là phải buông xả xuống sạch, đời sống chỉ còn có ba y một bát, họ đã vượt qua bao nhiêu ác pháp, bao nhiêu ái kiết sử, thì lời nguyền nào mà họ không buông xả được. Tham, sân, si, ái dục là chính thân tâm của họ, vậy khi theo pháp Phật, quyết tâm buông xả, họ còn xả sạch huống là những lời nguyền có nghĩa gì với họ. Cho nên con đừng sợ, đời con là một chuỗi dài đau khổ, hãy mạnh dạn đứng trên bằng đôi chân của con để tiến tới con đường giải thoát của đạo Phật. Thời gian con đến tu viện tu học chỉ là tu tập THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI và mới tu học 4 tháng lớp Chánh Tri Kiến, thì lớp học bị đóng cửa, vì thế con sống trong giới luật chưa nghiêm chỉnh, do giới luật chưa nghiêm chỉnh nên con mới gặp mọi sự xảy ra bất an. Con có thấy điều này không? Các tu sĩ ở đây phạm giới độc cư tan nát làm mất đòan kết, khiến Thầy phải rời khỏi tu viện. Thay vì Thầy nhập Niết Bàn cho xong, nhưng vì còn thương các con nên không nỡ bỏ. Khi Thầy ra khỏi tu viện tổ chức ngay lớp rèn luyện nhân cách NGŨ GIỚI để giúp các con giữ gìn giới luật nghiêm túc và buông xả tâm cho rốt ráo. Con có đọc sách GIÁO ÁN RÈN NHÂN CÁCH LỚP NGŨ GIỚI chưa? Nếu có đọc con mới thấy giới luật đức hạnh của Phật giáo tuyệt vời.
2- Con có đọc sách Giáo Án chưa? Bài “Nỗi Đau Không Của Riêng Ai” Nạo thai móc thai là một tội ác lớn lắm con ạ! Tội giết người, nhất là tội giết con. Nhân quả này phải trả vay không thể nào tránh khỏi. Vay một trả mười. Muốn thoát ra những tội khổ báo này, chỉ duy nhất con phải theo tu học lớp đạo đức NGŨ GIỚI và phải sống đúng ĐỨC HẠNH NGŨ GIỚI thì mới chuyển hết tội khổ con ạ! Nhân quả chỉ có thiện pháp giới luật mới chuyển đổi, ngoài giới luật thiện pháp của Phật thì không có pháp nào chuyển đổi được nhân quả. Giới luật thiện pháp của Phật thì chỉ có người xuất gia mới giữ gìn đúng được.
Theo quy luật nhân quả thì lấy thiện pháp chuyển ác pháp, cho nên giáo pháp của đức Phật toàn là giới luật đức hạnh, thiện pháp. Người tu theo Phật giáo chỉ cần sống đúng giới luật đức hạnh thì chuyển sạch nghiệp báo khổ đau. Chuyển sạch nghiệp báo khổ đau là chứng đạo. Lớp dạy NGŨ GIỚI ra đời đúng lúc để giúp cho mọi người thoát cảnh khổ đau và tu sĩ có cơ hội học tập và rèn luyện nhân cách đức hiếu sinh (lòng từ bi)
Đối với con hiện giờ chỉ có sống đúng giới luật đạo đức để trở thành một tu sĩ đúng giới hạnh thì sẽ chuyển tất cả tội khổ, do vô minh, mê mờ, không biết mà vô tình con đã tự tạo ra và cũng từ đó lương tâm con rất hối hận, ăn năng, sám hối. Con đừng lo, đạo Phật là một nền đạo đức nhân bản – nhân quả, nó ra đời là để chuyển hóa nhân quả, mở ra một con đường cho mọi người tự mình cứu mình, có một lối thoát ra rất tuyệt vời.
Từ những lớp học đạo đức NGŨ GIỚI , TAM QUY, THẬP THIỆN, THẬP GIỚI SA DI, 250 GIỚI TỲ KHEO TĂNG, 348 GIỚI TỲ KHEO NI. Học viên nào xuất sắc sống đúng giới luật mới được Thầy rút về khu tu tập chuyên tu TỨ THÁNH ĐỊNH ở Ngọc Tuyền Sơn, xã Phước Hãi, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu còn người nào phạm giới phá giới thì ở lại theo học các lớp giới luật đức hạnh, chứ không được dự vào lớp chuyên tu, vì phạm giới phá giới vào lớp chuyên tu sẽ phá những người giữ giới không tu tập được. Đây là sự đổi mới của tu viện Chơn Như, bất cứ một tu sĩ nào ở trong các hệ phái Phật giáo hiện giờ muốn về tu tập tại tu viện Chơn Như đều phải trải qua các lớp giới luật đức hạnh, sau khi đạt đúng tiêu chuẩn giới luật đức hạnh mới được ghi danh vào lớp chuyên tu TỨ THÁNH ĐỊNH. Chẳng hạng như con hiện giờ muốn xuất gia tu hành đều phải theo học các lớp giới luật đức hạnh tại tu viện Chơn Như rồi mới được vào lớp chuyên tu.
3- Phật tử thành phố Hồ Chí Minh hỏi về luật nhân quả làm từ thiện mà gặt lấy tai họa thảm khốc, chết không toàn thây.
Luật nhân quả rất công bằng, vì thế các nhà khoa học thiên văn không thể đoán đúng đường đi của bão. Bão luôn luôn đi tìm những người làm ác, nó đi theo từ trường ác của những người làm ác phóng xuất ra nơi họ ở, từ trường ác có một lực hút rất mạnh, nên bão tương ưng với lực hút ấy tạo ra cảnh cửa tan nhà nát của cải tiêu tan người chết chóc như chúng ta đã chứng kiến những trận bão đã đi qua để lại một thảm trạng đau lòng. Một cảnh tượng nhà cửa của cải tài sản tan nát, một thảm trạng đau lòng người chết nằm ngổn ngang mà nguyên nhân chính là do giết hại và ăn thịt chúng sinh.
Do con người làm ác, săn bắn, đốt rừng, chài lưới câu tôm, đặt lọ, đặt lờ, dùng điện, thuốc nổ giết hại cá tôm không biết bao nhiêu mà kể cho hết, lại thêm đâm heo giết chó, cắt cổ gà, cắt mõ vịt làm tiết canh v.v... Rồi xúm nhau ăn thịt rượu chè say xỉn chửi xóm mắng làng đánh đập vợ con, tham lam trộm cắp cướp giựt giết người. Đó là những tội ác do những người này tạo ra từ trường ác nên bão tố, sóng thần, động đất, thiên tai lũ lụt tương ưng chiêu cảm để những người ác này phải trả quả báo.
Trong khi những người làm ác phải chịu gặt quả báo thảm sầu như vậy, để trả quả, thì những đoàn từ thiện khắp nơi trong nước đem những vật dụng đến cứu trợ, an ủi, đó là những người làm một việc tốt. Nhưng việc làm tốt này có trọn vẹn những phước báu hay không thì xin nghe lời đức Phật dạy: “Nếu cùng dường, bố thí đúng chánh pháp phải chọn cá nhân hay tập thể thanh tịnh thì mới được phước báo như đem hạt giống tốt gieo trên đất mầu mỡ, thì hạt giống sẽ lên cây tươi tốt và cho hoa trái ngon ngọt, còn cá nhân và tập thể không thanh tịnh thì không được phước báu giống như đem hạt giống tốt mà gieo trồng trên đá, hạt giống sẽ bị hư thối, kết quả không hưởng được phước báu mà còn lấy họa khổ vào thân”. Bằng chứng những đoàn làm từ thiện ở TP Hồ Chí Minh như: đoàn từ thiện của sư cô Trí Hải, đoàn từ thiện của P13 quận Phú Nhuận v.v...
Những người đi cứu trợ là những người phải sống chân thật vì lòng yêu thương đối với những người gặp tai nạn khổ đau, chứ không phải vì danh, vì lợi. Ở đây họ cứu trợ vì phong trào cứu trợ cả nước, hoặc vì công việc làm ăn của mình cho được suông sẻ chứ chưa phải vì lòng yêu thương người gặp tai nạn. Cho nên trên đường đi cứu trợ ngồi trên xe ca hát vui vẻ như đi dự lễ khánh thành nhà cửa hoặc đám cứ.
Luật nhân quả rất công bằng, nếu người bố thí vì lòng thương yêu và người nhận của bố thí đều sống hiền lương thì hai bên đều hưởng được phước báu; còn ngược lại người bố thí không vì lòng thương yêu mà vì công việc làm ăn hay vì cầu danh làm từ thiện, và người nhận của bố thí là người làm ác, thì người bố thí và người nhận thí đều gặp tai họa. Người bố thí vì lòng thương yêu người lâm nạn nên đem tiền của bố thí cho người nhận thí nhưng người nhận thí ăn ở không hiền lành, nên người bố thí không được phước báu mà không có tai nạn xảy ra. Như những Phật tử đi chùa cúng dường để cầu an, cầu phước, cầu tự, cầu siêu, xem xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu, đốt tiền vàng mã v.v... Đó là để nối giáo cho những sư thầy giới luật không nghiêm túc, lợi dụng Phật giáo buôn thần bán thánh, buôn kinh, bán giáo pháp của Phật, dựng lên thế giới siêu hình lường gạt tín đồ, bày vẽ những điều mê tín dị đoan, biến Phật giáo thành Thần giáo. Những Phật tử này dù ăn chay đi chùa cúng dường nhưng không hưởng được phước báu, khi phước thừa hết thì tai họa sẽ đến như đòan phật tử đi chúng chùa Châu đốc.
Hỏi: Đi làm từ thiện sao chết không toàn thây?
Đáp: Nhân làm từ thiện bố thí thì quả sẽ giàu sang không thiếu hụt. Nhưng việc làm từ thiện của họ không chuyển được tội ác giết hại và ăn thịt chúng sinh mà từ lâu họ đã tích lủy. Đi làm từ thiện mà ca hát vui cười là vui trong sự đau khổ của kẻ khác, đó là không từ thiện, nên chết không toàn thây là phải. Nhìn cái chết không toàn thây thì biết họ sẽ sinh vào cõi ác, làm thú hung dữ. Nhìn cái chết của những người khác, là biết họ sẽ tái sinh vào đau: Một người chết trên giường bệnh một cách nhẹ nhàng, êm ái, không kêu la rên rỉ, không lăn lộn đau đớn thì được sinh làm người hiền lương; một người chết trên giường bệnh một cách không nhẹ nhàng, êm ái, thường kêu la rên rỉ, lăn lộn đau đớn thì được sinh làm người không hiền lương; một người chết vì tai nạn giao thông, vì chiến tranh bom đạn thây thể bị tan nát thì được sinh vào cõi giới ác thú. Sau này các con học về NGŨ GIỚI đạo đức nhân bản – nhân quả sẽ hiểu nhiều hơn.
Hỏi: Ăn chay hướng thiện, đi chùa Châu Đốc sao bị tai nạn giao thông 6 người chết còn hai người bị thương nặng? Chết như vậy tái sinh về đâu?
Đáp: Ăn chay hướng thiện, đi chùa Châu Đốc nhưng chùa ấy các sư thầy phạm giới, phá giới, tạo ra những điều mê tín, làm chuyện hư hoại giáo pháp chân chánh của Phật giáo và làm mang tiếng không tốt cho Phật giáo, phật tử đến cúng dường là tiếp tay với các sư thầy làm Phật giáo suy thoái, giới luật không còn cộng thêm tội ác giết hại và ăn thịt chúng sinh trước kia, khi chưa biết ăn chay hướng thiện, nên kiếp này trả quả chết một cách thảm thương. Những người chết trong cảnh thảm thương này đều tái sinh trong cảnh ác.
Hỏi: Con đã phát nguyện gánh nạn kiếp cho chúng sinh để chuyển nhân quả. Vậy con có chuyển được phần nào không?
Đáp: Chuyển nhân quả chỉ có người xuất gia sống và tu tập đúng giới luật đức hạnh của Phật, chứ không phải phát nguyện gánh nạn kiếp của chúng sinh là chuyển nhân quả được. Theo luật nhân quả thì không ai gánh nạn kiếp cho ai được, chỉ có kinh sách Đại Thừa vọng ngữ như ông Duy Ma Cật: “Bồ Tát bệnh vì chúng sinh bệnh”.
Hỏi: Con đang tu mà ra đời là bị nhân quả gì? Và phải trả nghiệp mấy năm?
Đáp: Đang tu mà ra đời là người không ý chí vượt khó; là người sẽ gặp nhiều đau khổ trên đường đời. Đây không phải trả nghiệp mà chạy theo nghiệp, bị nghiệp lôi, nên con đừng hỏi mấy năm, mà con biết dừng nghiệp là người có ý chí vượt khó, chứ không phải trả nghiệp mấy năm.
Hỏi: Tai nạn giao thông, chết không toàn thây, chỉ có một người còn sống sót
Đáp: Như trên đã nói luật nhân quả rất công bằng, những người làm từ thiện mà gặp tai nạn giao thông, chết không toàn thây, là trước kia đã làm những điều ác giết hại vật, làm cho chúng chết không toàn thây như làm gà, vịt, heo, dê v.v... Bây giờ chết tan nát thây thể đều do nhân quả ác.
Trong 13 người đi cứu trợ đồng bào miền Trung, bị tai nạn giao thông mà còn có một người sống sót bò ra trên những đống thịt tan nát thì đó là do nhân không giết hại chúng sinh, thường có lòng yêu thương hay phóng sinh các loài vật như chim cá rùa trạnh v.v....Bây giờ mới thoát chết một cách tuyệt vời đều do nhân quả phóng sinh.
Hỏi: Có linh hồn vất vưởng không? Sao chỗ chết thường xuyên xảy ra tai nạn?
Đáp: Không có linh hồn người chết vất vưởng, khi chết thì tái sinh ngay liền để trả nhân quả tiếp tục làm người hoặc làm thú vật.
Chỗ đoạn đường thường xảy ra tai nạn giao thông là đọan đường nguy hiểm trơn trợt, dốc, cua, đèo v.v...chứ không có linh hồn người chết oan xô đẩy.
Muốn tránh những cái chết thương đau thì đừng giết hại và ăn thịt chúng sinh mà còn phóng sinh. Đó là cách thức chuyển nhân quả ác thành nhân quả thiện.
Đạo đức xuống cấp con người làm ác rất nhiều, các con phải biết nhẫn nhục, biết thương yêu và biết tha thứ mỗi lỗi lầm, biết sống tùy thuận và bằng lòng trước mọi hòan cảnh và biết sống vượt lên trên mọi ác pháp, đem lòng yêu thương đến với mọi người thì cuộc sống của các con mới thanh thản, an lạc và yên vui
Thăm và chúc các con mạnh nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thầy của các con
(Ngày 21 tháng 02 năm 2007)
Kính gửi: Quý tu sinh tại tu viện Chơn Như.
Kính thưa quý vị! Từ một lối tu hành cũ với bốn pháp môn tu định của Phật giáo:
1- Định Vô Lậu.
2- Định Sáng Suốt.
3- Định Niệm Hơi Thở.
4- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Tất cả các loại định trên đây gôm lại tu chung trong một thời khóa: sáng, chiều, tối, khuya trong một ngày thì kết quả đạt được quá ít, vì chỉ tu chung chung không có chuyên sâu được nên kết quả chứng đạo rất khó khăn vô cùng, chính vì tu sinh thời nay vi phạm giới luật.
Bốn loại định này nếu được hướng dẫn cặn kẻ, kỹ lưỡng chuyên sâu từng loại định, thì kết quả mới viên mãn, có tu chuyên sâu từng loại định như vậy thì kết quả mới có chất lượng bảo đảm, nhất là tu Định Vô Lậu. Định Vô Lậu là một định chuyện sâu vào giới luật, nhờ có chuyên sâu vào giới luật thì tu sinh mới nghiêm trì giới luật, mới không vi phạm. Giới luật không vi phạm thì tu hành mới có kết quả tốt đẹp.
Sau bốn tháng tu học lớp chánh tri kiến thì kết quả cho biết là Định Vô Lậu của các tu sinh còn quá kém, vì tri kiến của tu sinh đối với nhân quả chưa sâu sắc và chưa thông suốt. Đường đi của nhân quả chỉ hiểu biết một cách chung chung, trình độ hiểu biết giống như người học mới học hoặc đọc kinh sách về nhân quả mà chưa hiểu hết nghĩa.
Sau bảy tháng để thử thách trình độ tu sinh tu Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở thì tu sinh nhiếp tâm và an trú tâm chưa chuyên sâu nên hai loại định này dường như tu sinh tu tập bị ức chế tâm, nhất là định sáng suốt lại còn không biết cách thức tu tập nữa.
Đúng là các tu sinh tu tập không có căn bản, không có trình độ chuyên sâu nên kết quả chẳng được bao nhiêu, nhưng lại cố chấp lối tu cũ, không nhận ra trình độ và sự tu tập của mình chưa đi đến đâu. Cho nên, khi Thầy chuyển đổi lối tu tập mới một cách đột ngột làm cho những tu sinh cũ đều chới với, không biết tu tập cách nào.
Hỡi các tu sinh! Các tu sinh có biết lớp học rèn luyện nhân cách NGŨ GIỚI đức hiếu sinh này chưa? Đây là lớp tu học quán vô lậu rất mới mẻ nên tất cả tu sinh không ngờ là đang được hướng dẫn tu tập chuyên sâu vào Định Vô Lậu.
Đây là một lớp tu học chuyên sâu vào Định Vô Lậu nên không phải là một lớp học bình thường, vì vậy tu sinh khi quán xét triển khai tri kiến của mình thì phải theo chủ đề mà phát biểu ý kiến chứ không được nói linh tinh ngoài đề nói ngoài đề tức là quán sai mà quán sai thì tri kiến hiểu biết sai lệch, tri kiến hiểu biết sai lệch thì không xả được tâm mà nuôi lớn ngã mạn, cái sai rất lớn của tu sinh theo họ lớp đạo đức NGŨ GIỚI là cái sai quán xét lạc đề. Vì đạo đức nhân bản - nhân quả quá mênh mông, cho nên quán xét không khéo thì sai đề không hiểu và như vậy không áp dụng vào đường tu tập xả tâm để tâm vô lậu, ngược lại nuôi lớn ngã mạn xem như ta thông minh hiểu nhiều nhưng cái hiểu nhiều đó không áp dụng được tâm vô lậu thì cái hiểu nhiều đó là cái hiểu vô ích. Cái sai thứ hai của các tu sinh hiện giờ là bỏ giờ giấc tu tập các loại định khác và phá luôn giới hạnh độc cư. Lẽ ra khi tu sinh rời lớp học, về thất thì phải lo khép mình trong thất tu tập và nhất là giới phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý.
Khi các tu sinh ra thất đi vào lớp học thì giới hạnh độc cư còn giữ gìn 50% còn khi về thất thì nên cố gắng giữ gìn 100% Càng giữ gìn giới luật nghiêm túc thì lại càng mau chứng quả giải thoát.
Chương trình giáo dục đào tạo lớp NGŨ GIỚI là một chương trình chọn lựa để đưa người vào lớp chuyên tu, nếu ai giữ gìn giới luật nghiêm túc thì được ghi vào hạnh kiểm tốt và được tuyển chọn vào lớp chuyên tu chứng đạo ở Ngọc Tuyền Sơn, xã Phước Hải, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu , còn nếu giữ gìn giới luật không nghiêm túc thì ở lại tu viện theo học các lớp giới luật, nhưng nếu còn vi phạm thì không được lên lớp mà chỉ ở lại lớp I.
Tu Viện có nhiều thay đổi chứ không như xưa nữa, mọi người về đây tu tập đều phải học các lớp giới luật căn bản này. Bắt đầu phải vào lớp I học rồi lên lớp II… Cuối cùng mới được chọn vào lớp chuyên tu.
Giảng viên hằng ngày theo dõi sự học tập của tu sinh có áp dụng đức hạnh trong bài học vào đời sống hằng ngày hay không? Hạnh kiểm giới luật có tốt không?
Học mà không áp dụng đức hạnh vào đời sống thì cho ở lại lớp không cho lên lớp; học mà sống phạm giới, phá giới độc cư thì cho ở lại không được lên lớp thứ hai.
Vào tu viện là vào đại giới đàn không được đi đây đi đó tự do, khi đi ra khỏi giới đàn mà không có duyên sự chính đáng thì không được rời khỏi giới đàn. Khi vào tu viện thì phải đăng ký trước để dễ bề sắp lớp cho người làm việc
Muốn giữ gìn thất được thanh tịnh trang nghiêm là chỗ tu hành thì không nên tiếp khách trong thất, vì đó là tiểu giới đàn tu học, nên phải giữ gìn thanh tịnh nghiêm trang, muốn nói chuyện bàn bạc thì nên ra nhà khách nói chuyện thăm viếng
Có hai phòng vi tính riêng: một cho nam và một cho nữ, những tu sinh nào cần biên soạn giáo trình hay giáo án thì nên ra phòng vi tính làm việc, nếu tu sinh nào có máy vi tính thì nên đem ra phòng vi tính làm việc, khi làm xong thì đem về thất. Còn ở trong thất làm việc thì mọi người cho rằng tu viện thiếu tổ chức: tu phải ra tu; làm việc phải ra làm việc .
Tu viện hôm nay từng bước tổ chức đi lên cho nên còn nhiều sơ sớt, mong các tu sinh thông cảm trợ giúp cho tu viện trở thành một trường học có tổ chức, có ngăn nắp, thứ lớp để là nơi đào tạo những bậc A La Hán đức hạnh và thiền định song toàn.
Sách giáo án như loại sách giáo khoa nên mỗi tu sinh đều có một tập để nghiên cứu bài học trước khi vào lớp. Đáp án và giải trình án trong sách chỉ là một tiêu chuẩn, nếu tu sinh nào có ý kiến ngoài tiêu chuẩn này thì giảng viên không trả lời vì chưa đủ lòng tin của mọi học viên thì nên ghi chép lại những kiến giải ấy rồi trình lên Thầy, Thầy sẽ xác định nghĩa lý rõ ràng để còn áp dụng bài học đạo đức vào đời sống hàng ngày.
Thăm và chúc các tu sinh tu học tốt giữ gìn giới luật nghiêm túc.
Thầy của các con
(Ngày 4 tháng 3 năm 2007)
Kính gửi các tu sinh tại tu viện Chơn Như!
Kính gửi các con! Nếu các con muốn biên soạn giáo án thì phải lưu ý:
1- Nếu muốn biên soạn một giáo án thì các con hãy chọn một đề tài nói về đúng giới luật đó thì chọn bài không sai, còn nếu chọn sai thì đáp án và giải trình án sẽ sai
Ví dụ: Với đề tài nói về giới sát sinh, đó là nói về đức hiếu sinh, tức là lòng yêu thương (cá nhân, gia đình và xã hội)
Với đề tài nói về giới trộm cắp tham lam, đó nói về đức ly tham từ bỏ lấy của không cho. (cá nhân, gia đình và xã hội)
Với đề tài nói về giới tà dâm, đó là đức chung thủy (cá nhân, gia đình và xã hội).
Với đề tài nói về giới nói dối, đó là đức thành thật (cá nhân, gia đình và xã hội)
Với đề tài nói về giới rượu chè, cờ bạc. (cá nhân, gia đình và xã hội).
Chọn đề bài xong rồi mới phân đoạn và đọc kỹ từng đoạn để xác định câu hỏi. Khi đặt ra câu hỏi xong, mới đáp án; khi đáp án phải xét kỹ đoạn văn đó thuộc về thân hành, ý hành, hay khẩu hành. Mỗi câu đều có mang theo đức hiếu sinh, ngoài đức hiếu sinh chung còn có một đức riêng của từng câu, chứ không nên gọi đức hiếu sinh chung chung được, chỉ trừ trường hợp có duy nhất có một đức hiếu sinh, hoặc không có đức hiếu sinh.
Ví dụ: Đức nhẫn nhục hiếu sinh; đức kiên nhẫn hiếu sinh; đức dũng cảm hiếu sinh, đức hy sinh hiếu sinh; đức tùy thuận hiếu sinh; đức ăn năng hiếu sinh, đức hoan hỷ hiếu sinh.v.v...
Giải trình án phải nói rõ về đạo đức cá nhân, gia đình, xã hội và kết luận là một sự áp dụng thực hành đạo đức vào bản thân bằng một lời nói, một hành động hay một ý nghĩ.
Các con hãy cố gắng biên soạn giáo án, vừa học, vừa tu tập, vừa áp dụng vào đời sống cá nhân của mình để mình là đạo đức, đạo đức là mình.
Thăm và chúc các con thành công trên đường tu học đức hạnh giải thoát.
Thầy của con
(Ngày 14 tháng 3 năm 2007)
Kính gửi: Các tu sinh tại tu viện Chơn Như.
Kính thưa các tu sinh!
Từ lâu có một điều mà các tu sinh thắc mắc nhưng chưa có người nào dám thưa hỏi Thầy, dù sao vẫn có một vài người gợi ý xa gần về vấn đề tên tác giả những tập sách do Thầy biên soạn mà lấy tên một người khác.
Như các tu sinh đã biết từ khi Thầy tu xong làm chủ được sự sống chết của mình là Thầy muốn nhập diệt sau khi mẹ Thầy ra đi vĩnh viễn. Đối với cuộc đời này Thầy không còn luyến tiếc việc gì cả, danh lợi đối với Thầy như nước chảy qua cầu. Thế gian toàn là ganh tị hơn thua, nói xấu lẫn nhau, nên ở lại để làm gì?
Duyên chúng sinh chưa dứt Phật tử các Chiếu - đệ tử của Hòa Thượng Thanh Từ về thăm và thưa hỏi với mục đích tò mò sự tu hành của Thầy. Trong các buổi tập họp gặp nhau tại chiếc thất nhỏ hẹp của Thầy nơi tượng đức Phật Niết Bàn hiện giờ, những buổi đàm thoại chỉ có khoảng 20 người. Trả lời những câu hỏi của phật tử vấn nạn về Thiền, Mật, Tịnh Thầy đập sạch xuống những điều sai trái trong Phật giáo phát triển quá nhiều mà không ai ngờ, từ đó có những chiếc thất lợp giấy dầu mọc lên như nấm, mọi người về đây nhập thất tu hành với Thầy.
Những buổi thuyết giảng cho các tu sinh tu tập được ghi lại trong 61 cuồn băng ghi âm ra đời, kế tiếp bộ sách ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT cũng ra đời với tên tác giả là TU VIỆN CHƠN NHƯ, nhưng khi đưa đi xin giấy phép in ấn thì nhà xuất bản Tôn Giáo bắt buộc tác giả phải đứng tên để chịu mọi trách nhiệm. Bây giờ bộ sách ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT mới có tên tác giả Thích Thông Lạc .
Tên mình trong tác phẩm, dù muốn, dù không thì mọi người sẽ biết tên mình mà biết đến tên mình là danh. Kế tiếp những tác phẩm khác của Thầy ra đời và được giấy phép in ấn hẳn hoi, nhưng đối với Thầy đó là nhân là duyên cứ theo qui luật nhân quả của chúng sinh diễn biến đến đâu thì giải quyết đến đó.
Dòng thời gian cứ trôi chảy đều đặn, sóng gió Chơn Như lúc lặng lúc nổi Thầy ở trên đầu sòng lái con thuyền Chơn Như vượt trùng dương bằng những tay chèo tay lái thay đổi liên tục để bảo vệ con thuyền vượt sóng, có khi thuyền hơi nghiêng ngả một chút là các tu sinh dao động, có người quá sợ hãi bỏ thuyền, rơi xuống dòng nước bị cuốn trôi đi muôn nẻo. Ấy tất cả đều do nhân quả.
Như các tu sinh đã biết trong những khóa tu học tại tu viện Chơn Như, những học trò của Thầy đầu tiên đã có danh trong Phật giáo như thầy Chân Quang, Thầy Chân Thông, thầy Chân Giác v.v... đều là những giảng sư dạy đạo tuy theo Thầy tu chưa chứng, những vẫn nổi danh, nhất là Thầy Chân Quang như các tu sinh đều biết, kế tiếp thầy Chân Thông sau này cũng đứng một góc trời, nhưng họ chưa được Thầy đào tạo đạo đức giới luật để xứng đáng là những bậc thầy Trời Người
Thời điểm nhân duyên đúng lúc đã đến, để đào tạo những bậc Thánh đức, giới luật. Sẵn cơn sóng gió Chơn Như làm duyên Thầy liền rời khỏi tu viện để MAI DANH ẨN BÓNG, điều khiển con thuyền Chơn Như ở tầm xa.
Các tu sinh nên biết Thầy đang điều khiển từ giảng viên đến học viên, nếu tu sinh nào hay giảng viên nào sống không đúng giới luật đức hạnh, mà Thầy đã ra công biên soạn trong giáo án để giảng viên và tu sinh trở thành những bậc Thánh Hiền thì những tu sinh và giảng viên ấy đều được bỏ ra khỏi giáo đoàn Chơn Như.
Hiện nay hơn ba tháng học đạo đức, trong lớp học các tu sinh đều nhận biết rõ ràng: tu sinh nào có đạo đức và tu sinh nào không đạo đức. Những tu sinh nào học tu và áp dụng hằng ngày sống có đạo đức thì được học lên lớp giới thứ hai, còn tu sinh nào học miệng mà tâm ganh tị hơn thua bản ngã to lớn thường thấy lỗi người là tu sinh không áp dụng đạo đức sẽ ở lại học lớp Đạo Đức Hiếu Sinh, cho đến khi nào xả tâm cho thật sạch.
Chính học đạo đức giới luật là học lớp xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ đó tâm mới lần lần thưa niệm và không còn vọng niệm, hôn trầm, thùy miên nữa .
Bởi vậy đạo Phật dạy rất rõ ràng khi người mới vào tu tập chỉ có siêng năng chuyên cầu ngăn ác niệm và diệt trừ ác niệm, lúc nào tâm cũng giữ gìn và tăng tưởng tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự, chính ngăn ác diệt ác pháp mới giúp tâm lần lần bất động, cho nên sự tu tập xả tâm là một lợi ích rất lớn mà nó đã thể hiện hai phần:
- Lợi ích thứ nhất là giúp cho hành giả sống đời đạo đức nhân bản - nhân quả, thường không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, để trở thành những bậc thánh thiện trong loài người.
- Lợi ích thứ hai là giữ gìn và bảo vệ chân lí “tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự”. Nếu tâm tâm bất động ấy luôn luôn hiện tiền thì hành giả chứng quả A La Hán. Đến đây quý vị đã nhận thấy rõ sự xả tâm ly dục ly ác pháp có một tầm quan trọng nhất trên con đường tu tập theo Phật giáo.
Cho nên người tu tập Tứ Chánh Cần có hai lợi ích rất lớn, như trên đã nói: Đó là xây dựng con người mình trở thành người có đạo đức. Người có đạo đức, ác pháp không tác động và xâm chiếm thân tâm họ được, nhờ đó thân tâm họ rất an ổn.
Vì thế, tu sinh nào không biết áp dụng những bài học đạo đức vào đời sống là một điều thiệt thòi rất lớn .
Người học đạo đức là người thấy lỗi mình không bao giờ thấy lỗi người. Vì thấy lỗi người là mình còn thiếu đạo đức.
Đạo đức nhân bản – nhân quả không cho phép chúng ta thấy lỗi người. Còn thấy lỗi người là mình chưa sống đúng đạo đức.
Tất cả các tu sinh nên biết: học đạo đức là học xả tâm; là học làm người không bao giờ bị ràng buộc bởi những ác pháp; là học làm người mà ra khỏi bản chất tham, sân, si, mạn, nghi của con người.
Cho nên, những tu sinh nào sống đạo đức là không nên thấy lỗi người. Không thấy lỗi người là những tu sinh ấy được lên lớp học tập cao hơn. Lớp Tứ Niệm Xứ.
Lớp học sẽ tuyển chọn tu sinh nào xả tâm chứ không thể tuyển chọn tu sinh ức chế tâm bằng cách nhiếp tâm an trú trong xúc tưởng hỷ lạc. Vì ức chế là tâm dễ sinh các loạn tưởng nên không thể tu tập cao hơn. Tu sinh nào tu tập không xả tâm là tu tập sai Phật pháp. Tu sai Phật pháp sẽ lọt vào pháp môn ngoại đạo như thầy tổ của chúng ta tu theo kinh sách phát triển, rất uổng phí cho một đời tu tập.
Mục đích tu sinh tu tập được lên lớp Tứ Niệm Xứ là chỗ phải đạt được tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự, đó là phương pháp nhiếp tâm và an trú tâm bằng cách ly dục ly ác pháp, chứ không phải bằng cách ức chế tâm tập trung tâm vào một đối tượng hơi thở.
Khi Thầy trắc nghiệm để chọn những tu sinh được lên lớp Tứ Niệm Xứ là chỗ xả tâm. Các tu sinh nên nhớ.
Thăm và chúc các tu sinh tu tập xả tâm tốt.
Thầy của các con
HT. Thích Thông Lạc
Hỡi các tu sinh thân mến tại tu viện Chơn Như ! Ngày mãn khóa mà không có mặt của Thầy, chắc các con buồn lắm phải không?
Dù có mặt Thầy hay không có mặt Thầy, nhưng những lời Phật và những Thầy còn vang mãi bên tai của các con: “BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG TRONG SỰ TU TẬP LÀ ĐỘC CƯ” hay “THẤY LỖI MÌNH KHÔNG THẤY LỖI NGƯỜI” hoặc “TA THÀNH CHÁNH GIÁC LÀ NHỜ TÂM KHÔNG PHÓNG DẬT”. Đấy là những lời vàng ngọc luôn luôn sống bên các con thì không phải Thầy đang ở bên các con sao? Thầy đang đứng trước mặt và ở trong tâm các con đây, chỉ vì các con sống không đoàn kết, không sống đúng lời dạy nên không thấy Thầy mà thôi.
Ngày xưa khi chúng Tăng sống không đoàn kết thì đức Phật bỏ vào rừng sống một mình, đến khi chúng Tăng đoàn kết đến thỉnh Phật thì Phật mới trở về. Gương xưa còn đó thì Thầy bây giờ cũng vậy. Khi nào các con biết đoàn kết thương nhau, không nói xấu lẫn nhau thì Thầy trở về.
Hôm nay là ngày mãn khóa tu tập chứng đạt chân lí trong bảy tháng của tất cả tu sinh tại tu viện Chơn Như. Đây là khoá tu tập chứng đạt chân lí đầu tiên từ khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt đến ngày nay.
Tuy rằng các nước Phật giáo trên thế giới đều có mở các trường thiền tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ và các trường Đại học Phật giáo, nhưng chưa có một trường thiền nào và một trường Đại học Phật giáo nào trên khắp thế giới dám tuyên bố hướng dẫn tu tập chứng đạt chân lí (quả A La Hán) trong bảy tháng làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Sau bảy tháng rồng rã chăm lo tu học rất vất vả và gian nan vô cùng, trong một môi trường đầy phạm giới của nhiều tu sĩ và cư sĩ nam lẫn nữ tại tu viện, họ đã xem thường giới luật của Phật như những pháp môn không quan trọng. Họ đâu biết rằng giới luật của Phật là những bí quyết thành công trong sự tu tập chứng quả A La Hán. Bởi vì những bậc A La Hán đều được sinh ra từ giới luật.
Vì môi trường phạm giới, cho nên những tu sinh có quyết tâm tu tập trong bảy tháng để chứng đạt chân lí, phải gặp nhiều khó khăn và mệt nhọc tận cùng trong sự nhiếp phục tâm để ly dục ly ác pháp và để an trú thân tâm của mình. Nhờ có an trú thân tâm của mình được, nên mới làm chủ bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi. Có nỗ lực công phu tu tập như vậy mới xứng đáng để đền đáp công ơn dạy dỗ của Phật và không phụ lòng mong đợi của Thầy từng giờ, từng phút.
Bảy tháng tu tập trong một môi trường đầy sóng gió các tu sinh đã đem hết sức cố gắng tu tập vươn lên để chiến thắng giặc sinh tử. Thật đáng thương thay!
Nhưng có một số tu sinh không ý thức trong sự tu tập giới luật của Phật, vì giới luật của Phật là đức hạnh, là phương pháp phòng hộ bảo vệ sự tu tập cho tu sinh. Vậy mà những tu sinh không biết sự lợi ích của giới luật như vậy, thì Thầy biết nói làm sao hơn, Những tu sinh ở đây là những người lớn tuổi đáng làm anh, làm chị, làm cô bác, làm ông bà, chứ đâu phải là những tu sinh còn nhỏ tuổi như trẻ con học lớp 1, lớp 2 mà mỗi lần làm lỗi thì phải bị phạt đòn, phạt chép bài v.v...Phải không các con?
Bảy tháng tu tập trôi qua, ai tu tập đúng, ai tu tập sai, ai vô tình phạm giới, ai cố ý phạm giới, ai xem thường giới luật, ai kính trọng giới luật, ai chứng đạt chân lí, ai không chứng đạt chân lí … điều đó rất rõ ràng các con ạ!.
Bảy tháng tu tập trôi qua đã xác định những đều này cụ thể, không còn ai che dấu được ai. Dù những người tu tập chưa đến nơi đến chốn họ cũng nhận ra được.
Bởi Phật pháp là một chân lí, là một sự thật không thể lừa gạt, dối mọi người được, ai tu tập đến mức độ nào thì rõ ràng ở mức độ nấy. Ai tu tập ở mức độ nào thì kết quả lợi ích ở mức độ nấy, không thể nói hơn được, không thể dối người được. Vì kết quả rất cụ thể không mơ hồ, trừu tượng, ảo giác như kinh sách phát triển dạy.
Ngày xưa đức Phật cũng đã xác định rõ ràng 500 vị Tỳ kheo đang theo Phật tu hành, khi vua Ba Tư Nặc hỏi:
- Trong 500 vị Tỳ kheo đang theo đức Thế Tôn tu hành có chứng quả A La Hán hết hay không ?
Đức phật trả lời:
- Có 90 vị chứng Tam Minh, có 90 vị chứng Thiền Định và còn lại 220 vị chứng Giới Luật .
Như vậy trong thời đức Phật tu sĩ giữ gìn giới luật nghiêm túc, 500 vị Tỳ kheo không có người nào phạm giới, còn trong thời chúng ta thì sao? Các con hãy suy ngẫm.
Câu trả lời của đức Phật trên đây rất rõ ràng. Vậy chúng ta hãy đem so sánh lớp tu học của đức Phật và lớp tu học chứng đạt chân lý của chúng ta để xem kết quả của những người xưa tu học và kết quả của người nay tu học như thế nào?.
Thật là xấu hổ, lớp tu học của Phật ngày xưa có 500 vị Tỳ kheo, còn lớp tu học của chúng ta ngày nay chỉ có 65 người. Số lượng người tu trong thời đức Phật quá đông, nhưng giới luật nghiêm túc, còn số lượng người tu trong thời chúng ta quá ít, nhưng giới luật phạm gần hết. Đau lòng Thầy lắm các con ạ!
Trong kinh diễn tả 500 vị Tỳ kheo giữ gìn giới luật độc cư nghiêm túc, im lặng trong bầu không khí trang nghiêm thanh tịnh đến nỗi vua A Xà Thế vào thăm Phật phải ngạc nhiên, những chiếc lá vàng rơi nghe rất rõ ràng.
Trong thời đức Phật tu sĩ nào phá sự im lặng độc cư thì đức Phật đuổi ra khỏi khu vực dù là những đệ tử thân tín, tay chân như ông Xá Lợi Phật và ông Mục Kiền Liên.
Trở lại lớp học của chúng ta có bao nhiêu vị chứng thiền định; có bao nhiêu vị chứng tam minh; có bao nhiêu vị chứng giới luật. Trước tiên chúng ta xét về giới luật độc cư ( độc cư là một giới luật thu gồm tất cả giới luật của Phật, nếu ai vi phạm giới luật này là sẽ vi phạm tất cả giới luật khác).
Về giới luật trong bảy tháng tu học các tu sĩ tại tu viện Chơn Như đều vi phạm gần hết. Còn lại không hội họp, không nói chuyện bên nam chỉ có Thầy Chân Thành sư Giác Thường, Thầy Minh Nhân, nhưng cũng còn sơ sót vào những lỗi nhỏ nhặt. Còn bên nữ có sư cô Huệ Ân, sư cô Hạnh Từ, Ngọc Bình, cô Thảo và gần đây khi đọc bức tâm thư của Thầy thì có một số người cố gắng giữ gìn hạnh độc cư hơn…
Về thiền định bên nam an trú được thân tâm, làm chủ được bệnh, phục hồi được thần kinh có Thầy Chơn Thành. Bên nữ có sư cô Huệ Ân cũng an trú được thân tâm, làm chủ được bệnh, tịnh chỉ được hơi thở 15 phút.
Sóng gió Chơn Như là một bài thi trắc nghiệm để thử thách trong năm tháng đầu tu tập đã xác định, ai tâm phóng dật, ai tâm không phóng dật. Để kết luận bảy tháng tu học ai chứng đạt chân lí, ai không chứng đạt.
Như vậy trong các con, ai cũng đều biết lời đức Phật đã dạy: “TA THÀNH CHÁNH GIÁC LÀ NHỜ TÂM KHÔNG PHÓNG DẬT”. Vậy tu sinh nào tâm không phóng dật trước cảnh sóng gió Chơn Như, tâm vẫn bất động hoàn toàn, luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thì tu sinh ấy chứng đạt chân lí giai đoạn một Có đúng như vậy không các con?
Vậy trong chúng ta có tu sinh nào tâm bất động trước sóng gió Chơn Như không ?
Vậy các con hãy xem lại mình, và tất cả anh chị em đồng tu trong tu viện rồi tự suy ngẫm biết ai là người tu chứng.
Thầy không nêu đích danh những người tu chứng, nhưng đã tuyên bố những tu sinh tu tập tới đâu, kết quả tới đó và kết quả như thế nào quá rõ ràng. Tất cả các con có mặt trong tu viện hôm nay có nhận thấy kết quả này không?
Sau bảy tháng tu học này, các con rút ra một kinh nghiệm tu chứng đạt quả giải thoát, nếu ai quyết tâm tu hành tìm cầu sự làm chủ sinh, già, bệnh chết, thì không còn khó khăn, cứ đúng theo giới luật giữ gìn cho nghiêm túc, đừng vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào và quyết tâm xả từng tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi thì con đường chứng đạo tại ngay đó .
Đạo Phật không chấp nhận thần thông, cho nên chúng ta phải dẹp nó qua một bên, có nghĩa là chúng ta xem nó không quan trọng. Có thần thông hay không có thần thông cũng không sao, nó không phải là chỗ chứng đạo của Phật giáo. Các tu sinh phải hiểu chứng đạo của Phật giáo là chứng một điều gì có lợi ích giải thoát khỏi mọi sự ưu bi sầu khổ và bệnh tật nơi thân tâm mình, chứ không phải chứng đạo để mà nói suông, để mà làm chiêm tinh gia, để trở thành những nhà ảo thuật. Chứng đạo tức là làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi. Trước khi chết phải biết mình đi về đâu? ở đâu? Chứng đạo là sự thiết thực và lợi ích như vậy mới gọi là chứng đạo.
Lòng nghi ngờ và ganh tỵ của các con đã lấp mất đường lên xứ Phật, các con không tự lo tu cho mình mà vô tình hay cố ý theo quan sát Thầy Chơn Thành tu tập rồi cùng bảo nhau: “Thầy Chân Thành còn bị hôn trầm thùy miên”. Thật là buồn cười, các con biết tâm đó là tâm gì không? Tâm ích kỉ, hèn hạ, nhỏ mọn, đố kỵ, hẹp hòi v.v...
Khả năng tu hành của các con có nhập các định được chưa? Mà dám quan sát người tu an trú trong định?
Người nhập định cũng giống như người ngủ, nhưng khác xa các con ạ!
Người ngủ say không còn biết gì cả, còn người nhập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tâm an trú trong định, có một trạng thái hỷ lạc, ngồi lâu không biết mỏi mệt, nhưng có người đi đến gần đều biết, do vậy nên Thầy Chân Thành tìm cách tránh duyên rình mò của quý thầy, quý cô.
Người nhập vào một trạng thái định cao hơn Chánh Niệm Tỉnh Giác Định thì toàn bộ thân tâm đều rơi vào một trạng thái khinh an, hỷ lạc phủ trùm toàn thân tâm, nên không còn thấy biết gì bên ngoài, chỉ còn biết một trạng thái khinh an hỷ lạc mà thôi, cho nên rất giống như người ngủ say, ai đi đến không còn biết, vì thế các con làm sao biết được người ngủ, người nhập định.
Với tâm chưa thanh tịnh của các con chỉ có thể nhận được người ngủ say, qua tiếng thở mạnh, tiếng ngái ngủ “khò...khò...khò......”, còn người nhập định các con không thể nhận được, vì hơi thở quá nhẹ nhàng, nhẹ đến nổi mà chính người nhập định còn không nghe huống là người đứng bên ngoài nhìn vào mà biết gì gọi là hôn trầm, thuỳ miên, vô ký ngoan không, hôn tịch v.v....
Còn những người nhập vào định tưởng bị hành tưởng lưu xuất nên thân lúc lắc rung động hoặc thân cúi xuống ngẩng lên giống như người bị hôn trầm, nhưng không phải hôn trầm.
Cho nên những điều các con nói về Thầy Chơn Thành ngủ là sai hết. Thầy Chơn Thành có cái sai là ngay từ lúc đầu ngồi thiền không được sửa thân ngay thẳng, nên khi gôm tâm an trú vào trạng thái khinh an, hỷ lạc thì cổ Thầy cúi xuống, lưng thụng, do hình tướng này mà các con bảo Thầy ngủ là các con đã nhận lầm, xét sai.
Khi đang tu tập mà có duyên sự đi ra ngoài thì cần phải giữ im lặng như Thánh, phòng hộ sáu căn đừng để tiếp xúc sáu trần, tức là đừng để phá hạnh độc cư, nếu không phòng hộ tâm thường phóng dật dính mắc trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, do đó tính tò mò hay hỏi han chuyện này chuyện kia. vì hỏi han chuyện này chuyện kia nên sinh ra nói chuyện nhiều, người nói chuyện nhiều là người mất sức tự chủ khiến cho người nghe đánh giá trị tâm còn tham, sân, si. Đúng vậy khi tu chưa xong mà phá hạnh độc cư, thiếu sự phòng hộ là tâm còn tham, sân, si chưa xả sạch, nên chuyện gì cũng muốn biết. Nếu Thầy Chơn Thành giữ trọn những điều này thì Thầy đã chứng đạo từ lâu.
Thầy Chơn Thành có sức an trú rất mạnh trong định, nên đẩy lui được những bệnh hiểm nghèo như: bệnh đau răng, bệnh đi cầu ra máu, bệnh bán thân, bệnh rối loạn thần kinh, như các con đều biết trong chuyến đi thăm HT Thanh Từ tại thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, Thầy Chơn Thành đã bị rối loạn thần kinh vì quá chế ngự tâm để đối trị cơn dại sóng xe, hơn một ngày đêm Thầy sống vô phân biệt, như một người vô tâm. Nhờ sự khéo giúp đỡ của Thầy, Thầy Chơn Thành đã tự mình phục hồi thần kinh mà không tốn một viên thuốc nào cả.
Như vậy sau bảy tháng Thầy khích lệ và hướng dẫn kỹ lưỡng cách thức tu tập xả tâm cho các con. Hôm nay các con đã mang lại những kết quả thực tế và có lợi ích rất lớn cho đời sống của các con.
Trong khoá tu tập bảy tháng đã xác định kết quả các pháp môn tu tập, nhất là người tu tập mang lại những kết quả thực tế lợi ích cụ thể. Nhưng vì khoá đầu tiên nên lòng tin của những tu sinh không được trọn vẹn vì thế số người chứng đạt chân lí còn quá ít:
1- Tuệ Tam Minh thì chưa có người
2- Định an trú làm chủ bệnh, tịnh chỉ hơi thở có: Thầy Chơn Thành, sư cô Huệ Ân.
3- Giới luật độc cư có Minh Nhân, cô Thảo, Hạnh Từ, Ngọc Bình…
Bất cứ người nào thích sống một mình và giữ gìn giới hạnh độc cư trọn vẹn thì người ấy sớm muộn gì họ cũng sẽ chứng đạo. Bởi vì qua những kinh nghiệm tu hành của Thầy từ lúc lên Chân Không, sống ở Hòn Sơn và khi trở về Trảng Bàng nhập thất đều sống độc cư trọn vẹn, nhờ thế Thầy tu chứng đạo. Cho nên có người hỏi Thầy tu hành chứng đạo có bí quyết gì không?
Thầy trả lời: “Độc cư là bí quyết của thiền định”. Độc cư tức là giới luật, nhờ giới luật mới ly dục ly ác pháp. Nhờ có ly dục ly ác pháp mới tu tập thiền định không bị ức chế tâm, nên không bị rối loạn thần kinh. Cho nên đức Phật dạy: “GIỚI SINH ĐỊNH”, chứ không phải tu thiền định mà có định. Chỗ này các Tổ đã không hiểu, nên bỏ giới tu thiền định, vì thế tu hành mà không có người nào tu chứng quả A La Hán. Và tất cả tu sĩ lần lượt tu tập đều phạm giới, phá giới, xem thường giới luật, biến giới luật thành pháp luật “CẤM”. Từ cái sai này đến cái sai khác khiến cho Phật giáo mất đường tu chơn chánh.
Người tu sĩ Phật giáo hiện giờ không còn tự giác, tự nguyện sống trong giới luật mà bị bắt buộc thế này thế khác theo giới luật. Ngày xưa trong thời đức Phật một người muốn tu tập theo Phật giáo là phải sống biệt trú trong bốn tháng để tự mình sống có nỗi những giới luật của Phật hay không? Nếu sống nỗi thì đức Phật và chúng Tăng chấp nhận mới trở thành người tu sĩ, người đệ tử của Phật, còn nếu sống không nỗi thì cứ về đời sống bình thường như mọi người khác. Cho nên giới luật Phật không phải là giới cấm mà là đức hạnh của một người tu sĩ. Người tu sĩ phải tự giác, tự nguyện sống đời sống giới luật mới chính là người tu sĩ của Phật giáo.
Ở đây, Thầy không bắt buộc các con phải theo Thầy tu tập mà các con tự giác, tự nguyện theo Thầy. Cớ sao các con lại phạm giới nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Như các con cũng đã biết không nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là luôn luôn lúc nào các con cũng thấy lỗi người không thấy lỗi mình. Cho nên văn thơ của các con đã viết ra là biết các con đã không theo đúng lời Phật dạy, tu theo Phật mà không đúng theo lời Phật dạy thì tu làm sao giải thoát được. Phải không các con? Phật dạy: “CÁC PHÁP ÁC KHÔNG NÊN LÀM, NÊN LÀM CÁC PHÁP THIỆN HAY THẤY LỖI MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI” Như vậy tu sinh tu học giới nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng ở đâu? Trong kinh Pháp Bảo Đàn có dạy: “Gió động, phướng động hay tâm các con động?” Đó là Thiền Tông mà còn dạy tu tập như vậy, huống là Phật giáo nguyên thủy. Đấy là các con phạm giới mà các con có biết không?
Ăn, ngủ, độc cư các con có giữ trọn vẹn đâu? Sáng, trưa, chiều nếu cần gì thì đi ra quán mua sắm hay gửi người khác mua để người dân cả xóm Gia Lâm chê cười tu sĩ tại tu viện Chơn Như giống như người đời. Các con có biết không?
Các con có biết bí quyết thành công trong sự tu tập là gì không? Vậy mà lúc nào cũng tập họp nói chuyện, Thầy đã mõi mệt lắm rồi. Thầy muốn ra đi vì mình không có duyên với chúng sinh, cho nên dạy các con không nghe. Dạy các con không nghe lời. Vậy còn ở lại đây làm gì?
Nếu trong khoá tu tập bảy tháng chứng quả giải thoát mà không có người tu chứng thì Thầy xin từ giả các con, nhưng may mắn thay lại còn có một vài người giữ gìn giới luật nghiêm túc, còn có một vài người có đủ định lực làm chủ bệnh, làm chủ hơi thở. Đấy là cái duyên chưa dứt, chúng sanh còn có một chút ít phước. Nếu khóa tu này không người chứng quả giải thoát thì Thầy sẽ ra đi và vĩnh biệt các con.
Những tu sinh trong khóa tu tập này có những định lực làm chủ thân tâm và bệnh tật, họ rất xứng đáng là những người thay Thầy đứng dạy những lớp Thọ Tam Quy, những lớp Thọ Ngũ Giới và những lớp Thọ Bát Quan Trai.
Từ đây chương trình giáo dục đào tạo của Phật giáo được triển khai đúng mức có khoá tu học, có thời gian nhất định để đào tạo những người có đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Có trường lớp dạy đạo thì phải có thời gian nhất định. Theo thời gian của chương trình giáo dục đào tạo mà đức Phật đã dạy: bảy ngày, bảy tháng và bảy năm.
Vậy chương trình dạy đạo ngắn ngày nhất từ một ngày đến bảy ngày, như vậy lớp dạy Thọ Tam Quy, lớp dạy Thọ Ngũ Giới và và lớp dạy Thọ Bát Quan Trai có thể tổ chức trong mỗi tuần lễ vào ngày chúa nhật, trong mỗi tháng có bốn ngày.
Riêng lớp Thọ Bát Quan Trai có thể mỗi tháng tổ chức cho quý Phật tử tu tập 7 ngày liên tục để có thời gian tu tập sống hạnh độc cư, để chuyển lần họ lên lớp cao hơn và trở thành những người tu sĩ Phật giáo chân chánh.
Lớp đào tạo những người tu chứng chân lí ngắn ngày bảy tháng, sẽ tiếp tục mở cửa để đào tạo thêm những người đứng lớp dạy đạo đức nhân bản cho mọi người.
Nếu có điều kiện thuận tiện sẽ mở lớp bảy năm đào tạo những bậc A La Hán theo chương trình giáo dục Bát Chánh Đạo dạy từ lớp Chánh kiến đến lớp Chánh Định. Trong bảy năm học này, nếu tu sinh chứng đạt quả A La Hán xong thì có đầy đủ Tam Minh, chừng ấy Phật giáo chỉ còn là nền đạo đức nhân bản – nhân quả chung của nhân loại, chứ không còn là tôn giáo nữa.
Lớp tu học bảy năm là lớp tu tập căn bản nhất của Phật giáo, đào tạo từ căn bản đến chứng đạo theo chương trình tu tập mà Thầy sắp soạn thảo. Thời gian có quy định rõ ràng tu sinh tu học bảy năm tốt nghiệp là chứng quả A La Hán. Nếu tu sinh nào tu học suốt bảy năm mà không chứng quả A La Hán thì được xem là thi rớt. Và khi thi rớt thì không còn tiếp tục học lại nữa, phải rời khỏi tu viện.
Tu Viện được xem là trường đào tạo những bậc A La Hán, nếu tu sinh nào được nhận vào tu học mà không lo tu học, lại chểnh mảng, phạm giới, phá giới sống theo kiểu dục lạc thế gian, đến khi mãn khóa không chứng quả A La Hán, thì tu viện không còn chấp nhận cho những tu sinh ấy tiếp tục học lại do hạnh kiểm quá xấu. Còn những tu sinh nào sau bảy năm tốt nghiệp không chứng quả A La Hán mà hạnh kiểm tốt tức là những tu sinh ấy giới luật giữ gìn nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, những tu sinh ấy được tu học lại khóa thứ hai. Khoá thứ hai mà không tu chứng quả A La Hán thì tu sinh ấy phải rời khỏi tu viện, chứ không còn chấp nhận cho tu học lại khóa thứ ba.
Sức khỏe Thầy tuy có giảm nhiều nhưng vì chúng sinh quá đau khổ mà Thầy đâu nở lòng nào bỏ đi. Vậy Thầy mong các con hãy tu tập để sớm chứng đạt chân lí không phụ ơn Phật, ơn Thầy.
Nếu hằng năm những lớp học đạo đức và những lớp đào tạo những người tu chứng đạt chân lí được sinh hoạt đều đều, Chánh pháp của Phật đã làm sống lại thì ước nguyện của Thầy đã viên mãn.
Tất cả các pháp đều vô thường, có sinh phải có diệt, thân Thầy cũng vậy. Các con hãy tiếp tục thay Thầy dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả cho nhân loại, và cứ đời này nối tiếp đời khác đừng để chánh pháp của Phật mất đi thì rất tội nghiệp cho chúng sinh các con ạ!
Chánh pháp của Phật đã dựng lại được, ngày ấy Thầy sẽ từ giả các con và Thầy chỉ còn một đời sống này nữa mà thôi. Có nghĩa là khi Thầy bỏ xác thân này là vĩnh viễn không còn tái sinh lại cõi thế gian này nữa. Vậy lúc bậy giờ các con ở lại mạnh giỏi phải luôn luôn thương yêu nhau hơn, phải đùm bọc đừng sống chia rẻ, phải đòan kết chị ngã em nâng và lá lành dùm lá rách mới là không phụ lòng thương yêu của Thầy.
Thân thương chào các con chúc các con tu hành xả tâm cho thật tốt, chứng đạt chân lí dễ dàng hơn.
Thầy của các con
Ngày 15 tháng 7 năm 2007
Kính gửi: Các tu sinh.
Nói đến tăng đoàn Chơn Như là nói đến những người con Phật, có ý chí quyết tâm tu hành chứng đạt chơn lý, để làm sống lại con đường chánh pháp của đức Phật, nhất là sẽ mang nền đạo đức nhân bản bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh của đức Phật, bằng thân, giáo thuyết giáo đi khắp mọi nơi để truyền đạt tư tưởng đạo đức ấy.
Với mục đích cao cả và quan trọng ấy, vì lợi ích và sự an vui của loài người, người tu sĩ trong giáo đoàn Chơn Như không lùi bước trước bất cứ những gian nan, khó khăn nào, luôn luôn tiến bước để đem lại sự lợi ích ấy cho muôn người, muôn loài.
Tăng đoàn Chơn Như không phân biệt các hệ phái tôn giáo Phật giáo cũng như các tôn giáo giáo khác. Khi muốn xin gia nhập vào tăng đoàn Chơn Như các tu sĩ đã xuất gia trong các hệ phái của mình từ sa di đến tỳ kheo thì không phải xin xuất gia trở lại, mà chỉ cần làm đơn xin gia nhập và một bản cam đoan giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh và chấp nhận tu tập đúng chánh pháp của Phật mà tu viện Chơn Như đã triển khai qua sự tu chứng và làm chủ sống chết, chấm dứt luân hồi của trưởng lão Thích Thông Lạc.
Người cư sĩ Phật tử cũng như người không tôn giáo và tất cả tín đồ các tôn giáo khác muốn gia nhập vào tăng đoàn Chơn Như thì làm đơn xin xuất gia thọ Sa Di và một bản cam đoan giữ gìn giới luật tu hành theo lời dạy đúng chương trình giáo dục của tu viện Chơn Như đã đề ra. Đó là một chương trình giáo dục đào tạo những người con Phật để có đủ sức làm gương sáng thân giáo, thuyết giáo, truyền đạt tư tưởng đạo đức chánh pháp của đức Phật để đem lại sự bình an cho loài người và tất cả sự sống trên hành tinh này.
Như quý vị đều biết theo pháp luật về tự do tin ngưỡng tôn giáo của Nhà nước thì mỗi người công dân trong nước đúng tuổi trưởng thành đều có quyền tự do tín ngưỡng theo một tôn giáo nào mà mình thích, không ai có quyền cấm cản và cũng không ai có quyền dụ dỗ, Nếu ai ngăn cản và dụ dỗ người khác theo tôn giáo hoặc cấm không cho theo là vi phạm pháp luật về tôn giáo của Nhà nước. Cho nên khi quý vị đúng tuổi trưởng thành mà muốn theo một tôn giáo nào thì không cần phải xin phép ai cả, nhưng vì đạo đức làm người: “Cây có cội, nước có nguồn”, do đó khi muốn xuất gia tu hành và gia nhập vào tăng đoàn Chơn Như để chiến đấu với giặc sinh tử luân hồi thì phải xin phép cha mẹ hoặc vợ hay chồng, nếu họ không chấp nhận thì phải thuyết phục những người thân trong gia đình như cha mẹ vợ con cho họ vui vẻ bằng lòng chấp nhận cho xuất gia thì việc làm đó mới xứng đáng là người xuất gia của Phật giáo đạo đức tròn đủ. Vì xuất gia không có nghĩa bỏ cha mẹ vợ con như bốn chữ “ly gia cắt ái” mà từ xưa đến giờ mọi người đều hiểu quá nông cạn “lìa bỏ gia đình”. Nghĩa của nó ở đây là “lìa xa những dục lạc thấp hèn”. Đạo Phật là đạo đức của con người, nên nó có nền đạo đức nhân bản – nhân quả hiếu sinh, nó luôn luôn mang tình thương yêu cho mình, cho mọi người và cho tất cả chúng sinh, nhất là thương yêu những người thân trong gia đình một tình cảm và ơn nghĩa sâu nặng vô cùng như công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, cũng như tình nghĩa chung thủy chia sẻ cay đắng ngọt bùi của tình chồng nghĩa vợ. Người tu sĩ trong tăng đoàn Chơn Như có làm được như vậy thì mới mang đầy đủ ý nghĩa xuất gia tu hành làm lợi ích cho mình cho người.
Xưa đức Phật cũng vậy, khi tu hành chứng đạo xong, Ngài trở về nước độ cả cha mẹ vợ con và anh em ruột thịt trong giồng họ không bỏ một nguời nào cả. Cho nên “cắt ái ly gia” không có nghĩa là bỏ mặc không biết đến những người thân trong gia đình, đó là một điều hiểu sai, vì thế khi muốn xin xuất gia và gia nhập vào tăng đoàn là việc cần thiết về thăm gia đình và giải thích cho mọi người thân của mình để giúp họ hiểu biết con đường tu tập theo Phật giáo có lợi ích rất lớn như thế nào của kiếp làm người. Vì thế trong gia đình có người đi tu theo Phật giáo là có lợi ích rất lớn là mọi người trong gia đình hiểu rõ con đường tu tập của Phật giáo là con đường tự nguyện, tự giác, tự thắp đuốc lên mà đi, chứ không phải cầu nguyện, cúng tế, cầu siêu, cầu an như các chùa Đại thừa mê tín, dị đoan.
Cho nên việc xin phép cha mẹ cho xuất gia là một ĐỨC HẠNH LỄ ĐỘ HIẾU THẢO HIẾU SINH mà người tu sinh Chơn Như đều phải thực hiện không thể thiếu được. Còn đối với gia đình vợ con hay chồng con xin phép cho xuất gia là một ĐỨC HẠNH LỄ ĐỘ CHUNG THỦY HIẾU SINH mà người cư sĩ tu viện Chơn Như cần phải thực hiện. nhưng đừng dùng uy quyền bắt buộc vợ con hay chồng con cho xuất gia là một điều trái đạo đức chung thủy hiếu sinh mà hãy giải thích cho vợ con hiểu biết xuất gia có lợi ích như thế nào cho bản thân và gia đình.
Hiện giờ những người thân trong gia đình đều hiểu hai chữ “xuất gia”, họ hiểu theo nghĩa của các nhà Đại thừa là người xuất gia không còn biết đến gia đình cha mẹ vợ con, không trở về thăm viếng gia đình nữa. Chính vì sợ mất người thân nên họ không chấp nhận cho xuất gia hoặc vì thương người thân xuất gia tu hành khổ hạnh ép xác, chịu nhiều điều đau khổ mà không ích lợi gì.
Giới đức chung thủy mà đức Phật đã dạy mọi người trong gia đình đều phải đối xử tôn trọng, kính mến và thương yêu nhau rất rõ ràng, khi nào học đến quý tu sinh sẽ hiểu rõ. Cho nên xuất gia đâu có nghĩa “bỏ mặc” những người thân trong gia đình mà không thăm viếng.
Giáo đoàn Chơn Như ra đời không có nghĩa là thành lập một hệ phái riêng như các giáo đoàn hệ phái khác mà thành lập giáo đoàn Chơn Như với mục đích:
Thứ nhất: Ổn định cư sĩ và tu sĩ đang theo học tại tu viện Chơn Như vào nề nếp oai nghi tế hạnh.
Thứ hai: Chọn người giới đức làm sứ giả Như Lai đem nền đạo đức đến với mọi người.
Thứ ba: Chọn người biết sống một mình hướng dẫn vào thiền định chứng đạt chân lí làm nồng cốt cho Phật giáo sau này.
Thứ tư: Tu sĩ của Tăng đoàn Chơn Như đều mặc đồng phục một màu sắc, một kiểu y áo nguyên thủy như nhau không lẫn lộn với với màu y sắc áo của các hệ phái khác.
Thứ năm: Cư sĩ của tu viện Chơn Như ăn mặc đồng phục như nhau khi vào lớp học.
Thứ sáu: Tu sĩ xin xuất gia thì được trắc nghiệm sống đúng giới luật trong 4 tháng mới cho gia nhập vào giáo đoàn.
Thứ bảy: Cư sĩ thì được cho phép học và tu tập thời gian ngắn hạng hay dài hạng tùy hoàn cảnh gia đình không bắt buộc.
Do những điều trên đây mà giáo đoàn tu viện Chơn Như ra đời là để đáp ứng cho chương trình giáo dục văn hóa của loài người là một nền đạo đức nhân bản – nhân quả kịp thời đại mà xã hội đang hội nhập các nước thế giới xây dựng chung một nền kinh tế kỷ nghệ tiền tiến khoa học hiện đại.
Trong giai đoạn này chúng ta phải có một chương trình đào tạo cấp tốc những sứ giả Như Lai bằng hai hướng:
1- Chọn những tu sĩ có đặc tướng thiền định, đặc cách cho vào lớp Tứ Niệm Xứ nhập định và thực hiện Tam minh làm sứ giả Như Lai nồng cốt cho Phật giáo.
2- Chọn những tu sĩ có đặc tướng giới luật đức hạnh cho vào lớp 250 giới tỳ kheo tăng và 348 giới tỳ kheo ni học đức hạnh và oai nghi tế hạnh của 250 giới đức tỳ kheo tăng và 348 giới đức tỳ kheo ni để làm sứ giả Như Lai đem nền đạo đức nhân bản – nhân quả truyền dạy khắp nơi, đem lại hạnh phúc cho loài người.
Còn những tu sĩ không có những đặc tướng trên thì được đào tạo chính quy từ thấp lên cao, bắt đầu từ Ngũ giới, Tam Quy, Bát Quan Trai Giới, Thập Thiện, Thập Giới Sa Di, 250 giới tỳ kheo tăng và 348 giới tỳ kheo ni cùng học thêm những giới kinh mà trong kinh sách nguyên thủy đã còn để lại muôn đời cho những hậu thế mai sau.
Cho nên việc thành lập giáo đoàn Chơn Như không phải thành lập một hệ phái mới mà chỉ là mong muốn đào tạo những tu sĩ chân chánh của Phật giáo nguyên thủy để còn đi ra làm lợi ích cho mọi người.
Còn riêng những tu sĩ không xin gia nhập vào giáo đoàn đều được dự vào các lớp đạo đức Ngũ Giới hoặc lớp Thọ Bát Quan Trai ngắn hạng hay dài hạng đều được tu viện chấp nhận cho học tập nhưng phải cố gắng giữ gìn giới luật để chuẩn bị lên những lớp học cao hơn.
Còn riêng tất cả cư sĩ Phật tử ở xa hay ở gần đang theo dự lớp học đạo đức hiếu sinh và lớp học ly tham đều được tu viện chấp nhận cho tu học được bao nhiêu ngày đều quý bấy nhiêu ngày, nhưng phải cố gắng giữ gìn giới luật của người cư sĩ cho nghiêm chỉnh để tu viện đi vào nề nếp.
Khi cư sĩ về tu viện thì nên tập những giới luật về đời sống tại tu viện để cùng hòa hợp với chúng ở đây.
Đến đây quý vị không còn thắc mắc điều gì nữa về giáo đoàn phải không? Nếu còn thì xin quý vị cứ thưa hỏi đừng để thắc mắc trong lòng.
Thăm và chúc quý vi thân tâm thường an lạc và nhớ giữ gìn đức hiếu sinh thì ngay đó là tâm giải thoát.
Thầy của các con
(Ngày 5-1-2008)
Kính gửi: Kim Quang
Để trả lời những câu hỏi của con:
1- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là lối hành văn của người Trung Hoa còn lối hành văn của người Việt Nam thì dùng đảo ngược lại TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM.
2- Theo pháp hành văn của người Việt Nam thì TĨNH GIÁC trước rồi sau mới CHÁNH NIỆM. Cho nên khi đọc CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là biết người ta dùng theo Hán văn, còn khi đọc TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM thì người ta biết dùng theo Việt văn. Cụm từ này chỉ có một nghĩa chứ không có hai nghĩa.
3- Trong TĨNH GIÁC đã có nghĩa CẨN THẬN, cho nên dùng TĨNH GIÁC thì không dùng CẨN THẬN.
4- Dùng từ CẨN THẬN thì không đi đôi với CHÁNH NIỆM được, vì CẨN THẬN có TÀ có CHÁNH, nếu muốn dùng với từ CHÁNH NIỆM thì phải thêm từ “TRONG”. CẨN THẬN TRONG CHÁNH NIỆM
5- Từ CẨN THẬN nó mang theo hai tính chất chánh và tà như trên đã nói: CẨN THẬN TRONG CHÁNH NIỆM hoặc CẨN THẬN TRONG TÀ NIỆM.
6- TĨNH GIÁC có sự thanh tịnh và bình tĩnh nên thường dùng TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM chứ không dùng TĨNH GIÁC TÀ NIỆM.
7- TĨNH GIÁC là một giới đức trong pháp môn QUÁN VÔ LẬU của Phật giáo nên nó có phương pháp tu tập, vì thế nó có sức gạn lọc tâm tư thanh tịnh không còn các ác pháp và trong khi tu tập nó còn có một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước các ác pháp nó rất định tĩnh. Nếu tu tập đúng đặc tướng.
8- Đức CẨN THẬN không có phương pháp tu tập, chỉ hằng ngày tập sống CẨN THẬN mà thành thói quen, nên nó không có phương pháp gạn lọc tâm tư trong sạch toàn thiện. Vì vậy, trong các pháp ác nó vẫn có sự cẩn thận, cẩn thận để tăng trưởng ác pháp.
9- Trong bài “TÂM HỒN CAO THƯỢNG”:
Đáp án thứ 2: Vì cô bé THIẾU ĐỨC CẨN THẬN Ý HÀNH, nhớ lại quên đem sách âm nhạc nên lo lắng, nhưng ở đây tác giả dùng chữ “hoảng hốt” không đúng, vì hoảng hốt là phải có đối tượng gây ra ấn tượng sợ hãi giao động tâm quá mạnh còn mới quên hay nhớ, đó là một trạng thái bình thường làm sao có sự hoảng hốt như vậy. Cho nên đáp án 2 cô bé THIẾU ĐỨC CẨN THẬN Ý HÀNH là đúng.
Đáp án 3:Cô bé THIẾU ĐỨC TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM Ý HÀNH là đúng, vì lúc bấy giờ cô bé không còn bình tĩnh quá sợ hãi
10- TĨNH GIÁC và TỈNH THỨC khác nghĩa, khác hình dạng chỉ có đồng âm. Chữ TĨNH GIÁC dấu ngã ( ), chữ TỈNH THỨC dấu hỏi (?).
Chữ “GIÁC” có nghĩa là “GIÁC NGỘ” mà GIÁC NGỘ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện. Nên chữ “GIÁC” có nghĩa là “QUÁN XÉT” hay “SUY XÉT”
Chữ “THỨC” có nghĩa là tỉnh táo biết rất rõ nhưng không phân biệt pháp nào thiện hay pháp nào ác. Thiện ác hai pháp như nhau, nên chữ “THỨC” có nghĩa là “TẬP TRUNG”
11- Pháp TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM trong kinh Phật dạy dùng sức “BÌNH TĨNH” quan sát phân biệt các pháp nào thiện để tăng trưởng và ngăn chặn, diệt trừ các pháp nào ác để “XẢ TÂM”, đó là để giúp tâm bất động trước các pháp ác; là để giúp tâm thanh thản, an lạc và vô sự; đó là để bảo vệ CHÂN LÝ nơi bất sinh bất diệt của loài người.
12- Pháp TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM trong kinh Phật dạy dùng sức “TỈNH TÁO” tập trung tâm vào một đối tượng duy nhất để thực hiện “NHIẾP TÂM” và “AN TRÚ TÂM” luyện nội lực “TỨ THẦN TÚC”
13- Vì thế chúng ta phải hiểu: TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM là pháp môn dùng để XẢ TÂM. Còn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dùng để NHIẾP TÂM LUYỆN TẬP NỘI LỰC.
14- Trong TĨNH GIÁC không có TỈNH THỨC, vì có TỈNH THỨC thì TĨNH GIÁC mất cũng như trong TỈNH THỨC không có TĨNH GIÁC, vì có TĨNH GIÁC thì TỈNH THỨC mất. Cho nên hai pháp này không phải là một pháp mà hai pháp môn. Hai pháp môn này là hai giai đoạn tu tập của Phật giáo “GIỚI, ĐỊNH”. Vì thế, các con đừng hiểu lầm lạc. Hiểu lầm lạc là không biết đường tu tập.
15- Các con nên nhớ kỹ: Pháp môn TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM dùng để tu tập TỨ CHÁNH CẦN xả tâm phần thô; còn Pháp môn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dùng để tu tập TỨ NIỆM XỨ luyện nội lực thiền định để xả tâm phần vi tế.
16- Người tu tập mà hôn trầm, thùy miên còn nhiều, nếu muốn phá hôn trầm thuỳ miên thì không nên ngồi nhiều mà nên đi kinh hành theo pháp môn TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM xả tâm, chứ không được tu tập theo pháp môn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM, vì tu tập TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dễ rơi vào trong trạng thái “KHÔNG” ngoan không.
Hôn trầm, thùy miên và vô ký là một trạng mất tỉnh giác, một trạng thái si mê, một trạng thái lười biếng, vì thế phải bằng mọi cách nhiếp phục cho được, hoàn toàn trong giờ tu tập không bao giờ còn có bóng dáng của nó thì mới mong tiến tới tu tập tới các pháp môn khác, nếu hôn trầm thùy miên tu tập chưa xong thì đừng mong tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì tâm phải không còn niệm vọng tưỏng và hôn trầm thùy miên nữa.
Chúc các con tu tập xả tâm rốt ráo để thành công tốt đẹp.
Thầy của các con
Kính thưa Thầy, Con xin trình Thầy cách con hiểu và cách con tu tập trong thời gian gần đây.
Mỗi lần ngồi con ngồi 30 Phút. Đầu tiên khoảng 1 phút để ý sự bất động và thanh thản rồi sau 1 phút con mới tác ý câu: thân tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự.
Sau đó con ngồi như ngồi chơi nhưng để ý những niệm xẹt ra, khi có niệm con dùng con phương pháp vô lậu quán niệm đó đem đến khổ mình, khổ người và khổ cả hai như thế nào .
Quán xong con lại tác ý câu trên thân tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự cứ như vậy suốt 30 phút con ngồi .
Thầy có dạy con đầu tiên phải nhiếp tâm cho được 30 Phút rồi mới đến an trú, và sau cùng là diệt hôn trầm .
Xin Thầy cho con hỏi cách tu của con ở trên của con có phải là đang tu giai đoạn nhiếp tâm phải không thưa Thầy và cái quan trọng là tu như vậy có phải là tu nhiếp tâm hay không?
Đáp: Theo pháp tu tập Tứ Chánh Cần còn niệm còn quán là còn đang NHIẾP TÂM. Hết niệm hết quán là đang AN TRÚ TÂM. Đúng là con tu tập Tứ Chánh Cần NHIẾP TÂM
Hỏi 2: Những người tu sinh khác tu tập nhiếp tâm là lấy hơi thở hoặc thân hành ngoại làm đối tượng nên họ bắt đầu từ từng động tác, từng hơi thở rồi đến từng 1 phút, từng 5 Phút, 10 phút rồi 30 phút. Còn con tu Tứ chánh cần có cần tu từng phút một không thưa thầy hay là có thể như con trình bày đặt ra 30 phút ngay cho mình và ngồi tu . Xin Thầy chỉ dạy cho con rõ. Tu như con có bị hỏng chân hay không thưa Thầy ? Con cảm thấy con thích tu như vậy thì thiệt ra con thấy niệm vọng tưởng không có nhiều chỉ còn vào niệm trong 30 phút, có khi thì chả thấy niệm nào
Đáp: Tu Tứ Chánh Cần là ngồi chờ niệm đến để quán xả niệm, nên thời gian tu tập phải từ 30 phút đến 1 giờ .
Hỏi: Trong lúc ngồi đợi niệm khởi ra con nhận thấy có vào niệm con không phân biệt được thiện ác, có tính tham sân si mạn nghi như thế nào ? Vậy thì con phải làm sao thưa Thầy ? Hoặc con phải lấy bút và giấy ghi lại để trình Thầy sau này ? Kính mong Thưa Thầy .
Đáp: Con nên ghi lại những niệm ấy rồi trình để Thầy giải trình cho, nhờ đó tri kiến con thông suốt
Hỏi: Về nghĩa an trú con hiểu rằng sau khi con ngồi tu nhiếp tâm thuần thục thì lúc đó con đã chuyển sang tu an trú vì theo như con thấy lúc bắt đầu vào tu con tác ý câu : Tâm bất động .. sau đó ngồi chơi chờ niệm khởi ra hoặc thấy tâm lờ mờ thì tác ý để cho tâm tỉnh thức lại, còn nếu tâm tỉnh táo và không khởi niệm gì thì suốt 30 phút đó con đã an trú vì lúc này con chỉ ngồi tác ý có 1 lần ban đầu mà thôi con không biết cách tu như trên có đúng không thưa Thầy? Và cái mà con cho là an trú thì có đúng theo nghĩa Thầy dạy cho con không ?
Đáp: Đúng, tu tập an trú chỉ tác ý một lần đầu rồi ngồi im lặng bất động cho đến hết giờ không có một niệm và hôn trầm thùy miên nào xẹt vào
Hỏi: Con có cảm nhận là nếu con tu đúng nhiếp tâm được và an trú đúng thì hôn trầm thùy miên cũng sẽ không còn chứ không cần phải diệt hôn trầm thuỳ miên. Vì con thấy vài ngày nay hôn trầm thùy miên giảm các giờ giấc lúc xưa bị hôn trầm khó tu nay đã thấy dễ tu hơn. Con không biết phải như vậy không thưa Thầy?
Con chỉ mới hiểu đến đây qua bao nhiêu lần tu sai hoặc không hiểu rõ những lời Thầy dạy. Hôm nay con trình Thầy cái hiểu cạn cợt này để Thầy chỉ sửa lại cho con để con biết chắc cái nào cái nào đúng để tu tập có kết quả hơn .
Nếu Thầy trả lời bằng thơ cho con thì xin Thầy gởi lại bức thư của con để con có thể biết biết là câu trả lời của Thầy là trả lời cho câu hỏi nào.
Con cám ơn Thầy - Kim Quang
Đáp: Đúng vậy, khi tu tập nhiếp tâm và an trú tâm đúng thì sức tỉnh giác rất cao nên không bị hôn trầm thuỳ miên. Còn tu tập sai thường dễ bị hôn trầm thùy miên do sức tỉnh giác không có, do tiêu hao năng lượng, do dụng công ức chế tâm nhiều, do thức nhiều mà không chịu xả nghi ngơi lấy sức
(12-4-2008)
Kính thưa Thầy!
1- Có phải rằng sau khi Phật chứng đạo vào buổi khuya và sáng sớm lúc trời tối đức Phật vẫn đi kinh hành? Mục đích của việc đi kinh hành này là gì? Vì con nghĩ đức Phật hết hôn trầm thuỳ miên rồi thì tại sao đức Phật phải đi kinh hành vào những giờ này?
Đáp: Theo lịch sử Phật giáo thì đêm chứng đạo đức Phật tọa thiền chứ không có đi hành thiền. Cuối canh một đức Phật chứng Túc Mạng Minh, cuối canh hai đức Phật chứng Thiên Nhãn Minh, cuối canh ba đức Phật chứng Lậu Tận Minh cho đến khi sao mai mọc đức Phật đã chứng đạt làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người: sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt sinh tử luân hồi, nên đức Phật nói: “Này kẻ cai tù ơi! Ta đã nhìn thấy người. Từ bao nhiêu kiếp rồi, ngươi đã thiết lập bao nhiêu phen những nhà tù sinh tử. Bây giờ đây những bức tường bị phá vỡ. Kèo cột đã bị đập nát. Ta đã nhìn rõ mặt mũi của ngươi rồi. Từ nay trở đi, người không còn xây một cái nhà tù nào nữa”. Làm chủ thân tâm sống chết tự tại như Phật mà không làm chủ hôn trầm thùy miên là nghĩa lý gì?
Mục đích của việc đi kinh hành là phá dẹp trừ tâm si mê, lười biếng, hôn trầm, thùy miên. Đức Phật tuy tu chứng, hôn trầm thùy miên đã quét sạch mà vẫn đi kinh hành, đó là sự siêng năng để làm gương cho chúng tăng noi theo. Cho nên đức Phật đặt ra thời khóa là giờ nào ngồi tu, giờ nào đi kinh hành giờ nào thư giản nghỉ ngơi rõ ràng. Và gương hạnh đức Phật áp dụng trong thời khóa rất cụ thể.
2 - Theo thời khóa tu tập thời đức Phật.
Lúc gần sáng có thời được phép nằm và hướng tâm đến thức dậy. Vậy thời gian đó có trùng với thời gian tại tu viện từ 5 giờ - 7 giờ sáng hay không? Mục đích của giờ nằm này có phải là để thư giản hay vẫn là tu?
Con cám ơn Thầy - Kim Quang
Đáp: Thời khóa trong tu viện đều dựa theo thời khóa của đức Phật, nên từ 5 giờ đến 7 giờ là thời khóa của đức Phật chứ không phải trùng. Mục đích giờ nằm này là thư giản
3, Thưa Thầy mỗi sáng sớm đi kinh hành như Phật thì phải đi kinh hành như thế nào cho đúng? Có thể trong suốt 3 tiếng con đi kinh hành hay không thưa Thầy? Con không muốn ngồi vì ngồi vào giờ này muỗi rất nhiều con nghĩ không tốt. Con thấy đi kinh hành giữ tâm bất động hay hơn.
Đáp: Đi kinh hành là đi theo pháp môn mà con đang thực hiện để xả tâm ly dục ly ác pháp; để ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp; để nhiếp tâm và an trú tâm; để thực hiện tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ.
Không cần phải đi suốt ba tiếng đồng hồ, nên tu tập theo đặc tướng hoặc tu theo trạng thái đang bị hôn trầm thùy miên, nên đi nhiều ít là do sức lực của hành giả chứ không được ức chế.
4, Khi con đi kinh hành con thấy có các trạng thái nghiêng qua nghiêng lại, nếu còn các trạng thái trên thì con vẫn đi kinh hành có được không? Kể cả đi 1 tiếng, 2 tiếng, 3 tiếng con không sợ mệt, chỉ quyết tâm đẩy lui hôn trầm, thùy miên cho hết. Con không biết sự tư duy như vậy có phải là tà tư duy không thưa THầy ?
Đáp: Được, Nên đi kinh hành để nhiếp phục hôn trầm, thùy miên và vô ký, nhưng không nên đi kinh hành liên tục 2, 3 tiếng đồng hồ, đó là ức chế thân tâm, phải đi vừa với sức của mình mà thôi, đi trong trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn để biết rõ từng niệm khởi xả tâm cho thật sạch.
5 - Có một bức thư Thầy dạy con khi lạy Phật thì cái lạy thứ hai và ba có thể quỳ không cần đứng dậy. Vậy bây giờ cách lạy trên có còn áp dụng đối với chúng con hay không?
Đáp: Còn áp dụng lạy như vậy rất tốt
6, Thưa Thầy người tu Tứ Chánh Cần khi chưa làm chủ tâm thì chưa nên tăng thời gian lên một tiếng phải không thưa Thầy?
Đáp: Người tu tập Tứ Chánh Cần suốt trong 30 phút vẫn còn một niệm khởi thì không được tăng lên một giờ mà phải tu tập cho hết sạch niệm.
HẾT
MỤC LỤC
Lời nói đầu 7
Bảng phương hướng tu học…. 11
Trả lời Kim Quang 1 22
Tâm thư gửi tu sinh I (7-10-2006) 31
Thư bác Đức Thông 34
Trả lời thư phật tử HN 1 (Nhiếp tâm…)55
Nghiệp 57
Nghiệp lành của Phật 59
Nghiệp làm sao chui vào bào thai 61
Trả lời Kim Quang 2 64
Trả lời Kim Quang 79
Trả lời Kim Quang 4 97
Trả lời Kim Quang 5 116
Trả lời Kim Quang 6 124
Trả lời Thiện Tâm 133
Trả lời Kim Quang 7 144
Trả lời Phước Tồn (23-11-2007) 145
Trả lời Thiện Tâm (22-11-2007) 149
Những lời tâm huyết 154
Phụ lục 1 179
Phụ lục 2 181
Phụ lục 3 183
Tâm thư các cu, các bác 189
Tâm thư gửi các tu sinh II (30-9-2006)200
Tâm nguyện của Thầy (19-9-2005) 210
Trả lời Tuệ Hạnh 215
Tâm thư gửi tu sinh III (7-10-2006) 219
Tâm thư gửi phật tử HN I (23-9-2006)222
Tâm thư gửi Thiện tâm (10-2-2007) 245
Tâm thư gửi phật tử tpHCM(16-2-2007) 250
Tâm thư gửi tu sinh III (21-2-2007) 260
Tâm thư gửi tu sinh IV 266
Tâm thư gửi tu sinh V (14-3-2007) 286
Bảng tuyên bố kết quả 271
Tâm thư gửi tu sinh VI (15-7-2007) 290
Trả lời Kim Quang 7 (5-1-2008) 298
Trả lời Kim Quang 8 303
Trả lời Kim Quang 9 306
ẤN TỐNG KINH RÈN NHÂN CÁCH HIẾU SINH VÀ LY THAM TẬP I, II
1- Gia đình sư cô Quảng Kính thành tâm cúng dường ấn tống in kinh RÈN NHÂN CÁCH ĐỨC HIẾU SINH tập I, II và ĐỨC LY THAM hồi hướng cho phụ thân là Nguyễn Rân chết vào ngày… tháng 12 năm 2007 được tái sinh làm người gặp được Chánh pháp của Phật để sớm tu hành giải thoát
2- Gia đình bà Lê Thị Hoa thành tâm cúng dường ấn tống in kinh RÈN NHÂN CÁCH ĐỨC HIẾU SINH tập I, II và ĐỨC LY THAM hồi hướng cho gia đình và bà con xóm làng được bình an và sớm hiểu ra đạo đức nhân bản - nhân quả.
3- Gia đình cô Diệu Linh ở Hà Nội thành tâm cúng dường ấn tống in kinh RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH tập I, II và ĐỨC LY THAM hồi hướng cho mọi người dân ở Nam Căn tỉnh Cà Mau gặp được những sách đạo đức này và thắm nhuần đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người.
DANH SÁCH PHẬT TỬ ẤN TỐNG KINH ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT
1- Nguyện Thị Đoan ĐC: Nhà C9B ngõ 19 phòng 111, phố Hoàng Ngọc Phách - Đống Đa – Hà Nội.
2- Bùi Minh Tâm, nhà số 4, ngõ 319 đường Nguyễn Tam, Hoàng Mai, Hà Nội.
3- Nguyễn Minh Nguyệt. Ngõ 90, nhà C2, phòng 301, phố Võ Thị Sáu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Xin ấn tống kinh Đường Về Xứ Phật tập X hồi hướng cho chồng và hai con gái là:
1. Đinh Xuân Tính
2. Đinh Thiên Tú
3. Đinh Kim Cương
4- Nguyễn Thị Thế, nhà số 5 – 6 tập thể nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, phố Thọ Lão, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
vvvv
DANH SÁCH
PHẬT TỬ ẤN TỐNG KINH
Gia đình cô DIỆU LÂM cúng dường in kinh
1- Chu thị Lâm Pd = Diệu Lâm
2- Nguyễn Hữu Thảo Pd= Thanh Thành
ĐC: nhà số 2, ngõ 129 đường La Thành
Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa – TP Hà Nội.
3- Nguyễn thị Trang Pd = Liễu Trang
4- Nguyễn Xuân Bình Pd = Thanh Bình
5- Nguyển Thanh Tùng Pd = Thanh Tùng
6- Nguyễn Huyền Anh Pd = Liễu Anh
ĐC: Nh A7 phịng 101- khu TTĐH Thủy Lợi, Quận Đống Đa, Hà Nội.
7- Nguyễn Thị Hòa Pd = Liễu Thu
8- Phạm Đình Chiến Pd = Thanh Đức
9- Phạm Thu Hương Pd – Liễu Thủy
10- Phạm Thu Hiền Pd = Liễu Hiền
ĐC: Dẫy nhà T4 phòng số 7 TTBô Y Tế 138 Giảng Vỏ quận Ba Đình, Hà Nội.
11- Nguyễn Thị Kim Thanh Pd = Liễu Thanh
12- Nguyễn Quốc Minh Pd = Thanh Minh
13- Nguyễn Thị Thanh Hải Pd = Liễu Hải
14- Nguyễn Quốc DươngPd = Thanh Tâm
ĐC: Nhà số 7, ngõ 19 đường Giải Phóng Tổ 2 Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
15- Nguyễn Mạnh HùngPd = Thanh Hùng
16- Nguyễn Mai Lan Pd = Liễu Lan
17- Nguyễn Lan PhươngPd = Liễu Phương
18- Nguyễn Mai Anh Pd = Liễu Mai
19- Nguyễn Ngọc Anh Pd = Liễu Ngọc
ĐC: Số nhà 93 Hồ Văn Thuê- Phường 9 Quận Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh.
20- Nguyễn Mạnh Hưng Pd = Thanh Trúc
21- Lê Quỳnh Mai Pd = Liễu Mai I
22- Nguyễn Mạnh Hoàng Pd = Thanh Hoàng
DANH SÁCH NHỮNG GIA ĐÌNH
PHẬT TỬ TRONG TỔ ĐOÀN KẾ Ở HÀ NỘI ẤN TỐNG KINH
1- Gia đình cô Chu Thị Lâm Pd = Diệu Lâm
Nguyễn Hữu Thảo Pd = Thanh Thành
ĐC: nhà số 2, ngõ 129 đường La Thành
Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa – TP Hà Nội.
2- Gia đình cô Trần Thị Thuận Pd=Chí Hạnh
Phí Công Tôn Pd = Minh Trí
ĐC: Nhàsố 87 Thái Thịnh–Đống Đa-Hà Nội.
3- Gia đình cô Nguyễn Thị Thủy Pd=Liễu Vân
ĐC: C1- số 18 Nam Thăng Long - Tây Hồ -Hà Nội.
4- Gia đình cô Những Pd = Liễu Đạo
ĐC: 210 – C7 Nghĩa Tân – Q Cầu Giấy- Hà Nội.
5- Cô Thục Pd= Liễu Đức
ĐC: 8- M3- ngách 56 Hoàng Mai – Hà Nội.
6- Cô Phương Trâm
7- Nghiêm Xuân Trường Pd: Chánh Tâm
Số 23 – A16 T2 Bộ Công An Thanh Xuân Hà Nội.
8- Cô Đoan Pd: Từ Đức
ĐC: Phòng 110 – C9B – Ngõ 9 – Hoàng Ngọc Phách – Láng Hạ- Đống Đa – Hà Nội.
9- Gia đình cô Trình Pd: Liễu Pháp
ĐC: Số 3 – Ngách 515/70 Hoàng Hoa Thám - Ba Đình - Hà Nội.
10- Nhóm Phật tử cô Trình
11- Cô Hồ Thị Sinh Pd: Hương Ngọc
ĐC: Trần Bình Trọng – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
12- Vũ Thị Lan Pd: Thuần Tính
ĐC: Trần Nhân Tông – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
13- Cô Thuần Tâm
ĐC: 52 Nguyễn Đình Chiểu – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
14- Nhóm Phật tử Cô Đỗ thị Bính Pd: Nguyên Hòa
ĐC: Hải Phòng.
15- Cô Đinh Thị Lan
ĐC: Đ4 – Số 3 Thanh Xuân Bắc Hà Nội
16- Cô Thế
ĐC: Phố Lò Đúc – Hai Bà Trưng - Hà Nội.
17- Cô Đinh Thị Lan Pd: Nguyên Hạnh II
ĐC:Số 5 – Ngach 45/ 10 – Ngõ 445 – Lạc Long Quân – Tây Hồ – Hà Nội.
DANH SÁCH NHỮNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ Ở PHAN RANG ẤN TỐNG KINH
Các nhóm Phật tử Phan Rang, Ninh Thuận:
Địa chỉ: Phan Rang, Đông Hải, Ninh Thuận.
1- Mai Thị Phúc
2- Lê Thị Lan - Pd: Trí Lan
3- Nguyễn Thị Tư – Pd: Minh Thiện
4- Nguyên Thủy nhóm Hò Rò
- Địa chỉ: Văn Hải, Phan Rang.
5- Trần Thị Đầy – Pd: Minh Từ
6- Bùi Thị Hoa – ĐC: Bảo An, Tháp Chàm
7- Lê Văn Nhị - Pd: Minh Ngộ.
8- Diệp Lục Tỷ - Pd: Minh Pháp
Diệp Lục Di – Pd: Minh Nghĩa
10- Nguyễn thị Cảnh
- Địa chỉ: Dư Khánh, Minh Hải
11- Trần Tâm - Địa chỉ: Đông Hải, Phan Rang.
12- Nguyễn Thị Thu – Pd: Trí Phương
13-Lê Thị Thanh Kim – ĐC: Mỹ Đông, Phan Rang.
14- Nguyễn Thị L ê – ĐC: Nhơn Sơn, Văn Hải
Ước nguyện cho mẹ Bùi Thị Cang.
15- Phan Thị Thanh – Pd : Quảng Ly
16- Bùi Thị Chúc – Pd: Liễu Trúc.
17- Trần Thị Đào – Pd: Liễu Kim.
18- Tô Thị Thanh Hà – Pd: Liễu Hà
19- Trần Thị Hiện – ĐC: Phan Rang
20- Huỳnh Thị Mai – Pd: Nguyên Tịnh
21- Nguyễn Thị Liên – Pd: Liễu Châu
22- Nguyễn Thị Xoan – Pd: Thuần Tâm
23- Nguyễn Thị Lan – Pd: Liên Hạnh II
Ước nguyện cho cha chồng.
24- Lê Văn Sen – Pd: Minh Thiện II
Chúng con thành tâm dâng lên tịnh tài xin ấn tống kinh sách đạo đức của tu viện Chơn Như, với ước nguyện mọi ngưởi trên hành tinh này đều được đọc
vvvvv
DANH SÁCH PHẬT TỬ ẤN TỐNG
1- Gia đình Tâm Hương thành kính cúng dường tịnh tài in kinh “Giáo Án Rèn Nhân Cách ĐỨC CHUNG THỦY” Tổ Đoàn kết Hà Nội.
2- Gia đình Nguyễn Thị Ân thành kính cúng dường in kinh.
3- Gia đình Vũ Thị Diệu Linh pháp danh Thích Nữ Nguyên Thành cúng dường in một đầu sách “Tập 4 VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG”
4- Gia đình Nguyễn Thị Thế thành kính cúng dường in kinh Số 5 Â Tập thể nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo- Hà Nội.
5- Cháu Thích Minh Đức
6- Cháu Thích Nữ Thanh Tâm Thiện nhà số 5, đường Nguyễn Thị Định,Quận Sơn Trà Đà Nẵng.
7- Cháu Định Bảo Linh 36 tổ 8 phường Tân Mai.
8- Đặng Thị Vọng
9- Hương Ngọc
10- Liễu Tịnh
11- Nguyễn Thị Thu thành kính cúng dường in kinh
Nguyễn Thị Ân Pháp danh Nguyên Thành cùng các cháu nội ngoại:
12- Nguyễn Đức Anh số nhà 8 ngõ 73 phố Hai Bà Trưng Hoàn Kiếm – Hà Nội.
13- Nguyễn Trung Kiên số nhà 15A Hàng Cót, Hàng Mã, Hoàn Kiếm - Hà nội.
14- Nguyễn Hữu Đức nhà số 20 phố Hòe Nhai, phường Trung Trực, Ba Đình - Hà Nội.
15- Hoàng Phương Nhi số nhà 10 Ngõ 73 phố Hai Bà Trưng, cửa Nam, Hoàn Kiếm - Hà Nội thành kính cúng dường in kinh.
16- Tổ Tinh Tấn chùa Quán Xứ Hà Nội ông bà Thức thành kính cúng dường tịnh tài in kinh.
17- Gia đình Vũ Thị Thanh pháp danh Diệu Thanh số nhà 1/191 Hàng Kênh, Lê Chân, Hải Phòng thành kính cúng dường tịnh tài in kinh
18- Vũ Ngọc Khang ở Pháp thành kính cúng dường tịnh tài in kinh.
19- Lê Thị Nga số nhà 50 Cầu Đất.
20- Vũ Anh Tuấn
21- Vũ Thùy Linh
22- Vũ Hoài Nam
23- Đỗ Thị H Bích thành kính cúng dường tịnh tài in kinh.
vvvv
DANH SÁCH
PHẬT TỬ ẤN TỐNG KINH
Gia đình Diệu Linh “LÊ VĂN” xin ấn tống kinh “RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH” ước nguyện cho người dân ở Nam Căn Cà Mau gặp được sách này.
vvvvv
Những bức tâm thư được ra đời, như ánh sáng bình minh nó sẽ sua tan những bóng đêm đen tối phủ trùm khắp không gian, đang tan dần nhường lại cho một ngày tươi sáng. Bắt đầu, chim muông ca hót liếu lo trên cành để chào đón một nền đạo đức nhân bản – nhân quả ra đời đem lại hạnh phúc cho lòai người và muôn lòai vạn vật trên hành tinh này.
Sau hơn một năm rời khỏi tu viện, Thầy thường gửi những bức tâm thư về thăm và khéo nhắc nhở các con đoàn kết thương yêu nhau, lưu ý việc xả tâm ly dục ly ác pháp, đó là những pháp cơ bản trong Phật giáo. Và nhất là đệ tử của Phật các con phải chấp nhận một đời sống đạo đức giới luật, và những oai nghi tế hạnh là điều quan trọng nhất trong việc tu tập theo Phật giáo để tâm được vô lậu giải thoát hoàn toàn.
Muốn xả tâm ly dục ly ác pháp và sống đời đạo đức cho đạt được kết quả tốt đẹp thì Thầy nghĩ rằng tu viện cần phải được ổn định theo đúng chương trình Bát Chánh Đạo, chứ không thể để tu sinh tự giác tu học một cách chung chung như hiện giờ. Cho nên việc phân chia ra nhiều lớp học là cần thiết và nhất là mỗi lớp phải dạy học và tu tập với những pháp môn nào cho đúng giáo trình lớp đó và còn phải phù hợp theo căn cơ trình độ của mỗi học viên. Lớp học và những pháp môn tu học phải biên soạn theo đúng chương trình ba cấp tu học của Phật giáo: Giới, Định, Tuệ.
Giới, Định, Tuệ là ba cấp tu học của Phật giáo rất cụ thể và rõ ràng trong chương trình Bát Chánh Đạo mà không thể có một người nào dám phủ nhận đó là tu học sai con đường của Phật giáo. Vậy chúng ta nên tự hỏi:
- Cấp Giới có bao bao nhiêu lớp học; bao nhiêu bài học và bao nhiêu pháp tu tập?
- Cấp Định có bao nhiêu lớp học; bao nhiêu bài học và bao nhiêu pháp tu tập?
- Cấp Tuệ có bao nhiêu lớp; bao nhiêu bài học và bao nhiêu pháp tu tập?
Theo đúng chương trình tu học như vậy thì quý vị không còn sợ tu tập sai lạc vào kiến giải của tà sư ngoại đạo. Và như vậy quý vị ai cũng đều biết chương trình tu tập Bát Chánh Đạo có tám lớp học rõ ràng:
1-Chánh kiến
2-Chánh tư duy
3-Chánh ngữ
4-Chánh nghiệp
5-Chánh mạng
6-Chánh tinh tấn
7-Chánh niệm
8-Chánh định.
Căn cứ theo tám lớp Bát Chánh Đạo chúng tôi chia ra ba cấp:
Cấp 1:Giới luật gồm có 5 lớp như sau:
1-Chánh kiến
2-Chánh tư duy
3-Chánh ngữ
4-Chánh nghiệp
5-Chánh mạng
Cấp 2:Chánh định (Tứ Thánh Định) gồm có 2 lớp tu tập như sau:
1-Chánh tinh tấn (Tứ Chánh Cần)
2-Chánh niệm (Tứ Niệm Xứ)
Cấp 3:Chánh tuệ (Tuệ tam minh) gồm có một lớp tu tập như sau: Tứ Thần Túc (Pháp Thân Hành Niệm).
Căn cứ theo chương trình giáo dục đào tạo Bát Chánh Đạo của Phật giáo chúng tôi dựa vào giới luật đức hạnh của Phật dạy 5 lớp đức hạnh đầu tiên. Đó là những bài học và tu tập Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện.
Tam Quy là dạy về Quy y Phật, Quy y Pháp và Quy y Tăng. Vậy Quy y Phật như thế nào? Quy y Pháp như thế nào? Và Quy y Tăng như thế nào?
Quy y Phật là dạy cho quý phật tử thông suốt những gương hạnh sống đạo đức giới luật của đức Phật.
Quy y Pháp là dạy cho quý phật tử thông suốt nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người, tức là giới luật đức hạnh và các phương pháp tu tập để làm chủ thâm tâm tức là làm chủ sự sống chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.
Quy y Tăng là dạy cho quý phật tử thông suốt những gương hạnh sống giới luật đạo đức của chúng Thánh Tăng trong thời đức Phật.
Sau khi học xong những bài học Tam Quy lớp Chánh kiến xong thì quý học viên tiếp tục học những bài học đạo đức Ngũ Giới tức là học năm đức nhân bản. Như quý vị đều biết năm đức nhân bản là:
1-Đức hiếu sinh
2-Đức ly tham
3-Đức chung thủy
4-Đức thành thật
5-Đức minh mẫn
Sau khi học xong năm đức nhân bản – nhân quả này trong các lớp Chánh tư duy, Chánh ngữ thì các học viên tiếp tục học đạo đức nhân quả, đó là học mười điều lành lớp Chánh nghiệp và Chánh Mạng để những hàng động thân, miệng, ý không làm những điều ác.
Đến đây chương trình cấp 1 đã hết theo như lời đức Phật đã dạy: “Những gì thông suốt cần phải thông suốt”,tức là người phật tử tu tập theo Phật giáo cần phải thông suốt giới luật đức hạnh của Phật, chứ không phải thông suốt chuyện trên trời, dưới đất; chuyện Cực lạc, Thiên đàng; chuyện Phật Tánh, Bản thể Chơn Như v.v…Bởi hiểu như vậy là hiểu ngoài chương trình giáo dục đào tạo Bát Chánh Đạo và ba cấp: Giới, Định, Tuệ của Phật giáo; hiểu như vậy là quý vị đã hiểu sai Phật giáo.
Khi học xong chương trình cấp 1 các học viên được thi chuyển cấp, nếu đậu sẽ được lên các lớp Chánh định. Lớp Chánh Định gồm có chương trình tu tập như trên đã nói:
1-Chương trình tu tập Tứ Chánh Cần
2-Chương trình tu tập Tứ Niệm Xứ
Sau khi tu tập những lớp này xong thì học viên được thi chuyển cấp lên cấp 3 tức là lớp Chánh tuệ (Tam minh).
Lớp Chánh tuệ tức là lớp tu tập Tứ Thần Túc. Lớp tu tập Tứ Thần Túc phải được tu tập với pháp môn: “Thân Hành Niệm”. như trên đã nói. Đây là những pháp môn cần phải tu tập mà đức Phật đã dạy: “Những gì tu tập cần phải tu tập”Ngược lại chúng ta là Phật tử lại không tu pháp của Phật mà tu pháp của ngoại đạo như tập luyện thiền xuất hồn, thiền vô vi, thiền Yoga, niệm chú, niệm Lục tự Di Đà, thiền Minh Sát Tuệ, Tổ sư thiền, Như Lai thiền, dưỡng sinh, khí công, nhân điện v.v…
Chúng tôi xin nhắc lại lời Phật dạy để quý phật tử suy ngẫm những gì mình chưa làm đúng lời Phật: “Những gì thông suốt cần phải thông suốt và những gì tu tập cần phải tu tập”
Trên đây là bản đồ tóm lược chương trình giáo dục đào tạo của Phật giáo để những người tu học theo chương trình này sẽ chứng được quả vị A La Hán.
Quả A La Hán là quả Vô Lậu mà người tu sĩ Phật giáo nào cũng ước nguyện mình tu tập đạt được quả vị ấy.
Trên đây lời giới thiệu cho tập sách “Những Bức Tâm Thư” là để quý vị hiểu rõ mô hình chương trình giáo dục đào tạo của Phật giáo cụ thể rõ ràng, đúng như lời Phật dạy trong kinh sách nguyên thủy, để mọi người tu tập theo Phật giáo không còn bị giáo pháp ngoại đạo lừa đảo. Chính chương trình giáo dục này là để đào tạo mọi người trở thành những bậc “Thánh Thiện” hiện tại trong thế gian này.
Trong bộ sách này còn nhiều chỗ sơ sót, chúng tôi mong rằng các bậc cao minh, thạc đức có thấy những chỗ nào còn khuyết điểm sai, xin chỉ dạy cho để lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Kính ghi
H. T. Thích Thông Lạc
TÂM THƯ GỬI THIỆN THẢO
Ngày 26 tháng 11 năm 2006
Kính gửi: THIỆN THẢO
Muốn xin giấy chứng nhận đã xuất gia tu học tại Tu Viện Chơn Như thì con nên theo đơn xin xuất gia do Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh cấp mà ghi tên tuổi rõ ràng như sau:
Giáo Hội Phật Giáo VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA V N
Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ban Đại Diện Phật Giáo
Huyện Trảng Bàng
ĐƠN XIN PHÁT NGUYỆN XUẤT GIA
Kính gửi: Trường Trực Ban Tri Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh.
- Ban Đại Diện Phật Giáo Huyện Trảng Bàng.
Kính bạch chư tôn đức!
Con tên là: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Pháp danh: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .
Sinh ngày . . . . . . .tháng . . . . . . . . năm . . . . . . . . . .
Tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thường trú: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nay xin phát nguyện xuất gia với Bổn Sư Thế Độ là: Hòa Thượng Thích Thông Lạc, Viện chủ tu viện Chơn Như.
Con nguyện sẽ nghiêm trì giới pháp, tuân hành theo Hiến Chương và Nội quy Ban Tăng Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Kính mong quyù tôn đức từ bi chấp nhận.
Ngày…..tháng…..năm…..
Kính đơn
Sự đồng ý của cha mẹ: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . .. . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . .. . . .. . . . .. . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ……………………………………………………..
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
Xác nhận của Bổn Sư: ………………………………………..
……………………………………………………….………………………………………………......... ..…......…………………………………………………………....................................................................................................
………………………………………………………..……………………………………………………………………………………………………………………………………………
Ý kiến Chánh quyền địa phương …………………….
………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
Ý kiến Ban Đại Diện Phật Giáo Huyện………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………...........
…………………………………………………………………
………………………………………………………………..
Ý kiến Ban Tri Sự Tỉnh Hội Phật Giáo:……………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Khi tu tập có trí tuệ thì con phải dùng trí tuệ Tam minh quan sát việc làm và thời gian. Biết mình phải làm cái gì trước, phải làm cái gì sau và phải làm đúng trong thời điểm nào?
Giai đoạn này không phải là giai đoạn Thiền tông của Bồ Đề Đạt Ma “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”, giai đoạn này là giai đoạn dựng lại Chánh pháp của Phật giáo; dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo. Vì vậy việc thành lập chương trình giáo dục đào tạo những bậc A La Hán, những bậc tâm vô lậu làm chủ sinh già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi thì con phải thể hiện một bằng chứng cụ thể, chứ không thể bằng lời nói suông để lừa gạt người khác được sao!
Con tự nói mình chứng đạo là một điều rất sai, chứng đạo phải có một bằng chứng cụ thể, như đã nói không thể dùng lời nói suông được. Con có biết không?
Khi vừa tu chứng làm chủ được sự sống chết, Thầy liền dùng trí tuệ quan sát biết đó là giai đoạn vạch mặt những cái sai của kinh sách phát triển để mọi người không nhận lầm kinh sách này là kinh sách của Phật giáo; và không nhận lầm kinh sách này là kinh sách do Phật thuyết. Kinh sách phát triển là kinh sách mê tín, gây cho tín đồ sống trong ảo tưởng, hư tưởng, không tưởng v.v…Thầy vạch cái sai trong kinh sách này là giúp cho mọi người hiểu biết kinh sách Phật giáo nào đúng và kinh Phật giáo sách nào sai. Đó là mục đích dựng lại chánh pháp - nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo; đó chính là những lời từ kim khẩu Phật thuyết, chứ không có ý bài bác, chê bai kinh sách phát triển và thiền tông như nhiều người đã hiểu lầm Thầy. Nếu mọi người tu theo kinh sách phát triển và thiền tông được giải thoát là nhờ, còn không được là chịu, chứ có lợi ích gì cho Thầy đâu. Thầy thương cho mọi người đã bỏ hết cuộc đời tu theo Phật giáo phát triển và thiền tông mà có được những gì, giới luật đức hạnh sống không đúng, còn thiền định thì chỉ biết ngồi như con cóc, niệm Phật lần chuỗi như người tính sổ đòi nợ v.v… Phật đâu có lần chuỗi đeo tràng hạt như vua quan nhà Thanh Trung Quốc; Phật đâu có ngồi thiền mắt nhắm, mắt mở lim dim; Phật đâu có phạm giới, phá giới ăn ngủ phi thời. Cho nên nhìn cách sống của người tu hiện giờ thì biết tu đúng tu sai. Phải không quý vị?
Như quý vị đã biết: nhờ có kinh sách của Thầy nên hiện giờ có nhiều người biết được chánh pháp của Phật, biết được cái sai của kinh sách phát triển, biết được cái sai của thiền Đông Độ, nếu không có kinh sách của Thầy thì lấy đâu họ nhận ra được cái đúng cái sai. Cũng như trái đất tròn mà bảo rằng đừng nói trái đất tròn, cứ để tự mọi người ai muốn hiểu vuông hay tròn sao cũng được. Thật là vô lý trái đất tròn thì bảo nó tròn cớ sao bảo rằng đừng nói tròn, đó là ý nghĩa gì thưa quý vị?
Còn con tu chứng đạo mà khoe khoan với mọi người như vậy, ai tin con, con chứng đạo là phải chứng nghiệm bằng hành động sự thật chứ không phải bằng lời nói suông. Vậy con hãy nhập Tứ Thánh Định một tuần lễ cho Thầy xem đi! Có được không?
Kế tiếp là giai đoạn triển khai chương trình giáo dục đào tạo Bát Chánh Đạo, nhưng vì sóng gió Chơn Như nên Thầy ẩn bóng để đào luyện các con đứng lớp. Và có thể Thầy sẽ không ở một chỗ thường xuyên, nay chỗ này, mai chỗ khác, chỉ khi nào đủ duyên Thầy trụ lại và tạo dựng cơ sở thứ hai, nơi đào luyện người tu chứng đạo, làm nồng cốt cho Phật giáo. Vì thế giai đoạn này Thầy chỉ khuyên các con hãy triển khai tri kiến để thông suốt Phật pháp để đứng lớp có bài bản sư phạm, chứ không phải gặp đâu nói đó. Nói phải có mạch lạc, có từ thấp đến cao, có giáo trình, giáo án hẳn hoi, có nói được thì phải làm được, thân giáo thuyết giáo song hành.
Nếu Trung Tâm An Dưỡng ra đời đó là trường lớp đào tạo của Phật giáo ra đời. Vậy hiện giờ con tu chứng có trí tuệ hãy dùng trí tuệ soạn thảo giáo trình tu tập đạo đức lớp TAM QUY. Con có làm được không không? Nếu làm được mới là chứng đạo, còn làm không được thì không nên nói chứng đạo.
Khi viết được giáo trình là con có đầy đủ trí tuệ sẽ đứng dạy người tu hành có bài bản, còn nếu chưa soạn được thì Thầy giúp cho và hãy nổ lực tu tập trở lại, chứ đừng dùng ngôn ngữ nói chứng đạo mà làm trò cười cho những người hiểu biết.
Trung tâm an dưỡng ra đời mà không có người đứng lớp dạy thì Trung Tâm ra đời để làm gì? Trung tâm an dưỡng đang chờ đợi những người tu chứng quả VÔ LẬU ra đứng lớp dạy đạo đức cho mọi người. Con có biết không? Những người nói tu chứng đạo bằng miệng lưỡi là những người không xứng đáng đứng lớp dạy con ạ!
Trước đây có một đệ tử … về đây xin Thầy ấn chứng cho, vì đã tu chứng đạo. Thầy hỏi: “Nếu con trả lời đúng Thầy ấn chứng cho, bằng không thì thôi, hãy cố gắng tu lại”. Vậy con tu pháp nào có Tứ Thần Túc? Câu hỏi tuy rất đơn giản nhưng không trả lời đúng, nên từ đó về sau người đệ tử này đi biệt mất không bao giờ trở lại tu viện nữa. Còn con thì sao? Vết xe cũ còn đó, Thầy chưa bao giờ dạy các con tu tập để có Tứ Thần Túc, vì trình độ các con tu tâm chưa thanh tịnh, nên làm sao Thầy dạy tu tập có Tứ Thần Túc. Các con dối người khác được, chứ không thể dối Thầy được các con ạ!.
Đào tạo được những người đứng lớp tu chứng đạo, dạy đạo đức cho mọi người, đó là một điều cần thiết cho Trung Tâm An Dưỡng ra đời. Nếu Trung tâm an dưỡng có đủ duyên thành hình nhân sự và cơ sở như vậy thì sự phát triển đâu có khó khăn, đâu có mệt nhọc, vì có đầy đủ nhân sự đứng ra làm mọi việc cho Trung tâm. Điều này chắc chắc Trung tâm sẽ phát triển ngày một tốt đẹp hơn nhiều.
Con nên biết: trong giai đoạn hoàn cảnh này nếu con chứng đạo đứng ra dạy đạo mà kinh sách không được Nhà nước cho phép, chỉ nói miệng như thời đức Phật là con phạm vào pháp luật, Nhà nước sẽ lập biên bản, phạt tiền và phạt tù. Con đừng nghĩ tưởng thời đại này là thời đức Phật còn sống trong bộ lạc sao?
Kinh sách được Nhà nước cho phép, đó là Nhà nước chấp nhận cho con dạy thì con không phạm pháp luật. Con có biết không? Một người công dân phải thi hành đúng pháp luật của Nhà nước thì mới xứng đáng là một người công dân trong một nước độc lập.
Khi giáo trình, giáo án con biên soạn được giấy phép thì đương nhiên Nhà nước chấp nhận chương trình dạy đạo đức của con thì lúc bấy giờ con dạy ở đâu cũng không ai làm khó dễ con.
Trong thư con viết gửi Thầy là mở mang cất thất cho mọi người ở tu, nhưng con có giấy phép chưa? Còn nếu dựa vào Giáo Hội Phật Giáo thì con phải dạy theo kinh sách Đại thừa. Kinh sách Đại thừa có giấy phép, còn nếu con dạy theo cách hiểu biết của con không có kinh sách, không có giấy phép thì con phạm pháp luật.
Thời điểm này chưa phải lúc thành lập Trung Tâm An Dưỡng; thời điểm này là thời điểm đào tạo người đứng lớp tức là đào tạo nhân tài, người tu chứng đạo, người sống đầy đủ giới luật đức hạnh của Phật giáo.
Lớp đào tạo 7 tháng chứng đạt chân lí làm chủ sanh, già, bệnh, chết là để chứng minh cho mọi người biết con đường tu tập của đạo Phật có kết quả làm chủ bốn sự đau khổ thật sự, chứ không phải nói suông. Vì thế, sự tu chứng đạo của Phật giáo không phải là một giấc mơ; không phải là một sự khó khăn không làm được.
Những người được tham dự vào lớp 7 tháng có kinh nghiệm tu hành có thể được huấn luyện đào tạo đứng lớp dạy đạo đức của Phật giáo, nhưng họ phải thân giáo trong hai điều kiện:
1- Đời sống giới luật nghiêm chỉnh.
2- Nội lực Tứ Thần Túc phải đầy đủ.
Trong khóa huấn luyện này để giúp họ trở thành những giảng sư thân giáo, thuyết giáo và cũng chính họ là những người đang tu tập xả tâm rốt ráo hơn. Điều cần thiết hôm nay là những bộ sách của Thầy được Nhà nước cho phép, nếu chưa cho phép mà đi dạy đạo là phạm pháp luật.
Kinh sách Thầy chưa được Nhà nước cho phép toàn bộ, dù các con có mở 1.000 cái Trung Tâm An Dưỡng thì cũng bỏ không? Chừng nào kinh sách Thầy được Nhà nước cho phép toàn bộ thì các con đứng lớp dạy mới được an tâm.
Người có trí tuệ phải biết hai việc làm song song, đó là việc xin phép in ấn kinh sách và việc phải huấn luyện người đứng lớp dạy. Khi có giấy phép in ấn kinh sách của Thầy mà không có người đứng lớp giảng dạy thì công việc dạy đạo đức cũng vô ích. Ngược lại có người đứng lớp giảng dạy mà kinh sách không có giấy phép thì cũng chẳng có ích lợi gì.
Vậy con muốn đem chánh pháp của Phật để phát triển và dựng lại thì ngay bây giờ con phải soạn thảo giáo trình, giáo án cho Thầy xem, nếu không soạn thảo được chứng tỏ con tu tập chưa có trí tuệ, chưa có trí tuệ thì không bao giờ đứng lớp thân giáo dạy ai được. Các con nên lưu ý: Phật pháp là chương trình giáo dục đào tạo những bậc vô lậu thánh thiện, cho nên nó có tám lớp ba cấp học rõ ràng và cụ thể, vì thế nó phải có giáo trình và giáo án biên soạn hẳn hoi, chứ không thể nói miệng suông như thời đức Phật được. Vì nói miệng suông nên Phật giáo bị dìm mất từ 2551 năm nay. Nếu con thân giáo và thuyết giáo vững vàng thì ở bất cứ nơi đâu Thầy cũng giúp các con dựng lại chánh pháp của Phật một cách dễ dàng.
Thăm và chúc con mạnh, nên xét lại sự tu tập của con còn có những chỗ nào thiếu sót thì hãy tu tập kỹ lại.
Thầy của con
Kính thưa quý tu sinh tại Tu Viện Chơn Như!
Kính thưa quý vị! Trước tiên Thầy xin có lời cảm ơn tất cả tu sinh tại Tu Viện Chơn Như có những ý kiến đạo đức đóng góp vào chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh của Phật giáo.
Có rất nhiều bức thư của tu sinh gửi đến Thầy, nói về cảm tưởng của lớp học; nói về lễ nghĩa tu sinh và người giảng viên đứng lớp; nói về ưu và khuyết điểm của tu sinh trong lớp học để cùng nhau xây dựng một nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo.
Đây là một chương trình giáo dục đào tạo những bậc vô lậu A La Hán của Phật giáo rất mới mẻ khiến cho một số tu sinh không bắt kịp chương trình tu học mới, nên bệnh cố chấp đường mòn lối cũ của các Tổ xưa, đành phải bỏ lớp ra đi. Thật đáng thương thay! Rồi đây hết một kiếp người, vì bệnh chấp pháp khư khư, sự tu hành chẳng đi đến đâu, con đường tu theo Phật giáo sẽ đi về đâu ... Lịch sử Phật giáo hơn 2000 năm đã chứng minh và xác định điều này. Đức hạnh con người đang xuống dóc, những nỗi đau khổ của loài người càng ngày càng cao vút tận trời xanh.
Là một chương trình giáo dục đào tạo mới mẻ thì cần phải có những sáng kiến của mỗi tu sinh đóng góp vào lớp học, thì chương trình giáo dục đào tạo mới được hoàn chỉnh trong tinh thần đoàn kết và bình đẳng.
Có những bức thư góp ý về đức hạnh của người đứng lớp và đức hạnh của các học viên; có những bức thư góp ý về cách xưng hô giữa giảng viên và học viên; có những bức thư góp ý về cách chào hỏi nhau giữa thầy, trò và huynh đệ tu sĩ, cư sĩ, cùng một lớp, cùng một thầy, cùng một tôn giáo, cùng khác tôn giáo, cùng những người trong gia đình, cùng những người ngoài gia đình. Đó là những góp ý rất hay để chúng ta cùng hoàn chỉnh cho một lớp học đạo đức nhân bản của Phật giáo.
Trường hợp khó khăn trong giai đoạn đầu, người đứng lớp và các học viên phải chặt chẽ đoàn kết và thương yêu nhau để xây dựng lớp học của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn, chứ đừng vì tự mãn những sự hiểu biết nhỏ nhoi về Phật giáo và những pháp tu học từ lâu của mình cho là đủ và cũng đừng vì bản ngã những lỗi lầm của mình mà đánh mất một dịp may tu học hiếm có trong cuộc đời học đạo.
Kính thưa quý vị! Quý vị đã tham dự lớp học NGŨ GIỚI theo chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản mang tính thiết thực, cụ thể, rõ ràng và gần gũi với mọi người, thì chắc chắn chỗ đứng đạo đức của Phật giáo sẽ rất vững vàng, để lan rộng khắp nơi trên thế giới; để mang lại sự an vui hạnh phúc cho muôn loài trên hành tinh.
Kính thưa quý vị! Lớp học của chúng ta, người đứng lớp vừa là học viên, vừa là giảng viên và tất cả tu sinh trong Tu Viện sẽ được đào tạo như vậy hết. Bởi vì người đứng lớp chỉ để truyền đạt tư tưởng đạo đức cho học viên, nhưng về tinh thần thì học viên và giảng viên đều thể hiện nét bình đẳng trong đạo Phật rất rõ ràng. Vì thế, đức Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” Sự bình đẳng của Phật giáo rõ ràng như vậy, nhưng sự bình đẳng ấy có đạo lý, có lễ nghĩa, trật tự, tôn ti, chứ không phải bình đẳng vô đạo đức.Đó là một điều mới lạ trong chương trình giáo dục đào tạo đạo đức diệt ngã xả tâm. Cho nên hơn một tháng trôi qua lớp học mở cửa mới xác định sự diệt ngã xả tâm của tu sinh đã từ lâu tu tập thường nhắc đến DIỆT NGÃ XẢ TÂM LY DỤC LY ÁC PHÁP, nhưng đến bây giờ tìm thấy ở đâu? Đức hạnh DIỆT NGÃ XẢ TÂM LY DỤC LY ÁC PHÁP chỉ còn ở lời nói suông mà thôi.
Vì thế có một số người không chịu nổi nên phải mang y bát ra đi trong khi con đường tu tập của mình chưa tới đâu cả. Thật đáng thương thay!
Thầy mong rằng tất cả tu sinh trong tu viện hãy mạnh dạn đóng góp cho thật nhiều những ý kiến về đạo đức trong lớp học, để xây dựng giảng viên và học viên đúng tư cách đạo đức của một người đệ tử Phật. Thầy chỉ là người đúc kết những ý kiến đó thành đạo đức cho lớp học. Có làm được như vậy mới được gọi là tinh thần đoàn kết, bình đẳng cùng nhau góp công, góp sức xây dựng nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai với đạo đức hiếu sinh đầy lòng yêu thương và tha thứ.
Những bức thư góp ý xây dựng đạo đức lớp học, Thầy xin cảm ơn và ghi nhận tất cả những câu hỏi của tu sinh, lần lượt Thầy sẽ trả lời sau.
Thầy có lời thăm và chúc tất cả tu sinh rèn luyện nhân cách, tu học cho thật tốt. Một lần nữa Thầy xin có lời cảm ơn quý tu sinh đã dự lớp học đạo đức NGŨ GIỚI .
Thầy của các con
(Ngày 6 - 2 – 2007)
Kính gửi: Cô Liên Châu!
Kính gửi: Quý Phật tử TP Hồ CHÍ Minh!
Kính thưa quý Phật tử thân mến! Từ lớp CHÁNH TRI KIẾN bốn tháng tu học, kế tiếp lớp đào tạo tu học CHỨNG QUẢ GIẢI THOÁT bảy tháng và đến lớp RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH NGŨ GIỚI hơn ba tháng. Tính đến nay hơn một năm tu học tại tu viện Chơn Như, đều nhờ sự cúng dường của quý Phật tử TP Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội. Tu sinh ở đây ngày chỉ một bữa cơm, thế mà số lượng người hơn 7, 8 chục tu sinh, có khi tăng lên hơn cả 100 người. Nhờ sự cúng dường cơm ăn, áo mặc của quý Phật tử mà tu sinh được rảnh rang về đây tu học. Thật là ơn ấy rất lớn, vì thế Thầy chỉ ước mong sao các tu sinh cố gắng tu học chứng đạo để nói lên sự biết ơn của mình.
Kết quả hơn một năm tu học giáo pháp và giới luật đạo đức của Phật giáo đã được dựng lại, thành một tiếng vang khắp thế giới. Sau bốn tháng học lớp Chánh kiến, giúp cho mọi người hiểu biết về qui luật nhân quả; kế tiếp lớp bảy tháng tu học chứng quả làm chủ sanh, già, bệnh, chết đã có khả năng làm chủ được hai người; lớp dạy đạo đức hiếu sinh khiến cho tu sinh phấn chấn rèn luyện nhân cách làm người sống đúng giới luật đức hạnh hiếu sinh không làm khổ mình khổ người, nhờ đó mới phá vở những hủ tục mê tín, dị đoan, đem lại chánh kiến cho mọi người và hướng dẫn một số phật tử nhiếp tâm và an trú để tự đẩy lui bệnh tật.
Hôm nay nhân dịp Xuân về tu viện Chơn Như chỉ còn hơn 45 tu sinh, còn một số xin về ăn Tết. Đầu tháng hai vẫn khai giảng lớp mới và hiện giờ lớp cũ vẫn tiếp tục học bình thường trong những ngày Tết.
Hơn một năm học phật tử TP Hồ Chí Minh đã cúng đường cơm ăn cho các tu sinh để được an tâm tu hành, Thầy xin thành thật cảm ơn quý phật tử đã bỏ công, của cúng dường giúp Thầy chấn chỉnh lại Phật pháp, công ơn ấy rất lớn Thầy không biết nói gì hơn, chỉ biết đem sức mình biên soạn sách đạo đức nhân bản – nhân quả để làm nền tảng đạo đức của loài người để dẫn con người sống làm chủ thân tâm, biến cảnh thế gian thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc và cuối cùng Thầy ước nguyện cho quý phật tử thân tâm thường an lạc, gia đình được bình an, mạnh khoẻ và luôn luôn nhiều kiếp gặp Chánh pháp của Phật.
Một lần nữa Thầy xin cảm ơn cô Liên Châu và quý phật tử TP, nếu sang năm với số lượng tu sinh về tu học trên cả trăm người thì Thầy sẽ xin cô Liên Châu và quý phật tử TP giúp đỡ, còn bây giờ xin cô Liên Châu và quý phật tử giúp cho tu sinh 20 khẩu phần ăn đến ngày 23 Tết thì chấm dứt.
Sau hơn một năm trợ giúp Thầy in kinh sách do Thầy biên soạn và băng dĩa được phổ biến khắp nơi. Nhất là trợ giúp Thầy nuôi tu sinh tu học tại tu viện Chơn Như, lo từng hạt cơm ăn và thực phẩm rất kỹ lưỡng, công đức ấy rất lớn. Một lần nữa Thầy xin cảm ơn cô Liên Châu và quý phật tử TP Hồ Chí Minh.
Sau cùng Thầy xin có lời thăm và chúc toàn cả gia đình cô Liên Châu cùng quý phật tử TP Hồ Chí Minh một năm mới dồi dào sức khoẻ an khương thịnh vượng.
Kính thư
Thầy của các con
(Ngày 7 - 2 – 2007)
Kính gửi: Chơn Thành!
Lớp học toàn là người lớn, chứ không phải là trẻ con. Cho nên việc đứng lớp dạy khó lắm con ạ! Khi đứng lớp dạy con mới thấy làm một giảng viên dạy lớp đạo đức không đơn giản chút nào, thân giáo là điểm thứ nhất cần phải có vì đó là làm gương hạnh tất cả cho tu sinh; thứ hai là truyền đạt tư tưởng đạo đức khiến cho tu sinh dễ tiếp thu là một điều khó khi học viên trình độ hiểu biết chênh lệch; thứ ba là cho điểm xấu thì lương tâm đức hiếu sinh cắn rứt mà cho điểm tốt thì không được… chỉ vì trình độ kiến thức văn hóa không đồng đều, nên việc giảng dạy cho điểm phải khéo léo và linh động; khi cho điểm như thế nào để làm sao khích lệ tu sinh để họ tiếp tục tu tập; để họ đừng bỏ học, vì họ bỏ học rất tội nghiệp, dù không tiếp thu được nhiều, nhưng khi học đạo đức cũng đem lại lợi ích cho họ.
Thời xưa người ta theo Phật tu hành, do giữ giới mà chúng Tỳ kheo chứng đạo dễ dàng, còn thời nay Thầy nói khô cả miệng nhưng mọi người cứ phạm giới mãi, trường hợp này biết là sao hơn. Vì muốn trợ duyên cho chúng sinh bớt khổ nên duy trì các lớp tu học để khéo hướng dẫn mọi người vào giới luật đức hạnh, sống một đời không làm khổ mình, khổ người, khổ muôn vật là may lắm rồi. Phải không con?
Thầy xin nhắc nhở con: “Thấy tu sinh nào có ý nói ngoài đề thì nên nói: “Những ý đó rất hay, nhưng xin để hỏi lại ý của Trưởng Lão, chứ đừng trả lời gì cả”.
Vừa rồi có một số tu sinh hỏi về vấn đề cạo tóc và y áo, con dựa vào bản cam đoan mà trả lời thì không sai, đó là nội qui nhập học của tu viện. Nhưng con chưa hiểu biết hết các pháp Yết ma của các Tổ sau này biên soạn, họ chia ra nhiều cấp bậc tu sĩ trong Phật giáo.
Trong thời đức Phật còn tại thế chia ra là bốn giới đệ tử: 1- Tu sĩ nam; 2- Tu sĩ nữ; 3- Cư sĩ nam; 4- Cư sĩ nữ.
Cư sĩ nam gọi là Ưu Bà di và cư sĩ nữ gọi là Ưu Bà Tắt.
Còn tu sĩ nam chia ra làm hai: 1- Sa di tăng; 2- Tỳ kheo tăng.
Còn tu sĩ nữ chia ra làm hai: 1-Sa di ni; 2 - Tỳ kheo ni.
Còn các Tổ chia tu sĩ nam ra làm ba : 1- Tịnh nhân tăng; 2- Sa di tăng 3- Tỳ kheo tăng.
Còn tu sĩ nữ chia ra làm bốn: 1- Tịnh nhân ni; 2- Sa di ni; 3- Thức xoa ni; 4- Tỳ kheo ni.
Khi đọc thư Thầy các con chưa hiểu vững. Thư số 41 là bức thư răn dạy tu sinh cho nên đọc trong lớp cho tu sinh biết để đừng vi phạm, còn nếu vi phạm ba lần khuyên dạy không nghe thì âm thầm ghi vào sổ hạnh kiểm xấu đề ngày tháng vi phạm giới của tu sinh rõ ràng nhưng không cho tất cả tu sinh khác và ngay cả tu sinh phạm giới biết. Chờ đến khi lên lớp, con sẽ mời những tu sinh sai phạm giới gặp riêng rồi báo cho họ biết phải cố gắng tu học có lợi ích cho quý vị và Chơn Thành sẽ không gặp quý vị nữa. Chơn Thành dạy lớp khác và bây giờ Chơn Thành xin xé sổ hạnh kiểm xấu của quý vị. Đối với Chơn Thành chỉ có một lòng yêu thương mọi người không muốn làm cho ai khổ, nhưng làm người đứng lớp dạy phải làm hết bổn phận, phải ghi chép rõ ràng để có lời khuyên sau cùng với học viên của mình.
Còn bức thư số 40 là Thầy trả lời riêng cho cư sĩ Kim Quang, nên nó là thư số 40. Còn thư số 41 là thư răn dạy chung cho tất cả tu sinh nếu tu sinh trong lớp ai có ý kiến tâm sự như Kim Quang thì nên đọc cho họ nghe, còn không thì thôi. Theo thư số 40 xếp lớp cho những tu sinh này để làm bớt sự căn thẳng trong lớp, có lối thoát cho những tu sinh mới làm quen với giới luật. Và những tu sinh nào theo thư số 41 tu tập đúng giới luật thì ghi tên kỹ những tu sinh này để được xếp vào một lớp chuyên tu và ở một khu vực riêng để thực hiện sự rốt ráo của con đường tu.
Một giảng viên rất cực khổ trong giai đoạn đầu của những lớp học Ngũ Giới, vì đây là một lớp học quá mới mẻ, cho nên chưa ai có kinh nghiệm của người đi trước. Con và cô Diêu Quang là những người đầu tiên đứng lớp dạy như người mù cầm gậy dò đường còn Thầy thì ở sau lưng dìu dắt từng bước cho các con. Các con tin rằng Thầy và các con sẽ chiến đấu tận cùng để giành phần thắng lợi thành công về mình, nhất là để chấn chỉnh lại Phật giáo và nguyện đem lại lợi ích cho loài người.
Trách nhiệm của người giảng viên ghi đúng thành tích tu học của học viên để xếp lớp cho học viên được lên lớp hay ở lại là một điều khó, vì học viên nào cũng muốn lên lớp. Được lên lớp tu học đều đều sẽ đi đến chứng đạo, còn xếp lớp sai thì dù có lên lớp cao mà giới hạnh không nghiêm chỉnh thì cũng không chứng đạo. Tu sinh không nghiêm chỉnh giới luật sẽ làm ảnh hưởng xấu cho những tu sinh giới luật nghiêm chỉnh
Con cứ âm thầm ghi ngày tháng phạm giới của những tu sinh vi phạm mãn khoá mời riêng học viên và báo cho họ biết ráng tu học và giữ gìn giới luật tốt hơn. Đó là tình người con ạ! Đức hiếu sinh ở nơi đó.
Vì lớp học quá mới mẻ, trong lớp có điều gì thì giảng viên phải báo cáo cho Thầy hay liền để Thầy hướng dẫn kịp thời. Vì Thầy quá bận nhiều việc biên soạn giáo án để có bài các con học nên không theo giỏi và lưu ý lớp học của các con nhiều được. Vậy các con hãy xem xét mình và các học viên khác có áp dụng những bài học đạo đức vào cuộc sống hay không liền báo cho Thầy biết.
Để trả lời câu hỏi của con:
Người cha có giết con mình không? Câu hỏi này ngoài đề các con có hiểu chưa? Ngoài đề là ở bài học này, chứ câu hỏi cũng có ý nghĩa lắm
Câu hỏi của con phải đặt lại như thế này thì mọi người mới dễ hiểu.
Câu 1: - Một người đàn ông bị mông tinh có phải là người cha giết con không?
Câu 2: - Một người phụ nữ có kinh nguyệt có phải là người mẹ giết con không?
- Không. Vì tinh trùng và noãn châu không phải là con người, nên không thể là giết con, chỉ khi nào tinh trùng và noãn châu kết hợp thành bào thai thì lúc bây giờ nạo móc bỏ thai nhi mới gọi là giết con, còn khi hai chất này chưa kết hợp thành thai nhi thì chưa thể gọi là giết con.
Khi nào các con học đến giới thứ ba tức là các con học đến đức chung thủy thì Thầy sẽ dạy cho các con hiểu. Qua câu hỏi này rõ ràng về đạo đức nhân bản - nhân quả làm người thì các con như người mù rờ voi. Vậy mà không học đạo đức thì quá uổng cho một kiếp làm người. Làm người mà đạo đức của con người không biết thì thật là đáng thương!
Khi người đàn ông ở với người phụ nữ có thai mà truy phong, bỏ người phụ nữ một mình phải chịu nhiều điều đau khổ, để cho người phụ nữ đi đến móc thai là hai người đều có tội giết người, người phụ nữ chịu nhẫn nhục sinh con và nuôi con là người phụ nữ có đức hiếu sinh, còn người đàn ông bỏ con, bỏ người phụ nữ là người đàn ông thiếu đức chung thủy và giết người, còn người đàn ông chấp nhận làm cha và xin cưới cô gái làm vợ là người đàn ông chung thủy, có đức hiếu sinh, còn người phụ nữ chấp nhận móc thai nhi bỏ là người phụ nữ giết người, không có đức chung thủy, không có đức hiếu sinh.
Người thủ dâm chưa phải là người giết con, dù nam hay nữ, vì duyên chưa hợp đủ thì làm sao gọi thành người được mà giết con. Trong Thập nhị nhân duyên dạy rất rõ, phải hợp đủ duyên, một mình người đàn ông chưa đủ duyên làm sao giết người.
Sau khi học lớp thứ III về NGŨ GIỚI thì các con sẽ rõ, còn đây là lớp thứ nhất của NGŨ GIỚI. Nên học ở lớp đức hiếu sinh để áp dụng vào đời sống cho tâm hồn được thanh thản, an lạc và vô sự là lợi ích lớn, còn lớp học này chưa áp dụng đức hiếu sinh mà muốn hiểu mênh mông chẳng ích lợi gì chỉ nói suông chơi mà thôi,
Hành động thủ dâm sẽ dạy các con ở lớp thứ V về NGŨ GIỚI lớp học đạo đức minh mẫn. Dâm dục, thủ dâm, tưởng dâm đều thuộc về loại ghiện ngập như rượu, thuốc lá, thuốc phiện, cà phê v.v...
Làm giảng viên phải thương học viên và học viên phải thương giảng viên vì những ngày tháng gần gũi trao cho nhau những điều lợi ích cho nhau làm sao quên nhau được, khi vui cũng có nhau, khi buồn cũng có nhau phải chia sẻ nhau đừng ôm ấp trong lòng mà khổ đau. Các pháp đều vô thường phải buông xuống đi chỉ có một lòng yêu thương, người nào còn phạm giới, còn sai quấy phải thương nhiều hơn vì con đường giải thoát của họ còn xa lắm. Bởi vậy đức hiếu sinh rất cần thiết cho đời sống tu hành buông xả ly dục ly ác pháp; để tiến đến tâm bất động hoàn toàn, để tiến đến tu tập Tứ Thần Túc. Và như vậy mới làm chủ sinh, già, bệnh, chết không còn khó khăn.
Thăm và chúc con mạnh khỏe sớm đạt được kết quả như ý, nhất là nhớ xả tâm cho rốt ráo, bất động hoàn toàn.
Thầy của con
Kính gửi: Chơn Thành
I/ Giảng viên phải lưu ý: khi cho điểm về bài học thì không công bố cho học viên biết, trừ ra bài làm chấm điểm phải trả lại cho học viên và ghi điểm vào sổ, do đó học viên biết điểm chứ không có công bố điểm. Mỗi tuần lễ lấy điểm cộng lại rồi chia cho số cột điểm, rồi lấy điểm trung bình đó mà sắp hạng cho học viên nhất, nhì, ba, tư … Ba tháng học có một kỳ thi lên lớp. Thi lên lớp có hai phần:
1/ Phần thi viết. (Có đề bài đạo đức)
2/ Phần thi miệng (Trình bày áp dụng thực hành đạo đức)
Hai điểm này cộng lại rồi chia cho hai.
Dựa vào điểm học hằng ngày và điểm thi tam cá nguyệt mà cho lên lớp.
II- Trong giáo án mỗi câu hỏi có hai phần:
1/ Đáp án ngắn gọn
2/ Giải trình đáp án
Người học viên nào đứng lên trả lời câu hỏi đều phải đáp án ngắn gọn và giải trình đáp án, cho nên giảng viên không cần hỏi thêm, chỉ lắng nghe giải trình đáp án mà chấm điểm.
Đáp án ngắn gọn thì học viên nào cũng phải trả lời đúng, vì đó là đáp số, không thể đáp sai giáo án được.
Còn giải trình giáo án thì tuỳ theo trình độ hiểu biết và lý luận của mỗi học viên. Học viện không thể học thuộc lòng trong giáo án mà có học thuộc lòng cũng tốt không sao, đó là huân tập đạo đức vào tâm. Cho nên giải trình giáo án càng nhiều càng phong phú ý tưởng đạo đức càng tốt
Giảng viên không cần hỏi thêm mà chỉ cần gợi ý cho học viên hiểu rõ để trả lời cho đúng. Một học viên có thể giải trình giáo án bằng nhiều lần, bằng nhiều phương cách, mỗi phương cách đều làm sáng tỏ đạo đức. Mỗi giải trình giáo án đúng nghĩa đạo đức thì được 10 điểm.
Ví dụ: Một câu hỏi mà học viên giải trình giáo án năm lần, mỗi lần được giảng rộng về đạo đức thì được 10 điểm, nhưng giải trình năm lần thì được 50 điểm
Đáp án ngắn gọn chỉ có một lần, nhưng giải trình giáo án mỗi học viên có thể giải trình rất nhiều nhờ đó mà triển khai tri kiến rất tốt làm cho tất cả học viên chỉ nghe cũng đã được thấm nhuần thâm nhập vào tâm
Giảng viên không cần hỏi thêm, chỉ gợi ý cho học viên giải trình giáo án nhiều lần là tốt nhất.
Mỗi học viên cần phải có sách giáo án để nghiên cứu những bài học của mình và để giải trình nhiều góc độ của giáo án. Nhờ có sách mà giảng viên bớt nhọc sức giảng dạy.
Trong lớp học mà học viên thông hiểu trả lời đúng thì giảng viên là người dạy giỏi.
Làm thầy dạy học bao giờ cũng muốn cho học trò mình học giỏi, học trò càng thông suốt thì điểm càng cao, đến mãn khoá đều được lên lớp hết là một vinh hạnh cho thầy. Cho nên làm giảng viên chỉ cần gợi ý cho học viện và muốn cho học trò mình mau hiểu dễ tiếp thu thì nên đưa vào bài học chính nhiều mẫu chuyện đạo đức có thực trong đời sống hằng ngày của mọi người, nhờ đó học viện học rất thích thú và kiến thức mỡ mang nhiều góc độ, nhất là đạo đức dễ thấm nhuần trong tâm.
Làm thầy khéo léo gợi ý bài học cho học viên hiểu bài và làm bài trả lời không sai và đưa ra nhiều mẫu chuyện gây sự thích thú cho học viên là giảng viên giỏi.
Thăm và chúng con đứng lớp triển khai và truyền trao đạo đức nhân bản ngày càng thêm tiến bộ.
Thầy của con
Kính gửi: Minh Hữu
Kính gửi: Quý Tu sinh.
I/ Theo kinh Hành Thập Thiện khẩu nghiệp có 4 hành động:
1- Không nên nói dối
2- Không nói lời hung dữ
3- Không nói lời thêu dệt
4- Không nói lời lật lọng
Nhưng trong khẩu nghiệp có hai phần:
1- Khẩu nghiệp Chánh Ngữ
2- Khẩu nghiệp Chánh Mạng
Khẩu nghiệp Chánh Ngữ gồm có 4 nghiệp như kinh Hành Thập Thiện đã dạy ở trên.
Hiện giờ các con đang học đức hiếu sinh về khẩu nghiệp Chánh Ngữ và đức hiếu sinh về khẩu nghiệp Chánh Mạng
Chánh Ngữ do miệng nói ra lời, phát ra âm thinh; còn Chánh Mạng cũng do miệng hành động nhai, nuốt, căn, xé như thân hành vậy.
Ví dụ: Chúng ta dùng tay hoặc dao giết một con vật chết cũng giống như một con thú dữ dùng miệng cắn xé giết một con vật chết vậy. Hai hành động miệng và tay đều giống nhau.
Cho nên cũng cùng một khẩu nghiệp mà khẩu nghiệp Chánh Ngữ thuộc về khẩu hành; còn khẩu nghiệp về Chánh Mạng thuộc về thân hành như vậy các con có hiểu chưa?
Vì thế trong kinh Hành Thập Thiện nói về khẩu nghiệp có 4 nghiệp ác về lời nói, chứ không nói khẩu nghiệp ác về ăn. Khẩu nghiệp về ăn được xem là thân hành thuộc về Chánh Mạng.
Còn câu hỏi thứ hai của con Thầy đã trả lời cho Thây Chơn Thành ở trên về chấm điểm cũng như vể giải trình giáo án.
Thăm và chúc các con đều mạnh khỏe sống đúng đức hiếu sinh để không làm khổ mình, khổ người.
Thầy của các con
(Ngày 24 - 12 -2006)
Kính gửi: Quý tu sinh tại tu viện Chơn Như.
Sau khi đọc bức tâm thư thứ 28 của Thầy có chỗ các con không hiểu, nhưng Thầy chỉ giải thích để các con hiểu đại khái, chỉ có học tập mới hiểu rõ chứ trên danh từ chữ nghĩa thì không thể hiểu hết được như:
- Các pháp Yết Ma
- Giới đàn.
- Thành lập giới đàn
- Giới đức.
- Giới hạnh.
- Giới hành.
- Giới tướng.
- Giới thể.
1- Các pháp Yết Ma là những qui cụ của đoàn thể chúng tăng để điều hành người trên kẻ dưới trong Tăng đoàn có thứ bậc như kỷ luật quân đội.
- Các pháp Yết Ma còn là những nghi thức, nghi lễ truyền giới, thọ giới cho các giới tử mà người tu sĩ Phật giáo khi lãnh chúng, lãnh đạo giáo hội cần phải thông suốt.
- Các pháp Yết Ma gồm chung tất cả pháp thuộc về giới đàn, thành lập giới đàn, giới đức, giới hạnh, giới hành, giới tướng và giới thể, giáo trình, giáo án về kinh, luật, luận của Phật giáo.
2- Giới đàn là nơi chư Tăng đang ở, Một khu rừng có vị trí giới hạn, chư tăng không được đi ra ngoài giới hạn đó. Người nào đi ra ngoài giới hạn đó là bị tẩn xuất.
3- Thành lập giới đàn là chỉ định chu vi khu rừng có giới hạn rõ ràng.
4- Giới đức là đức hạnh của giới, mỗi giới có rất nhiều đức và hạnh.
5- Giới hạnh là những oai nghi tế hạnh của giới luật, nếu không học thì không biết.
6- Giới hành là phương pháp thực hành để sống đúng giới đức và giới hạnh.
7- Giới tướng là hình tướng của giới luật.
8- Giới thể là tinh thần của giới luật.
Không học thì không hiểu, không hiểu thì không biên soạn được. Người tu chứng Tam Minh thì tất cả đều thông suốt, nhưng tu mà phạm giới thì không bao giờ tu chứng được Tam Minh.
Đúng là các con còn phải học tu nhiều hơn nữa. Chúc các con mạnh và tu học giới luật đức hạnh xả tâm cho thật tốt.
Thầy của các con
(Ngày 8 – 2 - 2007)
Kính gửi: Mỹ Tiên
Để trả lời những câu hỏi của con:
1/ Giới luật chưa nghiêm chỉnh, còn ăn uống phi thời, chưa sống thiểu dục tri túc, còn dùng phương pháp dưỡng sinh trị bệnh là chưa chứng đạo.
Người chứng quả A La Hán có đủ Tứ Thần Túc làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi, vì thế Tam minh, lục thông không thể thiếu.
2/ Đạo Phật là đạo tự lực, nên đức Phật dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Theo nhân quả thì mỗi người phải tự chuyển nghiệp của mình, chứ không ai chuyển nghiệp cho ai được. Và vì vậy mọi người phải tự cứu mình. Những vị thầy nào hướng dẫn mọi người cầu tha lực, cúng bái tụng niệm, ngồi thiền trì chú, cầu siêu, cầu an v.v… Đó là những vị thầy làm cho mù mắt phật tử để không bao giờ thấy được chính pháp của Phật. Họ là những tà sư ngoại đạo phải cẩn thận đừng nên nghe những lời lừa đảo và bằng những năng lực tưởng khiến cho mọi người không biết kinh sợ và thán phục.
Cháu bệnh mắt thì Hãy đưa cháu đến bệnh viện khoa mắt, giúp cho cháu ăn thực phẩm thực vật và hướng dẫn cháu sống trong thiện pháp tự vui với nghiệp quả của mình và nhớ nhắc tâm tự kỷ tác ý đôi mắt phải phục hồi bằng y khoa, bằng nội lực của cháu, đó là cháu tự chuyển nhân quả của cháu .
3, Thầy đặt pháp danh Mỹ Tiên cho cháu có nghĩa là:
Mỹ là tốt đẹp.
Tiên là mười điều lành:
Khi con nhận pháp danh này con phải sống đúng mười điều lành nhờ đó nó sẽ đem lại cho con nhiều điều tốt đẹp .
4/ Lúc này Thầy đang ẩn bóng không làm lễ quy y, chỉ cho pháp danh và điệp phái mà thôi, từ đó theo pháp danh Thầy đặt mà sống đúng hạnh tên của mình để sống trong thiện pháp để chuyển được quả khổ đau, giúp cho đời sống cháu thanh thản, an lạc.
5/ Phần đông Phật tử được Thầy cho pháp danh có khi trùng hợp là vì Thầy đặt pháp danh theo đặc tính của người đó, để người đó nương theo pháp danh của mình mà sống trong thiện pháp, để chuyển nhân quả khổ đau thành sự bình an, yên ổn.
6/ Như lời Phật đã dạy: “Khi có danh thì nên ẩn bóng” hôm nay duyên đã đủ nên Thầy ẩn bóng, nhưng Thầy chưa nỡ bỏ các con, chưa nhập diệt mà sống thêm vài ngày để soạn thảo xong giáo án đạo đức để mọi người sống không còn làm khổ cho nhau nữa.
7/ Cháu Kiều Chinh và Hoàng Chí đều có chung một pháp danh là vì hai cháu có cùng một nhân quả nhưng nhân duyên khác nhau.
Để chuyển đổi nhân quả nên hai cháu phải sống đúng pháp danh của hai cháu như hạt ngọc trong sạch (Thanh Ngọc) thì mới chuyển được nghiệp. Để gọi tên hai cháu không lầm thì cháu nào quy y trước thì gọi là Thanh Ngọc I, cháu nào quy y sau gọi là Thanh Ngọc II
Thầy đặt pháp danh cho Phật tử đều có ý nghĩa của sự tu hành, nhưng không gặp Thầy để thưa hỏi rõ pháp danh mình mang ý nghĩa gì?.
8/ Tình duyên lận đận là do nhân quả li gián gây chia rẻ kiếp trước mà kiếp này phải trả.
9/ Bệnh đau là do nhân quả giết hại và ăn thịt chúng sinh. Nói như vậy người ăn chay trường sao còn bệnh đau. Người ăn chay trường mà còn bệnh đau là do tâm ý còn ác, tuy không ăn thịt chúng sinh, nhưng còn giết hại chúng sinh như kiến, muỗi và các vật khác, họ chưa thật lòng yêu thương tất cả sự sống của chúng sinh.
10/ Bệnh đau bướu ở bất cứ nơi đâu trên thân đều do nhân quả kiếp trước thường hay đánh đập loài chúng sanh.
Con muốn chuyển nghiệp này thì phải sống đúng năm giới và tập an trú vào cánh tay đưa ra đưa vào,
Khi an trú vào cánh tay xong thì tác ý: “bệnh bướu này chuyển biến thay đổi lành lặng như xưa”
11/ Muốn không giết hại chúng sinh thì không nên ăn thịt chúng sinh, không nên làm nghề giết hại chúng sinh.
Nếu con làm nghề nông phải xịt thuốc giết sâu rầy và các chúng sanh khác thì nên thay đổi nghề nghiệp, phải sống trong thiện pháp thì mới có thể chuyển nghiệp, nếu ôm ắp nghề cũ thì không bao giờ chuyển hết nghiệp được.
Các pháp đều vô thường, có pháp nào là của con, là con đâu, mà con cứ ôm nghề nghiệp đó, rồi một ngày nào đó cũng phải lìa xa đi vào lòng đất lạnh thì chỉ còn có nghiệp thiện, ác mà thôi.
Hiểu Phật pháp thì phải tự cứu mình, chứ không ai cứu mình. Muốn tự cứu mình thì nên sống theo thiện pháp, nghề nghiệp thiện.
Thăm và chúc các con mạnh tu tập xả tâm tốt.
Kính gửi các con! Khi viết sách đạo đức thì nên tránh nói đích danh của người khác, nhất là những người làm sai trái, những điều phi đạo đức.
1/ Không được nói tên thật của người
2/ Nên viết tắt tên họ người như: ông T.H, bà T.M hay cô T.N v.v….
3/ Vạch những điều sai nên nói chung chung, khéo léo để tránh mặc cảm của người khác.
Đó là nghệ thuật cầm bút, nhất là viết sách đạo đức các con ạ! Khi viết sách đạo đức phải cẩn thận, phải suy nghĩ kỹ lưỡng, chứ không được làm lấy có, làm chiếu lệ.
Khi viết sách đạo đức có bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chọn bài học đạo đức cho đúng đức hạnh trong giới luật của Phật. Bài học đạo đức phải gây được sự xúc động mọi người, nhấtlà phải làm sáng tỏ đạo đức mà các con muốn nói.
Giai đoạn 2: Phân bài và đặt ra thành những câu hỏi, cần phải đắn đo suy nghĩ rất kỹ lưỡng. Ở giai đoạn này không được làm đại, làm đại sẽ sai lạc, mà sai lạc ở giai đoạn này thì sẽ sai lạc ở những giai đoạn sau.
Giai đoạn 3: Đáp án phải xác định rõ đạo đức gì, mới kê bút viết, chưa xác định rõ thì không nên phóng bút viết đại. Viết đại là sai nghĩa cần phải lưu ý.
Giai đoạn 4: Giải trình án là phải xoáy vào đạo đức mà đáp án đã xác định rõ ràng.
Trong bốn giai đoạn này nếu biết rõ thì việc biên soạn giáo án đạo đức không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Các con hãy cố gắng vừa học đạo đức vừa làm việc giúp Thầy cho bộ sách đạo đức được hoàn chỉnh và đầy đủ hơn, còn một mình Thầy làm việc không hết, nhiều quá. Thầy xin có lời cảm ơn các con.
Thăm và chúc các con vui mạnh, học tu xả tâm tốt, sống với đức hiếu sinh hạnh phúc vô lượng.
(Ngày 29 - 12 – 2006)
Kính gửi: Chơn Niệm
Tu Viện Chơn Như đã chuyển mình vươn lên đỉnh cao của Phật giáo biến giáo lý của Phật giáo thành một chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh, để giáo dục con người và rèn luyện nhân cách sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh; để giúp con người tu tập có đủ đạo lực làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.
Thầy sẽ trả lời những câu hỏi sau đây của Chơn Niệm:
1- Mỗi bài dạy đạo đức ở lớp NGŨ GIỚI là phải ngắn gọn đầy đủ ý nghĩa đạo đức của giới luật đó, nên tuỳ theo bao nhiêu hành động đạo đức của bài học đạo đức đó là bao nhiêu câu hỏi, chứ không thể tự đặt ra câu hỏi ngoài lề được.
Bài học là giáo án thì phải có câu hỏi. Câu hỏi làm sáng tỏ nghĩa lý bài học đó. Như vậy bài học đó mới được gọi là giáo án. Con có hiểu câu này không? Chứ viết như các con không phải là giáo án mà là bài thuyết giảng chung chung mà thôi. Muốn biên soạn giáo trình và giáo án thì các con phải hiểu nghĩa giáo trình là gì? Và Giáo án là gì? Có hiểu được rõ như vậy mới biên soạn.
2- Bài học lớp NGŨ GIỚI về giới luật đức hạnh phải ngắn gọn nghĩa lý phải sống động để người đứng lớp dạy dễ truyền đạt tư tưởng đạo đức cho học viên của mình, nhất là nghĩa lý phải rõ ràng để tu sinh dễ tiếp thu từng hành động đạo đức.
Bài học ở lớp BÁT QUAN TRAI GIỚI cũng cùng một giới luật, một đạo đức như lớp học NGŨ GIỚI nhưng nghĩa lý rộng rãi sâu mầu hơn. Cũng như cùng một giới luật đó ở lớp học NGŨ GIỚI và ở lớp BÁT QUAN TRAI GIỚI nhưng ở lớp CHÁNH TRI KIẾN thì nghĩa lý phải rộng rãi và chuyên sâu hơn nhiều, chứ không phải học giới luật đức hạnh trong lớp NGŨ GIỚI thì lớp BÁT QUAN TRAI không cần phải học lại giới đó nữa. Hiểu như vậy là sai.
3- Trong BÁT QUAN TRAI GIỚI không có giới cấm cất giữ tiền bạc của người cư sĩ Phật tử thì người cư sĩ THỌ BÁT QUAN TRAI có quyền cất giữ không có phạm lỗi gì cả.
4- Sự chuyển biến của Tu Viện Chơn Như là sự chuyển biến chung của gia đình, xã hội, đất nước, thời tiết, vũ trụ v.v... theo quy luật của nhân quả, nếu những ai không chuyển biến kịp thời thì sẽ bị quy luật nhân quả thải trừ ra ngoài vòng và những người ấy bị chìm xuống, chết cứng khư khư trong lối mòn cố chấp.
Những tu sinh trong Tu Viện ra đi là không bắt kịp sự thay da đổi thịt của Tu Viện Chơn Như đang sừng sửng vượt lên sóng gió bão bùng để độc lập xây dựng cho mình một chương trình giáo dục đào tạo mới mẻ của Phật giáo. Chính hôm nay các con còn ở lại mới chứng kiến sự thay đổi này.
5- Muốn hiểu biết các pháp Yết Ma thì phải tu học từ căn bản đến chuyên sâu giới luật thì mới thông hiểu, còn bây giờ muốn biết sơ lượt thì con nên đọc lại bức tâm thư thứ 30 thì sẽ rõ.
Thăm và chúc con tu tập cho thật tốt
Thầy của con
(Ngày 2 - 1 – 2007)
Con hãy cố gắng đến lớp học để học đạo đức năm giới và để diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp. Nếu không học thì không có pháp nào xả tâm tốt hơn. Tất cả các pháp xả tâm chỉ có giới luật đức hạnh diệt ngã xả tâm là con đường tu của Phật giáo, ngoài giới luật đức hạnh thì không có pháp nào diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp tốt nhất, cho nên các con cần lưu ý.
Trong đạo Phật chỉ có giới luật là pháp xả tâm không bị ức chế mà thôi, còn tất cả pháp khác tu tập đều bị ức chế tâm cả. Các con nên nhớ điều này đừng quên.
Khi học ở lớp xong về thất sống độc cư không giao tiếp nói chuyện với ai hết, sống một mình để gạn lọc tâm tư, nếu tâm còn nhiều vọng niệm thì thực hiện tri kiến giới luật đức hạnh xả tâm bằng pháp môn TỨ CHÁNH CẦN (ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp), còn nếu tâm ít vọng niệm thì thực hiện bằng pháp môn TỨ NIỆM XỨ (Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu) và tu tập pháp CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC 30 phút vào buổi khuya khi mới thức dậy hoặc khi bị hôn trầm, thùy miên, vô ký v.v...
Các con tu tập như vậy là để giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự, khi tu tập có gặp những gì khó khăn thì hãy viết thư cho Thầy hay để Thầy giúp đỡ cho.
Các bạn con rất đáng thương, cố chấp vào giới cấm mà không thông giới đức, giới hạnh, giới hành. Đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện, mà giới cấm là có sự bắt buộc ức chế thân tâm khiến cho người càng giữ giới tướng thì phạm vào giới thể. Vì thế các sư hình tướng thì giới luật mà giới thể thường vi phạm. Cho nên trí tuệ không sáng suốt, quan sát giới đàn của Tu Viện Chơn Như làm sao hiểu nổi.
Buổi lễ mãn khoá bảy tháng tu học chứng quả A La Hán bài vở đều do Thầy biên soạn, chỉ nhờ cô Diệu Quang, sư cô Liễu Huệ, thầy Thanh Quang thay Thầy đọc những lời dạy của Thầy. Tuy không có Thầy nhưng hình ảnh Thầy đang ở trước mặt các tu sinh, đó là Thầy đang làm lễ mãn khoá và khai giảng lớp mới. Sóng gió Chơn Như là một bước tiến, tuy Thầy phải ẩn bóng nhưng không đầu hàng trước những nghịch cảnh. Không có mặt Thầy, nhưng vẫn Thầy vẫn chỉ đạo điều hành để dựng lại chánh pháp của Phật, đó là tiến lên chứ không lùi bước.
Các sư đến Chơn Như mà không biết giới đàn của Chơn Như thì thật là tội nghiệp. Giới đàn Chơn Như từ khi có Tu Viện Chơn Như, nơi đó đã thành lập giới đàn Chơn Như. Giới đàn Chơn Như là chu vi Nam, Bắc, Đông, Tây của Tu Viện Chơn Như. Các con có biết chưa?
Có giới đàn thì phải có pháp môn bảo vệ giới đàn, pháp môn bảo vệ giới đàn các sư có biết không? Nó là một pháp Yết Ma trong các pháp Yết Ma.
Thứ nhất, khi quý sư, quý thầy xin vào Tu Viện tu tập thì có thời gian nhất định quý sư, quý thầy không được phép ra khỏi ĐẠI GIỚI ĐÀN CỦA TU VIỆN tức là chu vi của Tu Viện. Khi quý sư quý thầy ra khỏi chu vi của Tu Viện mà không có lý do xin phép chính đáng thì quý sư, quý thầy vi phạm vào pháp Yết Ma.
Thứ hai, khi quý sư, quý thầy nhận thất ở tu tập tức là nhập thất. Thất của quý sư, quý thầy ở là TIỂU GIỚI ĐÀN CỦA TU VIỆN, nếu quý sư, quý thầy ra khỏi thất đi nói chuyện là quý sư quý thầy vi phạm vào TIỂU GIỚI ĐÀN của pháp Yết Ma.
Quý sư, quý thầy học pháp Yết Ma chỉ biết ĐẠI GIỚI ĐÀN mà không biết TIỂU GIỚI ĐÀN; biết LẬP GIỚI ĐÀN mà không biết PHÁP HÀNH GIỚI ĐÀN như vậy các pháp Yết Ma quý sư quý thầy cần phải học nhiều hơn nữa, nếu chỉ dựa theo những bộ sách dạy về các pháp Yết Ma của Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Nam Tông thì chưa đủ. Trong tạng kinh Nikaya đức Phật dạy các pháp Yết Ma rất đầy đủ, quý sư quý thầy nên tham cứu lại cho đầy đủ hơn. Nhất là bộ sách Tam Quy do tu viện Chơn Như biên soạn.
Đối với các con nên im lặng là tốt nhất, người tu sĩ tự ngã quá cao khó mà ly dục ly ác pháp, chưa hiểu rành hết các pháp Yết Ma mà tự mãn cho mình đã hiểu. Kinh sách như rừng, như biển, người học hiểu biết chừng nào cho hết. Cho nên người xưa nói: “Rừng NHU biển THÁNH không dò, lòng người sâu thẳm ai đo cho cùng”. Vì vậy cuộc đời tu hành của quý sư chìm xuống và chết cứng trong lối mòn cố chấp. Tu như vậy làm sao chứng quả A La Hán được. Phật pháp như rừng, như biển làm sao các sư hiểu hết được mà dám tự mãn cho mình hiểu hết.
Như ở trên đã nói: giới đàn Chơn Như đã có từ lâu rồi, có cả ĐẠI GIỚI ĐÀN và TIỂU GIỚI ĐÀN. Con có biết không?
Con đừng lo, Thầy xin cảm ơn con. Tu viện Chơn Như có người đến tu học cũng tốt, không có người đến tu học cũng tốt, tất cả đều do phước báo của chúng sinh, nhưng Tu viện Chơn Như vẫn sáng chói dưới ánh Đạo Vàng. Phật giáo hơn 2000 năm bị chìm mất, nay được dựng lại còn sợ gì nữa. Phải không con?
Khi con đến học đức hạnh lớp NGŨ GIỚI thì biết ánh sáng Chơn Như như ngọn hải đăng soi đường cho mọi người về xứ Phật.
Thầy của con
(Ngày 4 - 1 -2007)
Kính gửi: Chơn Thành.
Giảng viên xưng hô với học viên
Trong lớp học giảng viên nên xưng hô với học viên, xưng pháp danh của mình.
Ví dụ: - Chơn Thành xin chào quý tu sinh.
- Chơn Thành xin nhắc lại lời của Trưởng Lão.
- Chơn Thành dạy theo giáo án của Trưởng Lão.
Đối với cư sĩ không biết pháp danh thì gọi là Phật tử.
- Xin mời Phật tử Minh Thiên
- Nếu tu sĩ mặc áo Đại Thừa không biết pháp danh thì gọi là Thầy, nếu biết pháp danh thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: - Xin mời Thầy.
- Xin mời Thầy Chí Nhẫn
Nếu tu sĩ mặc y vấn Nam Tông hay khất sĩ thì gọi là Sư. không biết pháp danh
Ví dụ: - Xin mời sư
Biết pháp danh thì xưng hô thêm pháp danh
- Xin mời Sư Chơn Quang
Học viên xưng hô với giảng viên
Trong lớp, học viên xưng hô với giảng viên gọi là Thầy lấy pháp danh xưng hô .
Ví dụ: - Thưa Thầy, Thanh Tâm xin hỏi
- Thanh Tâm có điều này muốn thưa hỏi Thầy
Thanh Đức xin hỏi Sư.
Nếu cư sĩ chưa có pháp danh là học viên trong lớp thì nên gọi giảng viên là thầy và xưng là con
Tất cả tu sinh đều giữ im lặng chỉ để một tu sinh đại đện nói:
- Chúng con xin chào Thầy.
Sau khi nói xong tất cả tu sinh cúi đầu xá giảng viên mà cũng chính là xá hình tượng đức Phật. Khi xá xong tất cả tu sinh đều ngồi xuống, giữ gìn im lặng không nên nói chuyện trong giờ học.
Khi học viên trả lời câu hỏi nào trong bài học đều phải đứng vậy, trừ ra những người già, tật quyền không đứng được giảng viên cho phép ngồi.
Hành động đứng vậy trả lời là một hành động tôn kính những người có mặt trong lớp học, nhất là tôn kính hình tượng đức Phật và bài pháp giới luật đức hạnh mà tất cả tu sinh đều đang học.
Trong kinh Nikaya có nói về đức Phật ngồi mà một vị Bà La Môn đứng, đi qua đi lại, lời nói nhát gừng vấn nạn Phật, đó là một hành động vô đạo đức tôn kính, chứ không phải đức Phật ngồi mà vị Bà La Môn đứng thưa hỏi. Nếu đức Phật ngồi vị Bà La Môn cũng ngồi một bên thắp hơn đó là hành động ngồi tôn kính, nhưng khi thưa hỏi một điều gì thì đứng lên hoặc quỳ xuống thưa hỏi đó là hành động đạo đức tôn kính Phật và pháp, còn khi đức Phật chưa cho phép ngồi mà ngồi thưa hỏi là thiếu đạo đức tôn kính. Các con đọc kinh Nikaya lướt qua bằng ý thức không nhận xét rõ ràng nên phát biểu theo tưởng giải của mình mà phá vỡ nền đạo đức lễ nghĩa văn hoá của Phật giáo. Thật đáng tiếc, Cái hiểu kinh sách của các con như vậy là cái hiểu rất tai hại cho người đời sau. Khi nào các con tu chứng mới hiểu kinh Nikaya đúng nghĩa.
Trong phòng họp Quốc hội các dân biểu có ý kiến đều đứng lên phát biểu, không có ai ngồi mà phát biểu bao giờ, đó là một lễ độ lịch sự mà con người có văn hoá không thể nào thiếu được. Nói chung tất cả các buổi họp từ ấp, xã, huyện, tỉnh và Giáo Hội Phật Giáo khi phát biểu đều đứng dậy, đó là đức LỄ một đạo đức văn hoá lễ độ mà loài người từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc đều công nhận.
Chúng ta nên xét lại đạo đức lễ nghĩa trong các trường học, nơi mà đào tạo giáo dục con người có kiến thức và văn hoá mà lễ nghĩa không có thì biết rằng nền giáo dục đó còn thiếu khuyết. Cho nên càng học lên lớp cao thì học sinh và sinh viên càng thiếu đạo đức tôn trọng thầy, cô giáo và bạn bè.
Tiểu học, khi cô giáo bước vào cửa lớp thì trưởng lớp hô: “NGHIÊM! ” Tất cả học sinh đều đứng dậy nghiêm chỉnh. Cô giáo đứng vào vị trí của mình liền đưa tay ra dấu bảo:
- Các em ngồi xuống.
Trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp còn giữ lễ nghĩa tôn trọng ấy.
Đại học thì lễ nghĩa tôn trọng ấy không còn. Như vậy chúng ta biết rằng: nền giáo dục còn thiếu văn hóa đạo đức rất nhiều. Vì thế chúng ta nên lo lắng cho nền giáo dục hiện tại của đất Nước, quê hương, đạo đức đang đi xuống.
Chúng ta là người Việt Nam không nên dùng Hán Việt chưa được Việt hoá như: Hiền giả, Hiền huynh, Hiền tỷ, Hiền đệ, Sư huynh, Sư tỷ, Sư đệ, Đạo hữu, Đạo huynh, Tôn giả, Thánh giả v.v…
Đây là một chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh, cho nên bài học rất sống động, mọi tu sinh đều đóng góp nhiều ý kiến đạo đức nhân bản - nhân quả, nếu những ý kiến đó chưa được ngã ngũ thì giảng viên xin viết thư hỏi ý Thầy chứ không được cắt ngang dẹp bỏ những ý kiến đó, thì lớp học sẽ mất hết ý nghĩa đào sâu đạo đức.
Lớp học cần có những ý kiến trái nghịch nhau để làm sáng tỏ nền đạo đức nhân bản - nhân quả khiến cho lớp học càng sống động hơn, nhờ đó mà tu sinh càng học càng tiến bộ thấu triệt và thấm nhuần đạo đức hơn nhiều.
Giới luật đức hạnh chưa thấm nhuần, chưa thông suốt mà muốn ngồi thiền nhập định để có Tam Minh thì đó là một ảo tưởng. Vì thế trải qua hơn 2000 năm đã xác định rõ ràng không có ai tu chứng quả A La Hán, vì bỏ giới luật mà tìm thiền định thì không bao giờ có thiền định.
Hôm nay lớp học giới luật đức hạnh được đào tạo rèn luyện tu sinh trở thành những bậc giới luật đức hạnh vô lậu,. Vậy mà có một số tu sinh cố chấp ngồi tu trong thất, thật là tội nghiệp. Nếu ngồi trong thất tu thì hơn 20 năm qua đã có người tu chứng A La Hán vô lậu lâu rồi. Ngồi trong thất tu mà giới luật vi phạm thì làm sao tu chứng quả A La Hán được.
Bên hệ phái khất sĩ, người tu sĩ rất khiêm hạ, họ thường xưng là trò. Sư Giác Toàn thường xưng là Trò Con.
Chúng ta ở đây toàn là anh em chị em với nhau nên phải biết cách xưng hô cho hợp lý.
Vì Tu sinh không đoàn kết không biết thương yêu nhau, nên Thầy phải rời khỏi tu viện. Thầy mong sao các tu sinh biết đoàn kết, biết thương nhau thì mới có ngày Thầy trở về trực tiếp hướng dẫn các con.
Thăm và chúc các con tu tập giữ gìn đức hạnh cho thật tốt.
Thầy của các con
(Ngày 8 - 1 – 2009)
Sau khi đọc xong Giáo Án Rèn Nhân Cách lớp NGŨ GIỚI con biên soạn bài thứ nhất Thầy rất hoan hỷ là các con sẽ thay Thầy đem nền đạo đức Phật giáo đến với mọi người. Sang năm sẽ có những lớp mới các con phụ lực với cô Út đứng lớp dạy.
Giáo án biên soạn theo chương trình giáo dục đào tạo sẽ thành sách giáo khoa và được xin phép phổ biến rộng rãi trong nước và ngoài nước để đem lại lợi ích cho mọi người, chừng đó đạo Phật mới thật sự đi vào đời.
Viết và đứng lớp dạy đều là rèn luyện nhân cách của mình con ạ!
Bài học đạo đức NGŨ GIỚI con biên soạn như vầy là đạt tiêu chuẩn. Hãy nổ lực biên soạn trợ giúp với Thầy. Thầy có một mình làm sao biên soạn cho hết.
Bài học đạo đức còn nhiều lắm các con ạ! Từ lớp NGŨ GIỚI mà biên soạn cho được đầy đủ thì số lượng sách rất nhiều.
Lớp THẬP THIỆN là lớp đức hạnh nhân quả nên bài vỡ phải viết sâu sắc hơn, rộng rãi hơn trong nhân quả. Vì thế một mình Thầy không thể biên soạn hết được.
Lớp TAM QUY chỉ có Thầy biên soạn làm sao các con biết gì về đức hạnh TAM QUY mà viết.
Ngay từ bây giờ các con hãy biên soạn giáo án lớp NGŨ GIỚI phụ giới Thầy những gì các con biết. Nhờ đó Thầy mới có thời gian biên soạn những giáo án lớp cao hơn để làm những bài mẫu và gợi ý cho các con theo đó mà biên soạn thì không có giáo án lớp nào mà các con không biên soạn được.
Thầy đã già rồi, có ngày phải ra đi, khi không còn sức để làm việc cho đời, phải rời bỏ thế gian này thì bây giờ các con đã trưởng thành thay Thầy đứng lớp, đem đạo đức nhân bản - nhân quả đến với mọi người.
Các con hãy tiếp tục biên soạn đi các con ạ!
Mỹ Thiện, Hải Tâm, Ngọc Bình, Nữ Hương, Hạnh Từ, Hương Từ, Liễu Thiện hãy viết bài gửi về cho Thầy xem, đừng mặc cảm là không làm được. Cứ viết đi có ngày các con sẽ viết được, không có gì khó đâu các con ạ!
Các con cứ rèn luyện nhân cách đạo đức năm giới cho xong, có dịp Thầy về Tu Viện sẽ làm lễ xuất gia cho các con, nhất là dạy các con đứng dạy những lớp đạo đức cao hơn.
Thăm và chúc các con rèn luyện nhân cách hiếu sinh được trọn vẹn.
(Ngày 21 - 1 – 2007)
Kính gửi: Chơn Thành,
Kính thưa quý Thầy! Nếu giảng viên là cư sĩ nữ chưa có pháp danh thì học viên gọi là CÔ và xưng pháp danh.
Ví dụ: Thưa CÔ, Liễu Hạnh xin thưa hỏi.
Nếu giảng viên là cư sĩ nam chưa có pháp danh thì học viên gọi là THẦY và xưng pháp danh.
Ví dụ: Thưa THẦY, Liễu Hạnh xin thưa hỏi.
Làm giảng viên phải bền chí nhẫn nại xem xét đức hạnh và sự học tập của từng học viên, nếu trả lời đúng chủ đề bài học thì 10 điểm, nửa đúng nửa sai cho 5 điểm, lạc đề cho không điểm. Khi tổng kết sổ học tập 10 điểm là điểm ưu, dưới 10 điểm là điểm trung bình; dưới 5 điểm là điểm kém. Về phần thực hành đạo đức hiếu sinh con xét tu sinh qua đức hiếu sinh nghịch chiều, nghĩa là tu sinh nào còn tham, sân, si, mạn, nghi là chưa áp dụng thực hành đức hiếu sinh, nên lộ ra thân hành, khẩu hành thì cho điểm kém, còn ở trong ý hành thì cho điểm trung bình; còn thân, khẩu, ý đều thực hiện lòng yêu thương tức là ý suy nghĩ đúng chủ đề, trả lời đúng chủ đề, làm bài đúng chủ đề và trong thực hành sống đúng thân hành khẩu hành ý hành như bài đã học thì cho điểm ưu.
Lớp đạo đức hiếu sinh mãn khoá thì giảng viên báo cho tu sinh biết để tu sinh nào được lên lớp ĐỨC LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO tức là học GIỚI THỨ HAI người nào ở lại lớp cũ vì điểm quá kém.
Khi cho lên lớp hay ở lại lớp đều căn cứ vào sổ điểm bài làm và thực hành qua đời sống của tu sinh.
Thăm và chúc con tu tập giữ gìn giới luật đức hạnh xả tâm tốt.
Thầy của con
Kính gửi: Phước Tồn.
Trang nghiêm và im lặng không đồng nghĩa con đã hiểu sai rồi.
Một cuộc họp quốc tế có nhiều nước tham dự và mỗi lần có một một đại diện phát biểu xong đều có tiếng vỗ tay chào mừng và tán thán ý kiến, nhưng cuộc họp đâu mất trang nghiêm? Còn im lặng là không một tiếng động, dù tiếng động rất nhỏ, vì thế trang nghiêm và im lặng khác nhau.
Ở đây là lớp học đầu tiền về giới luật đức hạnh của Phật giáo nên cần khuyến khích cho tu sinh trả lời, khiến cho tu sinh dạn dĩ mạnh mẽ triển khai tri kiến hiểu biết đạo đức hiếu sinh của mình bằng cách phát biểu trước mọi người. Đó cũng là phương cách rèn luyện đạo đức can đảm trình bài ý nghĩa đạo đức của mình đã nhận được qua bài học không lạc chủ đề.
Người vỗ tay tán thán sự dũng cãm của người đứng lên trình bài sự hiểu biết về đức hiếu sinh trong bài học cụ thể rõ ràng không lạc chủ đề, để mọi người cùng tu, cùng học như mình. Sự vỗ tay tán thán khen tặng, khích lệ bạn mình cũng là đạo đức hiếu sinh thân hành.
Khoái lạc không đồng nghĩa với hạnh phúc, vì hiểu hạnh phúc đồng nghĩa với khoái lạc, nên hạnh phúc quá tầm thường. Người ở đời hiểu nghĩa này rất sai.
Ví dụ: Người ăn một cái bánh rất ngon, nhưng khi nuốt qua khỏi cổ thì cái ngon cũng không còn. Cái ngon khi ăn cái bánh là khoái lạc nơi miệng. Còn hạnh phúc là một sự sống đoàn kết thương yêu nhau không làm khổ nhau, không chửi mắng đánh nhau sống chia sẻ ngọt bùi với nhau, an ủi nhau những lời ái ngữ, khi vắng nhau thương nhớ. Đó là hạnh phúc.
Đức Phật không chấp nhận khoái lạc, mà chấp nhận ly dục ly ác pháp. Khi ly dục ly ác pháp cái gì ở trạng thái ly dục ly ác pháp còn lại là đức Phật chấp nhận.
Vinh quang không có nghĩa là thăng quan tiến chức mà có nghĩa là làm một cái gì thành công.
Ví dụ: Người học trò thi đậu là vinh quang
Thầy đã nhận thư của con đầy đủ, khi nào về tu viện Thầy sẽ lấy trao lại cho con máy thu, còn bây giờ cô Út không biết.
Chỗ ở của Thầy rất bình an. Chúc con tu học tốt
Thầy của con
Theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện giờ thì tuổi đạo kể từ ngày thọ giới Tỳ kheo tức là thọ giới cụ túc. Khi thọ giới xong hằng năm phải về an cư kiết hạ, mỗi hạ tính là một tuổi đạo, không về an cư không tính tuổi đạo. Còn thọ Sa Di là không tính có tuổi đạo, nếu thọ sa di 10 năm mà không thọ cụ túc thì tu sĩ này không có tuổi đạo. Con biết chưa?
Còn Thầy tính tuổi đạo theo kinh sách nguyên thủy ai sống không vi phạm giới luật một năm là một tuổi đạo, bắt đầu từ khi thọ 10 giới Sa di. Nếu năm nào phạm 1 giới trong 10 giới này thì năm đó mất tuổi đạo.
Thọ Tam Quy Ngũ Giới là giới của người cư sĩ nên không tính tuổi đạo được.
Trong 10 giới Sa Di có giới độc cư (Không ca hát, nghe ca hát) các con đã vi phạm vì thế các con chưa có tuổi đạo. Các con hiện giờ chỉ là một tịnh nhân (người mới tập sự xuất gia)
Đắp y, mang bát, cạo tóc chỉ là tập sự mà thôi.
Hai trường hợp con nêu trong thư, đều không tính tuổi đạo được
Nếu tu sĩ và cư sĩ không quy y thọ giới trở lại với Thầy mà chỉ tu tập giới luật nghiêm túc thì mỗi năm tính một tuổi đạo, còn phạm giới thì mất tuổi đạo. Đắc giới là có tuổi đạo, không đắc giới là không tuổi đạo. Xuất gia với Thầy ăn rồi tu tập mà còn không đắc giới, huống là xuất gia với người khác.
Nghiêm trang và im lặng không đồng nghĩa Thầy đã giải thích ở trên cho Phước Tồn.
Một cuộc họp quốc tế, một tràng pháo tay chào mừng là mất nghiêm trang sao?
Cái hiểu của các con còn nông cạn, vì thế mà vỗ tay rất miễn cưỡng. Vỗ tay rất miễn cưỡng là vì chưa quen chứ không phải mất trang nghiêm.
Đưa ra một câu trả lời trái nghịch chủ đề là không hiểu bài. Người học viên không hiểu bài là người học viên kém. Học kém không được lên lớp, phải ở lại lớp cũ.
Lớp học không phải là một trò chơi, muốn nói sao là nói. Vì đây là lớp đào tạo đạo đức, lời nói phải đúng đắn nghiêm chỉnh, phải đúng chủ đề, nói ngoài chủ đề là phá hoại lớp học để tranh luận hơn thua tạo thêm ác pháp, giảng viên sẽ ghi hạnh kiểm xấu và sức học hiểu biết kém.
Học tu là gợi nhiều ý nghĩa đạo đức của chủ đề, trong chủ đề đó phải thấy rõ thuận và nghịch của một đạo đức.
Thuận chiều và nghịch chiều của một chủ đề đạo đức là: Thuận chiều là đạo đức, còn nghịch chiều là thiếu đạo đức, chứ không phải tìm cách nói sai ý chủ đề là nói nghịch chiều, đó là không hiểu đề bài. Vì thế cần phải im lặng lắng nghe để học hỏi.
Ví dụ: Người nói dốt không thật là thiếu đạo đức hiếu sinh, nó là pháp ác ngược chiều
Ví dụ: Người thành thật là đạo đức hiếu sinh thuận chiều nó là một pháp thiện.
Chơn Niệm tìm những câu ngoài chủ đề phản lại đạo đức trong chủ đề tạo cảnh tranh luận hơn thua trong lớp. Do những kiến giải sai lạc giảng viên có quyền ghi vào sổ học lực kém vì không hiểu bài học; ghi vào hạng kiểm xấu, vì tranh luận trong lớp. Khi học bạ ghi như vậy tu sinh sẽ mang tiến xấu muôn đời.
Tất cả tu sinh phải cảnh giác, đây là lớp học đạo đức hiếu sinh để giúp tu sinh triển khai tri kiến giải thoát, nhờ có tri kiến giải thoát mới ly dục ly ác pháp. Có ly dục ly ác pháp mới nhập được thiền định. Bởi vậy đạo đức hiếu sinh là một pháp môn giúp cho tu sinh tu tập định vô lậu. Chứng đạo quả BỒ ĐỀ.
Vì vậy lớp đào tạo đạo đức hiếu sinh này sẽ gạt bỏ những tu sinh không chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật trong lớp học và không cho lên học lớp cao hơn.
Bởi lớp học đạo đức hiếu sinh, tính khiêm hạ là đạo đức cần thiết cho tu sinh tiến bước tìm về xứ Phật mà không gặp những trở ngại khó khăn. Nếu thiếu đức khiêm hạ người tu sĩ sẽ trở thành người tu sĩ ngã mạn, thì đạo đức hiếu sinh không bao giờ thực hiện được.
Chơn Niệm, đây là lời khuyên của Thầy, con có nghe cũng tốt mà không nghe cũng không sao, con không nên nghĩ tưởng xa vời mà hãy ngay trên đức hiếu sinh phát triển tri kiến giải thoát đúng chủ đề, đúng nghĩa để cứu mình ra khỏi thế gian này bằng không thì phải chịu trôi lăn trong đau khổ. Ngày đến lớp học trau dồi đạo đức giới luật, tối vể thất tu tập nương hơi thở chuyên cần xả từng tâm niệm ác của mình thì sẽ có lợi ích rất lớn cho con. Nếu con còn kiến giải lạc chủ đề thì tự con làm mất giá trị tu học hiểu biết của con trước mọi người thì Thầy cũng không làm sao cứu con được. Lời nói không mất tiền mua lựa ăn lựa nói cho vừa lòng nhau.
Người có trí hiểu biết thì thưa thốt, không hiểu biết dựa cột mà nghe, chứ không nói những lời thiếu chính xác, nói sai chủ đề khiến cho người khác đánh giá trị mình ngu dốt mà hay khoe tài giỏi. Con có hiểu không? Đây là một lời khuyên chung cho tất cả tu sinh chứ không riêng cho con.
Lớp học giới luật đạo đức là lớp đào tạo những người đạo đức thật sự. Cho nên các con phải cố gắng rèn luyện nhân cách cho xứng đáng là đệ tử của Phật, đừng để mang tiếng là những tu sĩ phạm giới sống thiếu đạo đức, nhất là lựa lời nói khi phát biểu không được nói lời thô tục, phải chọn lời ái ngữ nói lời thanh tao, trang nhã.
Thăm và chúc con tu tập tốt
Kính gửi: Từ Phước.
Tội nghiệp các con lần này về Tu Viện không gặp Thầy, nhưng Thầy luôn luôn giúp đỡ các con tu tập:
1- Lớn tuổi rồi các con cứ giữ giới đừng xả giới, sống chết cứ ôm cho chặt giới để theo Phật.
2- Giới của Phật là đức hiếu sinh mà con đã tham dự lớp học, nhớ triển khai đức hiếu sinh, nó là thần hô mạng cho con, lìa nó là khổ ách tai nạn sẽ đến, ôm giữ nó là mọi sự bình an sẽ đến. Con có biết không?
3- Vậy khi về nhà con dạy lại cho vợ con. Đức hiếu sinh sẽ giúp vợ con ly dục ly ác pháp, sẽ giúp con làm chủ sinh già bệnh chết. Nó là ĐỊNH VÔ LẬU.
Về nhà con nên tu tập hai cánh tay đưa ra đưa vào nó là thần dược cứu con không bệnh tật.
Mỗi buổi sáng con nên tập pháp Thân Hành Niệm 15’ để cơ thể con khỏe mạnh, già quấc thước, đi đứng vững vàng.
Thăm và chúc con mạnh và tu tập xả tâm cho thật tốt,
Thầy của con
(Ngày 27 - 1 – 2007)
Kính gửi: Quý tu sinh tại Tu Viện Chơn Như.
Kính thưa quý vị! Đây là một lớp học đầu tiên dạy về giới đức của NGŨ GIỚI, trong lớp học tu sinh có nhiều tuổi tác chênh lệch khác nhau, và cũng có nhiều trình độ kiến thức văn hóa không đồng điều. Mục đích của lớp học là truyền đạt kiến thức tư tưởng đạo đức, chứ không phải truyền đạt kiến thức văn học và nghề nghiệp chuyên môn. Cho nên ở đây việc chấm điểm sắp xếp cho đúng tiêu chuẩn để lên lớp là một điều rất khó cho giảng viên, vì thế chúng ta cần phải biết phân biệt giữa hai nền giáo dục rõ ràng:
Nền giáo dục kiến thức văn hoá đạo đức và nền giáo dục kiến thức văn hoá nghề nghiệp nó khác nhau; một bên thuộc về đức trí một bên thuộc về tài trí.
Chương trình giáo dục đào tạo của Bộ Giáo Dục là chương trình giáo dục đào tạo tài trí, chứ không phải chương trình giáo dục đào tạo đức trí, vì thế sự chấm điểm sắp xếp lên lớp rất dễ dàng. Lớp học của chúng ta là lớp học dạy theo chương trình giáo dục đào tạo đức trí. Cho nên chúng ta phải gặp nhiều khó khăn, nhất là học viên tuổi tác khác nhau và trình độ kiến thức văn hoá cũng không đồng đều như trên đã nói, rồi môn học đạo đức thuộc về môn học tinh thần. Từ cái khó này lại gặp cái khó khác, nhưng chúng ta biết trên đời không có gì khó, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Kính thưa quý vị! Như quý vị đã biết: Chương trình giáo dục đào tạo là phải có lớp thấp, lớp cao, chứ không phải có một lớp học suốt năm giới hay hoặc 10 giới, nhưng có lớp thấp, lớp cao là phải căn cứ vào điểm tri kiến đạo đức (học lực đạo đức), nhưng ở đây là môn học đạo đức làm người, để sống một cuộc sống không làm khổ mình, khổ người. Vì thế căn cứ vào kiến thức hiểu biết về đạo đức cho lên lớp như vậy là chưa đủ mà còn phải căn cứ vào hành động sống hằng ngày trong lớp học cùng với anh chị em tu sinh, giảng viên và giao tiếp với mọi người bên người mà cho điểm.
Đạo đức phải thể hiện qua thân hành, khẩu hành và ý hành, vì thế người giảng viên dễ nhận xét đức hạnh của người học viên để cho điểm. Nhưng người giảng viên phải thực hiện đức thương mình, thương người, nên khi chấm điểm là một sự khuyến khích rất lớn đối học viên của mình. Nếu học viên trả lời đúng câu hỏi thì cho 10 điểm và còn kèm theo một lời khen tặng sách tấn và khích lệ cho một tràng pháo tay. Về điểm thực hành mỗi học viên phải trình bày một ngày qua đã áp dụng đạo đức hiếu sinh vào cuộc sống đã làm được những gì.
Ví du 1: Một học viên trình bày một ngày qua học đạo đức hiếu sinh đã áp dụng thân hành, khẩu hành, ý hành bằng sức tỉnh thức thường nhắc tâm nên tránh không dậm đạp lên chúng sinh; bằng sức tỉnh thức đã vớt một con kiến rơi vào hầm cầu; bằng sức tỉnh thức đã kêu gọi chúng sinh tránh nơi bước chân đi kinh hành. Đó là đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành mà học viên đã áp dụng được vào đời sống hằng ngày.
Ví dụ 2: Trong khi đang ngồi ăn cơm bỗng dưng tôi nghe tiếng của một con nhái kêu: Éo! Éo! Éo!!!! Tôi nghĩ ngay rằng: Có một con nhái bị con rắn bắt ăn, tôi liền chạy ra dùng cây đập trên cỏ, làm cho con rắn sợ nhả con nhái ra, khi ấy tôi đem con nhái vào chỗ có đất ẩm ướt để cho con nhái tỉnh lại và đem cơm ra kêu con rắn ăn và kêu gọi: “Hãy ra ăn cơm đây rắn ơi! Đừng bắt con nhái tội nghiệp, nó sợ chết lắm!” Đó là đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành mà học viên đã áp dụng vào đời sống.
Sau khi trình bày những hành động đạo đức hiếu sinh sống hằng ngày mà học viên đã từng áp dụng được, để tất cả tu sinh trong lớp học và giảng viên cùng nghe. Nghe xong thầy giảng viên xét thấy học viên của mình nói là sự thật. Nghe xong thầy giảng viên chấm điểm 10 và hết lời ca ngợi, khuyến khích trước tu sinh và khích lệ khen tặng một tràng pháo tay.
Kính thưa quý tu sinh! Tại sao chúng ta phải khen tặng và cho một tràng pháo tay?
Bởi vì, chúng ta chưa phải là Phật, nên sự khen tặng và một tràng pháo tay cũng là trợ duyên cho chúng ta rèn luyện nhân cách làm người nhiều hơn. Các tu sinh đừng tưởng mình là Phật, vì Phật là phải có trí tuệ thông suốt luật nhân quả, không chỗ nào là không thấy, thông suốt Tam Minh không chỗ nào trong vũ trụ này còn che khuất được, thì khen tặng và một tràng pháo tay thì không đúng, vì họ là những người tu chứng. Còn các tu sinh là những người đang tu học đạo đức chưa chứng đạo mà được khích lệ và ca ngợi khen tặng khiến cho tu sinh nổ lực, cố gắng tu tập hơn thì đó là một việc làm có ích lợi cho tu sinh.
Trong khi các con trả lời câu hỏi về đạo đức nhân quả hiếu sinh lạc chủ đề nên Thầy gợi ý một số quy luật nhân quả của nhân quả để các con hiểu rằng sự hiểu biết về nhân quả của các con còn nông cạn mà còn nông cạn thì không nên bàn nhân quả mênh mông mà nên nhắm vào chủ đề trả lời vì bài văn nói rất rõ về chủ đề.
Những bài học ở lớp 1 nghĩa lý đạo đức hiếu sinh như vậy là vừa đủ theo đúng đáp án, nhưng ở lớp khác cùng những bài học đó mà dạy thì nghĩa lý nhân quả phải được rộng rãi hơn và sâu hơn. Vậy Kim Quang hãy chờ đợi lên lớp trên, còn bây giờ Thầy trả lời riêng cho con thì mất thời giờ quá nhiều, mà những câu trả lời như vậy chưa sâu rộng bằng ở lớp học. Càng lên lớp cao hơn thì sự học đạo đức nhân quả càng sâu mầu hơn. Cho nên ở lớp nào thì phải học đúng nghĩa lý đạo đức nhân quả của lớp nấy. Bởi học đạo đức không phải học suông mà còn học để áp dụng vào đời sống, để trở thành thói quen đạo đức, nếu không biết áp dụng thì uổng phí thời gian, chỉ học lý luận suông như con chim học nói tiếng người. Cứ học hiểu đến đâu áp dụng đến đó, từ lớp này sang lớp khác thì đạo đức sẽ thấm nhuần và trở thành những thói quen đạo đức mà không hay biết, chừng đó mới thấy chứng đạo của đạo Phật không có khó khăn.
Về mặc đạo đức nhân bản- nhân quả trong NGŨ GIỚI được chia ra làm ba cấp học:
1- Cấp học đạo đức bản thân có hai giới: Đức hiếu sinh, Đức ly tham, từ bỏ lấy của không cho.
2- Cấp học đạo đức gia đình có một giới: Đức chung thủy.
3- Cấp học đạo đức xã hội có hai giới: Đức thành thật, đức minh mẫn từ bỏ không uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, bài bạc, xì ke, ma tuý v.v…
Những học viên kém về văn hoá viết văn không thông suốt, nhưng tri kiến hiểu biết trả lời rất đúng câu hỏi, giảng viên cho học viên điểm 10. và lời khen tặng, khuyến khích một tràng pháo tay.
Những học viên kém về văn hoá viết văn không thông suốt, nhưng tri kiến hiểu biết trả lời không đúng câu hỏi thì giảng viên, đánh dấu vào tên học viên, mời học viên đến thất riêng của mình để giúp cho học viên hiểu bài học và hướng dẫn bằng cách thực hành đức hiếu sinh vào cuộc sống. Khi học viên hiểu đúng, trả lời đúng thì giảng viên cho 10 điểm để cuối khoá học không có học viên nào ở lại lớp, Đó là giáo viên dạy tốt, có đức hiếu sinh với học viên của lớp mình.
Lớp học này không phải học vì danh mà học vì đạo đức hiếu sinh để biết thương mình, thương người; để cuộc sống tâm hồn được thanh thản, an lạc và vô sự.
Lớp học này không phải học vì danh, mà học vì đạo đức hiếu sinh biết thương mình, thương người, nên chúng ta học không phải cố gắng để có điểm cao, tranh hơn tranh thua, mà cố gắng học để sống có đạo đức, để đem lại sự bình an và yêu thương cho nhau trên hành tinh này. Chính học và áp dụng thực hành được như vậy thì không cầu điểm cao mà vẫn có điểm cao; không cầu lên lớp mà vẫn được lên lớp. Cứ ngày ngày đều đặn lên lớp học đạo đức, học tới đâu thì áp dụng tới đó, khi nào áp dụng chỉ còn có một tình thương duy nhất trong lòng của các con là các con đã thành tựu đạo đức.
Tâm các con rất bất an khi có một sự chuyển biến trong lớp học là các con tưởng giải ra nhiều lý do, hiểu theo kiểu đời sống thường tình, hiểu theo lớp học văn hoá thế gian. Cho nên lớp học không lúc nào yên. Còn về việc chấm điểm học đạo đức không giống như chấm điểm học văn hoá và vì vậy các con không thể lấy trí phàm phu mà suy luận lớp học đạo đức này được Thầy sẽ hướng dẫn giảng viên cách thức chấm điểm rất công bằng mà không thiên lệch.
Cho nên trong lớp học có những gì chưa thông suốt thì viết thư góp ý với Thầy, nhờ có sự góp ý của tu sinh mới làm sáng tỏ và xây dựng lớp học trong tinh thần bình đẳng đúng nghĩa đạo đức nhân bản - nhân quả.
Đến đây Thầy có lời thăm và chúc các tu sinh cùng giảng viên mạnh khỏe, học tu đạo đức hiếu sinh cho thật tốt.
Thầy của các con
(Trả lời những câu hỏi ngày 6 - 2 – 2007)
Kính gửi: Kim Quang
Vì con khi biết Phật pháp, ít có đi các chùa, do đó cách thức ăn mặc quần áo của người cư sĩ và tu sĩ, con chưa nắm rõ lắm. Con kính mong Thầy giải thích cho con rõ và có thể nhân dịp này làm một qui ước chung cho chúng con luôn?
Ví dụ: khi con biết Phật pháp con quyết định cạo tóc ngắn để xả bỏ coi cái thân này là đẹp và để tránh các duyên đời (vì con còn trẻ). Cho nên có lẻ hai ba năm nay con luôn để tóc như các Thầy. Lần này về tu viện tham gia học con mới biết là trong bản cam kết có qui định cư sĩ không được giả làm tu sĩ. Vậy thì con sẽ để tóc mọc bình thường lại.
Hỏi 1:Con muốn hỏi Thầy rằng các vị tu sĩ để tóc dài đến bao nhiêu thì phải cạo để con biết con sẽ cắt ngắn tới đó, không cắt ngắn hơn mà phạm nội qui của tu viện.
Đáp 1:Tu sĩ Phật giáo mỗi tháng có 2 lần cạo tóc vào ngày 30 và ngày 14; còn cư sĩ cạo tóc cũng vào những ngày đó không có phạm lỗi, vì các cư sĩ cạo tóc là tịnh nhân, người mới tập sự xuất gia, những người ấy xin thế phát chứ chưa thọ giới.
Cư sĩ cạo tóc đều không sao cả chỉ tập sự làm tu sĩ cho nên có nhiều người gọi thầy. Trong Phật giáo danh xưng thầy có nhiều: Thầy Tịnh nhân (Người mới cạo tóc chưa thọ giới), thầy Sa Di (Người thọ 10 giới) thầy Tỳ Kheo (Người thọ 250 giới), thầy giáo: người dạy học văn hóa, thầy cúng: người chuyên cúng bái tụng niệm, thầy đồ: người dạy chữ Nho, Thầy thuốc: người trị bệnh theo phương pháp đông y, thầy bùa: người vẽ bùa trị bệnh v.v...Cho nên tiếng thầy rất thông dụng và có sự tôn trọng, cung kính cũng giống như danh từ xưng hô tôn trọng bằng chú, bác, cô, dì vậy thôi. Danh xưng gọi thầy là một từ xưng hô tốt không có gì đáng ngại con ạ!
Câu hỏi 2: Nếu con sống ngoài đời thì có được cạo ngắn như người tu sĩ hay không? Hay là vẫn giữ đúng nội qui của người cư sĩ ?
Đáp 2:Người cư sĩ vẫn cạo tóc như tu sĩ Phật giáo đều không có tội gì cả.
Câu hỏi 3:Về việc giả làm tu sĩ còn có chiếc áo, hiện con đang mặc áo dài màu nâu (là chiếc áo cô Út cho con) và có 2 bộ ngắn cũng màu nâu. con để ý khi con mặc chiếc áo dài nâu cộng với cái đầu tóc ngắn khi đi đâu ai cũng gọi con là thầy con nghĩ chắc con phải kiếm cái áo dài màu lam mặc để mọi người không bị lầm nữa.
Đáp 3:Y áo của Phật tử có ba màu: Lam, nâu và vàng
Hiện giờ Bắc Tông cư sĩ và tu sĩ đều mặc y áo màu nâu và màu lam, còn màu vàng thì chỉ dành riêng cho tu sĩ thọ cụ túc giới mặc mà thôi, nhưng ngược lại bên hệ phái khất sĩ Sa Di vẫn mặc y áo màu vàng, nhưng y thượng chỉ có hai miếng vải lớn ghép lại. Cho nên hiện giờ con mặc y áo màu lam, màu nâu đều không có lỗi
Câu hỏi 4:Con có hai bộ quần áo nâu ngắn thì có được không Thầy? Hay là phải đổi thành màu lam hết đối với cư sĩ, màu nâu của quần áo chỉ dành cho tu sĩ thôi phải không Thầy?
Đáp 4:Con hai bộ quần áo nâu ngắn thì cứ mặc có sao đâu, Tất cả y áo ăn mặc của cư sĩ và tu sĩ đều do Giáo Hội chỉ định, chứ chúng ta không có quyền.
Câu hỏi 5: Nếu con ăn mặc sai không đúng quy định về việc mặc quần áo đối với cư sĩ thì có cần phải sửa đổi liền hay không?
Đáp 5: Con cứ ăn mặc bình thường vì tất cả tu sĩ và cư sĩ Phật giáo Bắc tông hiện giờ đều ăn mặc như vậy cả.
Câu hỏi 6: Ý con muốn nói là về Sài Gòn mua hay may quần áo màu lam cho đúng rồi mới quay trở lại tu viện học tiếp? Hay là học xong khóa học này rồi sửa cũng được ?
Đáp 6: Có y áo nào mặc cũng được đừng nên may làm chi cho bận tâm tốn hao, chiếc áo không làm nên người tu.
Câu hỏi 7: Khi sống ở nhà con có được mặc quần áo của người cư sĩ không? hoặc chỉ mặc quần hoặc áo thôi? Và màu sắc có quan trọng hay không? Ví dụ hiện nay ở nhà con thường mặc quần nâu. Vậy có sao không Thầy?
Đáp 7: Ở nhà hay đến lớp học đều mặc đồ nâu hay đồ lam ngắn đều được cả, nhưng khi đến lớp học chỉ mặc thêm chiếc áo tràng dài màu nâu hay màu lam.
Câu hỏi 8: Vì lòng từ bi mà mình đến cốc của một tu sinh bị bệnh hỏi thăm. Theo nguyên tắc là phá hạnh độc cư, nhưng vì mình muốn áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống nên phải phá hạnh độc cư vậy người này phải xử lý ra sao?
Còn điều gì khác con chưa rõ, xin Thầy giảng dạy cho con luôn. Cám ơn Thầy.
Kim Quang.
Đáp 8:Đây là lớp học đạo đức NGŨ GIỚI, chứ không phải lớp CHÁNH NIỆM TỨ NIỆM XỨ nên sự đến thất thăm một người bệnh là một điều tốt, đó là thực hiện đức hiếu sinh.
Các con phải biết phân biệt hạnh độc cư của lớp NGŨ GIỚI không giống với hạnh độc cư cuả Lớp CHÁNH NIỆM, Lớp Chánh Niệm áp dụng độc cư 100% còn lớp Ngũ Giới chỉ áp dụng 50%. Lớp Ngũ Giới là lớp học giới luật đức hạnh thuộc về định Vô lậu, còn lớp Chánh Niệm là lớp học tỉnh thức thuộc về TỨ NIỆM XỨ.
Sau khi năm lớp NGŨ GIỚI được thành hình có nghĩa là: lớp I Đức Hiếu Sinh; lớp II Đức Ly Tham từ bỏ lấy của không cho; lớpIII Đức Chung Thủy; lớp IV Đức Thành Thật; lớp V Đức Minh Mẫn từ bỏ rượu, thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, xì ke, ma tuý, cờ bạc, cá cược v.v… Các lớp này được thành hình đầy đủ thì vấn đề ăn mặc mới được sắp xếp. Cư sĩ mặc màu gì? Tịnh nhân mặc màu gì? Sa di mặc màu gì? Tỳ kheo mặc màu gì?
Còn bây giờ con mặc như vậy không ai bắt lỗi con được vì đó là lối ăn mặc của người cư sĩ và tu sĩ Phật giáo Đại thừa đã trở thành lối ăn mặc chung của bốn giới đệ tử Phật không ai dám bảo con ăn mặc sai được và cho con giả danh tu sĩ được.
Thăm và chúc con mạnh khoẻ tu tập rèn nhân cách xả tâm tốt.
Thầy của con
Kính gửi: Thầy Chơn Thành và thầy Phước Tồn.
Con nên thông báo cho tu sinh biết: Khi đến lớp học chưa vào giờ học thì được nói chuyện với nhau, còn trong giờ học thì không được nói chuyện. Khi về thất còn phải lo tu tập định chánh niệm tỉnh giác, định niệm hơi thở, định thư giản (sáng suốt) định vô lậu và còn rèn luyện đức hiếu sinh trong những bài đã được học để lên lớp trình lại sự tu học của mình, thì còn thì giờ đâu mà đi nói chuyện.
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng.
Tấc vàng tìm được không gì khó,
Tất cả tu sinh đều theo bản cam đoan và nội qui của tu viện để sống độc cư đúng cách, để tu học cho tốt hơn, nếu tu sinh nào vi phạm một lần thì giảng viên viết thư mời riêng lên Tổ đường cho biết đã vi phạm nội qui và tờ cam đoan, nên dùng lời khuyên, nếu vi phạm lần thứ hai, thứ ba thì sau ba tháng học tập giảng viên đọc danh sách cho biết học viên nào được lên lớp và học viên nào ở lại lớp, Giảng viên không bớt điểm học của tu sinh nhưng ghi vào sổ hạnh kiểm xấu để ngày mãn khoá đọc danh sách những tu sinh phạm giới phá giới cho toàn cả lớp biết. Sổ hạnh kiểm được giữ lại để đưa vào lịch sử lớp học NGŨ GIỚI rèn nhân cách đầu tiên của tu viện, tên tuổi của những tu sinh ấy được lưu truyền mãi mãi, theo như lịch sử trong thời đức Phật những tỳ kheo phạm giới, phá giới đều được lưu truyền cho đến ngày nay như: Đề Bà Đạt Đa, Lục quần tỳ kheo, tỳ kheo Sudinna, tỳ kheo Dhaniya v.v...
Riêng Thanh Quang được hưởng đặc cách là lo việc cho tu viện, tiếp giao với bên ngoài, còn tất cả tu sinh đều phải lo tu tập không nên phạm giới, vì bỏ gia đình, cha mẹ vợ con, anh, chị, em v.v... bỏ cả nghề nghiệp sinh sống chỉ còn đi xin ăn mà phạm giới thì rất xấu hổ.
Phước Tồn hỏi:
Hỏi: Học viên trình bày hành động rèn luyện đức hiếu sinh cho cả lớp đều nghe, đó không phải là công đức, cũng không phải là kết quả tu tập, mà đó là sự tu đang tập đức hiếu sinh. Có đúng như vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, đó là trình bày sự tu tập trước giảng viên và các học viên để giảng viên sửa những chỗ sai của mình tức là sửa sai của các học viên khác.
Hỏi: Kết quả tu tập của Đức Hiếu Sinh là cơ bản để tu tập Tứ Thần Túc và Tam Minh, nếu con trình bày Tứ Thần Túc và Tam Minh là con sai. Con đã hiểu lầm kết quả của Đức Hiếu Sinh không phải là kết quả của Tứ Thần Túc. Có đúng như vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đúng, kết quả của Đức Hiếu Sinh không phải là kết quả của Tứ Thần Túc, nhưng không có kết quả của Đức Hiếu Sinh thì không bao giờ tu tập có kết quả Tứ Thần Túc
Hỏi:Con trình bày cách tu tập pháp môn Thân Hành Niệm cho mọi người xem, thì đó đâu phải là công đức kết quả của pháp Thân Hành Niệm, chừng nào con trình diễn lực đẩy, lực bay bổng thân con bay cao lên một thước, hai thước của pháp Thân Hành Niệm là con sai.Phải không thưa Thầy?
Đáp: Trình bày cách tu tập pháp môn Thân Hành Niệm cho mọi người xem để mọi người theo đó tu tập không sai, còn con trình bày kết quả của pháp môn Thân Hành Niệm là con khoe khoang còn thích danh chấp ngã con có biết không?
- Cho chúng sinh ăn là đức bố thí, là đức hiếu sinh, do từ đâu chó đến chứ không phải con đi xin chó về nuôi là có lỗi phạm giới.
- Người tu sĩ để mình thành một thói quen nào cũng phạm giới, ăn cơm không muối mà đi kiếm muối là phạm giới, người tu sĩ ai cho gì ăn nấy không được đi kiếm thêm trừ khi đau ốm. Huống là ghiện ớt, ăn cơm không ớt ăn không được, đó là bệnh nghiện ớt.
Thăm và chúc các con mạnh khỏe tu tập rèn nhân cách đức hiếu sinh cho thật tốt.
Thầy của các con
(Ngày 17/ 12/ 2006)
Kính gửi: Quý Phật tử Hà Nội
Được thông báo Tu Viện mở các lớp học đầu tiên về đạo đức của Phật giáo. Có 23 chị em Hà Nội, lên đường ngày 26 tháng 9 – 2006 để dự khóa học vào ngày 1 tháng 10 Âm lịch .
Hai mươi ba chị em này được ghi vào danh sách những người Hà Nội đầu tiên tham dự vào lớp học lịch sử. Vì giáo lý của đức Phật đã trở thành giáo án của một chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả giúp cho con người sống không làm khổ mình, khổ người.
Sau những ngày học tập chuyên cần, quý Phật tử đã thấy rõ kết quả những bài học đạo đức hiếu sinh, khiến cho quý vị có nhiều tiến bộ về lòng yêu thương mình, thương người và thương tất cả các loài động vật khác.
Tám bài học đạo đức hiếu sinh đầu tiên đã giúp ví quý tìm lại mình, mới thấy chính mình từ lâu còn mang ác pháp hơn là thiện pháp.
Tám bài học này chưa đủ, vì còn rất nhiều bài học đạo đức hiếu sinh nữa nó sẽ đem đến và giúp cho quý Phật tử gọt sạch những ác pháp để lại một tâm hồn thanh khiết thương yêu rộng lớn vô bờ bến.
Rồi đây quý Phật tử sẽ về quê đem những bài đạo đức hiếu sinh nhắc lại với người thân, cha mẹ, anh em, chị em, con cháu và bạn bè thân hữu của mình.
Những bài học đạo đức từ trước đến nay chưa từng được ai nhắc nhở kỹ lưỡng như thế này. Vì thế mọi người sẽ ngạc nhiên và không ngờ rằng đạo Phật lại có những bài học đạo đức cụ thể, thực tế về đời sống của con người. Thật là hy hữu và tuyệt vời. Chúng ta là những người may mắn nhất được sinh làm người được gặp đạo đức của Phật, được rèn luyện nhân cách để trở thành những bậc Thánh thiện.
Hôm nay quý Phật tử đã tham dự những buổi học đạo đức hiếu sinh mặc dù Thầy không dạy nhưng giáo án Thầy biên soạn khiến cho mỗi bài học đạo đức sinh động khó quên cho người học đạo đức.
Các con là những phật tử có đầy đủ diễm phúc mới được về dự các lớp học này từ đây tu viện sẽ mở cửa đón những người con Phật về đây học đạo đức từ bốn phương.
Những bộ sách giáo án dạy đạo đức này sẽ được xin phép in ấn và sau này sẽ biên soạn lại thành sách giáo khoa theo đúng chương trình văn hóa của bộ Giáo Dục. Để các cháu học tập và rèn luyện nhân cách từ Tiểu học, Trung học và Đại học.
Thăm và chúc các con mạnh nhớ tu tập xả tâm cho thật tốt.
Thầy của các con
Kính gởi: Minh Nhân, Chơn Thành, Thanh Quang, Từ Quang, Giác Thường và tất cả nam nữ tu sĩ và cư sĩ tại Tu Viện Chơn Như.
Là tu sĩ Phật giáo các con đều phải thông suốt những gì cần thông suốt:
1- Thông suốt giới luật.
2- Thông suốt thiền định.
3- Thông suốt tuệ Tam Minh.
* Thông suốt giới luật là phải thông suốt các pháp Yết Ma. Các pháp Yết Ma thông suốt là phải thông suốt nghi thức truyền giới, nghi thức thọ giới. Thông suốt nghi thức truyền giới, nghi thức thọ giới là phải thông suốt giới đàn và phải biết thành lập giới đàn. Lập giới đàn là phải biết sử dụng bao nhiêu người, và còn thông suốt pháp tác bạch các pháp Yết Ma. Có làm được như vậy mới gọi là một tu sĩ Phật giáo.
* Thông suốt giới luật là phải thông suốt giới đức, giới hạnh, giới hành. Thông suốt giới đức, giới hạnh, giới hành là phải thông suốt giáo trình, giáo án đức hạnh và pháp hành đức hạnh. Có như vậy các con mới biên soạn giáo án đứng lớp dạy mọi người về đức hạnh giới luật. Nếu chưa thông suốt thì phải tu học và còn tu tập nhiều hơn nữa, nếu không chịu tu học thì các con chỉ là những tu sĩ mù, hình thức là tu sĩ bên ngoài, còn hiểu biết để điều hành của người tu sĩ thì chưa có gì cả.
Thầy biết rất rõ, cho các con mặc chiếc áo tu sĩ, nhưng chưa có thì giờ giảng dạy cho các con hiểu biết các pháp Yết Ma, các giới luật đức hạnh, vì thế, không học hiểu các pháp Yết Ma nên giới luật thường vi phạm mà không biết. Giới luật vi phạm làm sao tu hành chứng đạt Tam Minh được.
Hai mươi mấy năm, những tu sĩ các hệ phái Phật giáo về tu viện Chơn Như tu tập đều phạm giới tướng phòng hộ, Phần đông không hiểu giới tướng của các pháp Yết Ma. Còn nói đến giới thể thì các tu sĩ chưa có ai biết cả. Vì vậy dạy giữ giới hạnh độc cư thì lại phạm giới tướng độc cư. Thật là tội nghiệp .
Các con không chịu đến lớp học, giáo án lớp NGŨ GIỚI, thì sau này các con biết đâu mà dạy lớp NGŨ GIỚI. Có học, có tu, có sống giới luật thì mới biên soạn giáo án dạy người tu tập giới đức, giới hạnh, giới hành .
Thầy Chơn Thành và cô Diệu Quang đang dạy giáo án lớp NGŨ GIỚI rồi lần lượt sau này đến phiên các con dạy. Các con chưa soạn giáo án lớp NGŨ GIỚI được. Vậy hãy lên lớp Thầy Chơn Thành bên nam và lớp cô Diệu Quang bên nữ đang dạy theo giáo án Thầy biên soạn, rồi sau đó các con mới biên soạn được. Đây mới khởi sự bắt đầu vào giới tướng của các pháp Yết Ma.
Có học mới biết, không học thì không thể biết, không biên soạn được những giáo án. Sau đây là chương trình học có rất nhiều lớp cho những người xuất gia và tại gia. Nếu các con tự mãn cho mình tu học như vậy là đủ, khi đứng ra dạy cũng như làm Phật sự khác thì cũng giống như một người mù. Tu hành không chứng mà giới luật vi phạm thì có ich gì cho bản thân các con và những người khác.
* Lớp THỌ BÁT QUAN TRAI gồm có hai phần:
1- Nghi thức truyền THỌ BÁT QUAN TRAI.
2- Giáo án học lớp THỌ BÁT QUAN TRAI.
* Lớp THỌ TAM QUY gồm có hai phần:
1- Nghi thức truyền TAM QUY .
2- Giáo án học lớp TAM QUY .
* Lớp THỌ NGŨ GIỚI gồm có 2 phần:
1- Nghi thức THỌ NGŨ GIỚI
2- Giáo án học THỌ NGŨ GIỚI
* Lớp TU THẬP THIỆN chỉ có giáo án, không có nghi thức THỌ THẬP THIỆN.
Còn bây giờ các con viết bài giống như những bài thuyết giảng chung chung mà thôi. Như vậy đứng lớp dạy giới luật đạo đức sao được.
Văn hóa Phật giáo đã truyền vào đất nước Việt Nam trên 2000 ngàn năm để lại cái đúng, cái tốt cũng nhiều mà cái sai, cái xấu cũng không phải ít. Chúng ta là dân tộc Việt Nam, chúng ta hãy học tập và tu luyện trau dồi những đức hạnh giới luật để chỉnh đốn lại nền văn hóa cao đẹp của một dân tộc anh hùng Việt Nam bất khuất. Để càng ngày dân tộc này sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả, càng làm tốt cho quê hương xứ sở này hơn nữa.
Muốn làm một con người đức hạnh mà không tự dẹp ngã thì làm sao có đức hạnh được. Phải không các con?
Đạo đức lớp NGŨ GIỚI trong hơn 1 tháng tu học bên nữ có nhiều tiến bộ rõ rệt về đức hạnh, nhất là tu sĩ nữ rất đáng khen tham dự lớp học đều đều để diệt ngã xả tâm để trau dồi tri kiến đức hạnh giải thoát, góp ý và trả lời những câu hỏi đạo đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý hành cụ thể rõ ràng.
Ngày tổng kết một tháng tu học đạo đức của lớp học bên nữ đã đạt được kết quả không ngờ qua những bài phát biểu của các cô từ người già trên 80 tuổi như sư Cô Huệ Ân vẫn chống gậy đến lớp học, tuy đã làm chủ được bệnh và tịnh chỉ hơi thở 15 phút, nhưng vẫn đến lớp học đạo đức đến những em bé trẻ nhất 12, 13 tuổi như bé Nhi v.v... Bên nữ tu sĩ cũng tham dự học rất nhiều, nhưng có một vài người không học rất uổng, rồi đây các pháp Yết Ma sẽ không bao giờ biết.
Lớp học bên nam cũng có tiến bộ, nhưng tu sĩ nam ít theo tu học hơn, bỏ qua những bài học cơ bản giới luật đức hạnh rất uổng. Nhất là lớp học quá mới mẻ, sự sắp xếp các lớp chưa ổn định, lớp nào chưa ra lớp nấy, vì chưa có người đứng lớp, nên lớp này chồng chéo lên lớp kia.
Sau này có người dạy thì lớp NGŨ GIỚI theo lớp NGŨ GIỚI: Lớp THỌ BÁT QUAN TRAI theo lớp THỌ BÁT QUAN TRAI.
Đây là một chương trình giáo dục đào tạo đạo đức giới luật của Phật giáo quá mới mẻ, vì thế các con là cư sĩ cũng như tu sĩ đều phải đến lớp học tập để được trắc nghiệm thử thách đức hạnh và tri kiến giải thoát, để chuyển cấp lên lớp học cao hơn. Nếu không chịu khó học tập và rèn luyện nhân cách thì các con chỉ là những cư sĩ và tu sĩ không có giá trị đạo đức giới luật, dù các con có ngồi thiền ức chế thân tâm bất động một hai tuần lễ không ăn uống, những vẫn xem là người không đức hạnh giới luật, là tu sĩ ngoại đạo. Vì đạo Phật lấy giới luật đức hạnh làm mạng sống của Phật giáo: “GIỚI LUẬT CÒN LÀ PHẬT GIÁO CÒN, GIỚI LUẬT MẤT LÀ PHẬT GIÁO MẤT”.
Cuối cùng Thầy có lời thăm và chúc các con mạnh khoẻ an vui, tu tập xả tâm tốt và nhớ sống không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh.
Thầy của các con .
(Ngày 24 - 12 – 2006)
Kính thưa quý tu sinh! Hai từ GIÁO TRÌNH VÀ GIÁO ÁN Thầy xin định nghĩa hai từ này để các con phân biệt khi biên soạn GIÁO TRÌNH và GIÁO ÁN cho được dễ dàng.
GIÁO TRÌNH là một chương trình tùy theo các cấp GIỚI, ĐỊNH và TUỆ được biên soạn theo từng bộ môn chuyên khoa để cho người học bộ môn đó được hướng dẫn học tập và nghiên cứu hiểu biết tường tận.
GIÁO ÁN thì không có nghĩa như GIÁO TRÌNH. GIÁO ÁN là một bài học ngắn gọn được giảng viên biên soạn để đứng lớp truyền đạt, triển khai và đào luyện tư tưởng của những học viên, để cho những học viên thấm nhuần những bộ môn học tập đó, để trở thành một tri kiến hiểu biết và phản xạ một cách tự nhiên.
Hiểu rõ được hai từ này thì các con sẽ biên sọan những bài học đạo đức nhân bản rất dễ dàng. Hãy cố gắng lên các con ạ! Nhờ bàn tay và khối óc của các con cùng Thầy dựng lại nền đạo đức cho loài người. “Một cây làm chẳng nên non ba cây dụm lại nên hòn núi cao”, vì thế một mình Thầy khó mà dựng lại Chánh pháp của Phật chỉ nhời các con và các cháu nối tiếp sau này thì mới làm nên một việc làm vĩ đại.
Nhưng dù sao các con còn phải học và tu tập nhiều hơn nữa. Chúc các con mạnh và tu học xả tâm tốt.
Thầy của các con
(Ngày 30 - 11- 2006)
Kính gửi: Thanh Quang, Thiện Thảo và quý Thầy, quý Cô
Lúc nào cũng có Thầy ở một bên để hướng dẫn các con xả tâm và biên soạn giáo án đứng lớp dạy.
Có ba giai đoạn để dựng lại Chánh pháp của Phật .
1- Giai đoạn một: Thầy viết sách đã phá cái sai, dựng lại cái đúng của Phật giáo. Thầy phải chịu đựng suốt 25 năm. Đến hôm nay duyên đã đủ mới có Thanh Quang trợ giúp Thầy xin phép in ấn.
2- Giai đoạn hai: Kinh sách có giấy phép thì phải có người đứng lớp dạy tức là nhân sự. Thời gian đào tạo nhân sự quá ngắn nhưng các con cố gắng sẽ thành công, vì lúc nào cũng có Thầy ở một bên vừa giúp các con đứng lớp thuyết giáo và thân giáo do giới luật đức hạnh xả tâm nên các con đủ lòng tin của mọi người .
3- Giai đoạn ba: Khi đã có nhân sự thì vấn đề Trung Tâm An Dưỡng xin phép không phải còn khó khăn nữa.
Nếu các con không thấy việc lớn mà chỉ thấy những việc nhỏ trong Tu Viện, để tâm không yên thì làm sao tập trung vào việc lớn “Ngàn năm dựng lại Chánh pháp của Phật” . Nếu bỏ qua một việc may mắn ít có như thời điểm này thì cũng khó tìm lại hoặc phải chịu chậm trể hơn
Trên đời này chỉ có người vô minh, chứ không có người xấu ác. Khi họ không còn vô minh thì xấu ác cũng không còn. đáng trách là chúng ta cứ dính mắc cố chấp không buông xả.
Một khi có Thầy ở một bên thì vấn đề in kinh sách các con đừng lo, có cần điều gì cứ báo cho Thầy biết: để Thầy góp ý với các con thì mọi việc sẽ tốt đẹp .
Xin phép in kinh sách là điều quan trọng hàng đầu trong vấn đề chấn chỉnh Phật giáo. Vậy có điều chi các con cứ báo cho Thầy biết, để Thầy góp ý giải quyết những điều khó khăn .
Về đứng lớp dạy thì Thanh Quang vững vàng hơn mọi người, Thầy chỉ hướng dẫn giúp cho các con biên soạn giáo án lớp tu Thập Thiện .
Vậy con hãy dựa vào Thập Thiện biên soạn cho Thầy một đức hiếu sinh. ý hành tức là chánh tư duy. Lối biên soạn giống như biên soạn sách giáo khoa. Mỗi bài học đạo đức phải có câu hỏi, có câu trả lời để làm sáng tỏ bài học một cách linh động cho sự giáo dục đạo đức. Con chỉ biên soạn một đức hạnh hiếu sinh rồi gửi ra Thầy xem, Thầy sẽ góp ý và giúp cho con biên soạn tất cả những đức hạnh khác. Biên soạn giáo án là giúp Thầy đỡ nhiều công sức rất lớn. Và khi biên soạn xong thì đời sống đức hạnh của con cũng thắm nhuần rất xứng đáng là người đứng lớp.
Thiện thảo hãy biên soạn lại con biên soạn như vậy chưa thành giáo án chỉ là một bài thuyết giảng chung chung, đừng có biên soạn nhiều mà chỉ biên soạn một đức hạnh nào đó rồi gửi ra Thầy để Thầy giúp cho. Viết nhiều sai sẽ phí công và phí thì giờ vô ích, khi nào viết được thì mới biên soạn nhiều.
Có tu, thì phải có học, có học thì phải có tu. Tu mà không có học là tu mù, học mà không tu như cái tủ đựng kinh sách. Có học mới biết soạn thảo giáo án tức là thông suốt những gì cần thông suốt. Khi thông suốt thì xả tâm ngăn ác diệt ác pháp là một việc dễ dàng. Như vậy, tu học theo Phật giáo để chứng đạo vô lậu đâu phải khó khăn. Phải không các con?
Thăm và chúc các con mạnh tu học tinh tấn xả tâm
Thân thương chào các con
TB: Phước Tồn, Minh Nhân, Chơn Thành, Thanh Trí, Từ Quang, Chơn Niệm, Phụng, Diệu Quang, Mỹ Linh, Mỹ Thiện, Hải Tâm, Liễu Huệ, Hạnh Từ, Ngọc Bình, Liễu Thiện hãy đọc bức thư tâm thư này biên soạn cho Thầy chỉ một hành động ý hành đạo đức hiếu sinh trong giới KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH. gửi đến Thầy để Thầy góp ý và giúp đỡ về việc biên soạn Giáo An.
(Ngày 1 - 12 – 2006)
Kính gửi: Liễu Vân
Nhận được thông báo mở các lớp học đạo đức tại Tu Viện Chơn Như, các đoàn Phật tử ở mọi miền đất nước đã tập trung về đây tu học rèn luyện nhân cách đạo đức Phật giáo, trong đó có đoàn Phật tử Hà Nội, gồm hơn 23 người, có những người già yếu như cô Thuần Tâm, có những người bệnh tật như cô Diệu Đạo v.v... nhưng tinh thần hộ trì chánh pháp rất cao, đoàn kết rất mạnh, dũng cảm chẳng lùi, tuy tuổi già sức yếu, bệnh tật, nhưng ý chí sáng ngờitiến về Tu Viện Chơn Như dập dồn, đến nổi Tu Viện không còn chỗ trú phải ở chen chút nhau, để đứng trên đầu sóng dự khóa tu học các lớp, cùng Thầy dựng lại chánh pháp của Phật. Thật là hy hữu chưa từng có trong thời mạc pháp.
Tuy biết rằng lần này về không gặp Thầy, nhưng vẫn tiến bước không lùi, chính những hành động đó các con đã giúp Thầy dựng lại Chánh pháp của Phật, Thầy thầm biết ơn các con nhiều lắm.
Có sóng gió Chơn Như mới xác định được lòng người, ai đoàn kết, ai chia rẻ, ai li gián, ai phải, ai trái, ai đúng, ai sai, ai tốt, ai xấu, ai vì Phật pháp, ai vì đạo đức nhân bản – nhân quả, ai vì lợi ích cho loài người đều hiện rõ nguyên hình. Phải không các con ?
Được tin các con về Tu Viện, mạnh khoẻ, tu tập tốt với thầy Chơn Thành và cô Diệu Quang và sau này còn nhiều cô thầy dạy nữa, khiến Thầy rất mừng. Tuy ở xa các con nhưng Thầy luôn luôn dõi mắt theo từng bước đi chập chững, để trông nôm những đứa con thơ của mình. Điều ca ngợi nhất là không có Thầy nhưng các con không bỏ đường lối tu theo Phật pháp, sống đời đức hạnh.
Ví dụ: Như Thầy đã chết đi thì bây giờ các con sẽ theo ai tu hành đây?
Chắc chắn các con phải theo cô Diệu Quang, Liễu Huệ, Mỹ Thiện, Mỹ Linh v.v..., thầy Chơn Thành, Thanh Quang, Từ Quang, Giác Thường, Minh Nhân, Phước Tồn v.v...
Còn bấy giờ Thầy chỉ ẩn bóng chứ chưa phải chết, cho nên, sự dạy bảo của quý Thầy và quý Cô đều do sự chỉ đạo và hướng dẫn của Thầy đúng chương trình giáo dục đào tạo Thọ Bát Quan Trai, Ngũ Giới, Thập Thiện, Tam Quy rành mạch cụ thể có từng câu hỏi như sách giáo khoa của Bộ Giáo Dục .
Lần này quý Phật tử vào Tu Viện tu học nhận thấy có nhiều thay đổi về đường hướng dạy tu tập và sự kiểm tra kỹ lưỡng. Về học tập có nhiều câu hỏi để làm sáng tỏ nghĩa lý đạo đức. Phải không các con ?
Rồi đây các lớp học sẽ được dựng lại và mở cửa dạy theo đúng chương trình giáo dục đào tạo của Bộ Giáo Dục. Nền đạo đức của Phật giáo không những dạy ở Tu Viện mà còn dạy ở khắp mọi miền đất Nước, nhất là ở Hà Nội sẽ có trường lớp dạy đạo đức khi các con đem những điều mắt thấy, tai nghe về báo cáo lại cho các bác, các chú, cô, dì, anh chị, em Phật tử Hà Nội rõ.
Tu Viện Chơn Như đang dựng lại nền đạo đức Chánh pháp của Phật, có đường lối hẳn hoi và sẽ có nhiều giảng viên được huấn luyện kỹ để đứng lớp dạy.
Liễu Vân và các con, những Phật tử Hà Nội đừng bận tâm những sự việc xảy ra của một số người li gián nội bộ. Chúng ta kiên quyết Tổ nào không sinh hoạt đoàn kết thì bỏ ra, còn Tổ nào sinh hoạt đoàn kết thì các con mời các Tổ đó về họp để trợ giúp, duy trì cho các lớp học trong Tu Viện phát triển đi lên cho đến ngày Thầy về gặp lại các con.
Cho nên các con cứ nên yên tâm lo sinh hoạt với các Tổ, các nhóm biết thương yêu nhau, biết đoàn kết, biết đùm bọc lẫn nhau, còn Tổ nào chia rẻ thì bỏ qua. Họ là những người có mắt như mù, nên khi sóng gió Chơn Như là họ đã bị sóng gió đánh chìm dưới đáy biển sâu đen tối mịt mù, họ đang đánh mất chiếc phao cứu hộ, họ là những người lạc hướng và mất thăng bằng để vượt lên bờ. Họ là những người đáng thương, chúng ta hãy tha thứ và yêu thương họ, còn có duyên có ngày họ sẽ hướng về chánh pháp của Phật.
Sóng gió Chơn Như là những thử thách lòng người để biết ai vì Phật pháp, vì đạo đức thương yêu nhau trong khi tu viện Chơn Như gặp nhiều khó khăn.
Trong sự thành công nào cũng vậy đều phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách. Thầy đang điều khiển con thuyền Chơn Như lướt sóng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ để làm sáng tỏ lại Phật giáo, để giúp mọi người sống có đạo đức. Sự thành công này đều nhờ công sức đoàn kết của các con rất lớn. Nếu các con không chung sức, không đoàn kết thì một mình Thầy không làm nên một điều gì cả.
Sóng gió như vậy mà các con khăn gói lên đường vào Nam, hợp sức với Thầy, vượt trùng dương bão tố, mới có những lớp học ngày nay. Đó là một bằng chứng đoàn kết cụ thể, rõ ràng. Phải không các con?
Lời dạy tu tập của Thầy Chơn Thành và của cô Diệu Quang vang lên trong các lớp học, là tiếng gọi đoàn kết của tất cả Phật tử trong nước cũng như ở nước ngoài hãy siết chặt tay nhau, chung lưng đâu cật tiến lên dựng lại nền đạo đức nhân bản Chánh pháp của đức Phật mà đã hơn 2000 năm bị chôn vùi trong lớp giáo pháp thần quyền mê tín phi đạo đức.
Nửa tháng trôi biết qua bao nhiêu thử thách đều vượt qua và còn đang vượt qua nữa. Bởi vậy phải sáng suốt, phải có sự đoàn kết chân thật, phải có lòng yêu thương nhau tha thiết, phải có tinh thần trách nhiệm vì Phật pháp, vì đạo đức loài người trong bối cảnh khó khăn hết sức, giặc trong giặc ngoài, thì con thuyền Chơn Như mới được bình yên lướt sóng vượt trùng dương. Muốn được vậy thì chỉ có lá lành đùm là rách, chị ngã em nâng thì mới tạo thành sức đoàn kết mạnh mẽ vĩ đại.
Nhờ sức đoàn kết của các con hôm nay khiến cho Chơn Như đứng sừng sững giữa phong ba bão tố mà vẫn vang tiếng nói của Phật giáo hùng hồn như bài hát “Tiến Quân Ca”.
Con đường chấn chỉnh lại Phật giáo bao giờ cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là nội bộ không đoàn kết cố tình gây chia rẽ. Chúng ta vượt khó là vượt qua những tỵ hiềm, danh lợi.
Họ càng cố tình chia rẻ thì chúng ta càng cố gắng đoàn kết chặt chẽ hơn, để đánh bạt những người li gián, tỵ hiềm, có như vậy mới biết người nào đoàn kết người nào không đoàn kết; có như vậy chúng ta mới vượt lên chấn chỉnh Phật giáo càng tốt hơn.
Thầy đang ở một bên để chia sẻ những khó khăn và gian khổ, để lãnh đạo hướng dẫn các con lớn dần, trong Phật pháp. Liễu Vân và các con Phật tử Hà Nội trong tổ đoàn kết đừng lo sợ, lúc nào cũng có Thầy ở một bên để trợ giúp Tổ đoàn kết. Hãy im lặng như thánh đối với những người cố tình li gián, chia rẻ. Các con hãy mở lòng thương yêu và tha thứ cho họ.
Ngày mai họ sẽ thấy nền đạo đức của Phật giáo được sống lại và làm lợi ích cho mọi người, thì những lời nói của họ vẫn ghi vào lịch sử loài người để muôn đời biết đến. Đừng sợ hãi những người nói xấu mình, hãy cố gắng học tập và rèn luyện nhân cách cho tốt các con ạ!
Thầy âm thầm ở sau lưng các con để hướng dẫn một số người đứng lớp dạy đạo đức vững vàng chừng nào sóng yên biển lặng thì Thầy sẽ về gặp các con và về thăm Hà Nội, thăm các lớp dạy đạo đức. Nhất định Thầy không bỏ các con đâu. Thầy đang theo dõi từng bài học của các con đấy, hãy chăm học đạo đức cho tốt các con ạ!
Thăm và chúc các con dồi dào sức khỏe, nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thân thương chào các con.
(Ngày 7 - 12 – 2006)
Kính gửi : Diệu Vân.
1/ Trong khi tu hành Thầy không bị ngáp, lúc nào cũng tỉnh, chỉ muốn đi ngủ là ngủ, chứ không có lười biếng
2/ Khi rữa tay có xắn tay áo, rữa tay xong là sửa áo lại.
3/ Lúc đang tu tập không làm việc chung với ai cả, chỉ ở không lo tu tập xả tâm và cũng không làm việc riêng một mình. Chỉ ngồi chơi xả tâm.
4/ Không tập thể dục, chỉ tu tập Thân Hành Niệm khi bị hôn trầm, còn không hôn trầm thì ngồi chơi .
5/ Ngồi yên tác ý giai đoạn đầu, giai đoạn sau ngồi chơi có niệm thiện hay niệm thanh thản, an lạc và vô sự thì để tự nhiên không động địa đến nó, chỉ trừ có niệm ác do tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì diệt ngay liền bằngphương pháp tác ý chỉ cần vạch mặt tên niệm rõ ràng cụ thể thì tự nó đi mất.
6/ Không làm vi tính, ( Thời của Thầy chưa có vi tính) vì làm vi tính là không vô sự. Không vô sự phạm vào giới giới tướng hữu sự.
7/ Ăn uống, Thầy không có đồ ăn dư, vì mẹ Thầy cho thức ăn vừa đủ, nếu có thừa dư chút ít thì ráng ăn thêm cho hết không để lại, còn bữa nào ăn thiếu thì không đòi thêm.
8/ Trong thời gian tu rốt ráo những năm cuối cùng thầy là người vô sự hoàn toàn, không làm việc gì cả chỉ ngồi chơi gạn lọc tâm mình, không viết văn, không làm thơ, không đọc kinh sách, đến đổi tới giờ ăn cũng không nhớ, chỉ có mẹ Thầy mang đến cho ăn giờ nào thì ăn giờ nấy chứ không nghĩ phải nhớ phải ăn vào giờ ngọ.
9/ Sự cảm nhận của con là bị ý thức tưởng, nó làm tâm con không bất động.
10/ Con tu suốt đêm là tu phi thời không theo thời khóa của Phật, tự làm khổ thân tâm con mõi mệt.
11/ Tâm chưa định mà bắt thân định làm khỗ thân. Khi tâm định thì ngồi bao lâu cũng được, cần gì phải tập ngồi 2, 3 tiếng đồng hồ uổng phí công sức và chịu đau, tê chân.
12/ Thầy khác, con khác, Thầy nhờ mẹ giúp tu hành, còn con thì lo cho mẹ nên tu chẳng tới đâu .
13/ Tri vọng là có vọng liền buông mà không cần biết là vọng gì, còn xả tâm là do bốn pháp của Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả. Do lòng từ, bi mà xả ác pháp, xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Cho nên xả tâm là phải hiểu rõ niệm, phải chủ động tâm mình với lòng từ, bi chân thật.
14/ Con không cần đổi chỗ.
15/ Lấy Chánh Kiến làm pháp hiệu là tuyệt vời, Lấy pháp hiệu Chánh Kiến làm chỗ nương tựa tu hành và dẫn lối vào đạo.
16/ Không cần ngồi bất động 2 tháng chỉ có ly dục ly ác pháp là tâm bất động. Tâm bất động không phóng dật là chứng đạo.
17/ Con đừng làm thơ văn hãy để tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đó là con sống trong chân lí, bảo vệ chân lí. Sống trong chân lí, bảo vệ chân lí là hạnh phúc, là an vui, là ra khỏi nhà sanh tử luân hồi .
Người tu xong cũng vẫn sống trong chân lí này chứ không còn có cái sống nào khác nữa, cái chân lí nào khác nữa. Chân lí của con người chỉ có một chứ không có hai ba, Có hai, ba hay, có nhiều hơn nữa là không phải chân lí, đó là chân li ảo tưởng.
thăm và chúc con mạnh khỏe thường sống trong thanh thản, an lạc và vô sự.
Thân thương chào con.
(Ngọc Tuyền Sơn ngày 30 - 10 – 2006)
Kính gửi: Thanh Trí
Mỗi lần sóng Chơn Như là mỗi lần tu viện Chơn Như vươn mình lên. Hôm nay là giai đoạn chuyển biến tột cùng làm thay da đổi thịt toàn bộ tu viện, biến Phật giáo trở thành nền đạo đức nhân bản – nhân quả. Nên mọi người đều phải chan hòa tình yêu thương và tha thứ.
Vì vậy, các con đã về đây tu học dưới bóng mát của Chơn Như, cùng học một Thầy, cùng ở mỗi thất như nhau, cùng ăn ngày một bữa, cùng tu một pháp môn thì mỗi tu sinh đềuphải có bổn phận vàtrách nhiệm bảo vệ chánh pháp của Phật.
Lúc này hơn bao giờ hết là lúc cần phải đoàn kết nhau hơn, cần phải đóng cửa dạy nhau, lá lành đùm là rách, đừng vạch lưng cho người xem thẹo, nồi da xáo thịt chẳng ai khen đâu, mà còn làm cho Phật giáo càng tồi tệ hơn.
Ai cũng là con người thì phải có lỗi lầm, không lỗi điều này, thì có lỗi điều khác, không ai là không lỗi, đừng thiên kiến nhìn có một bên mà phải nhìn cả hai bên, từ người xấu sẽ trở thành người tốt, đó là một quy luật của nhân quả, không ai toàn thiện, mà cũng không ai toàn ác, chính từ những người ác biết sửa đổi sẽ trở thành những người thiện.
Khi cầm bút viết thơ hay văn là các con nên cố tránh nói đích danh cá nhân hay ám chỉ một người nào làm sai, làm quấy, vì viết thơ văn như vậy thiếu chất lượng xây dựng đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo. Còn ngược lại khi các con cầm bút viết thơ văn phải mạnh dạn vạch trần những sự sai quấy chung của một xã hội, của một tôn giáo hay của một học thuyết. Đó là người biết cầm bút, biết xây dựng cái tốt cho đời, cho đạo, đem lại hạnh phúc cho mọi người, cho nhân loại. Viết văn thơ như vậy là ngòi bút trở thành một vũ khí sắc bén tuyệt vời chém đá như chém bùn, nhờ đó mới đập phá cái sai, cái thiếu đạo đức, cái văn hoá không lành mạnh, cái phong tục hủ lậu, cái mê tín lạc hậu dị đoan v.v...
Người cầm bút viết thơ văn nói về tính xấu của cá nhân hay ám chỉ một người nào khác, thì thơ văn đó thiếu đạo đức nhân bản, đáng trách, đáng chê, mặc dù thơ văn đó nói sự thật, nhưng ở đây chúng ta phải hiểu, người viết thơ văn như vậy cũng là để thỏa mãn lòng phẩn uất phiền não của mình. Ngòi bút như vậy chỉ dùng giấy trắng mực đen, để thông tin cho mọi người đều biết cái xấu của người kia. Làm như vậy có lợi ích gì? Hay chỉ để làm cho người kia thân bại, danh liệt, ngóc đầu không lên, hoặc không còn nhìn được mặt những ai nữa. Hay là để chấn chỉnh Phật giáo bằng cách này? Không đâu các con ạ! Đó là cái hiểu sai.
Phật không dạy làm điều này mà dạy ái ngữ: “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”. Đó là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Ai sống được đạo đức này là người đang chấn chỉnh Phật giáo, đang dựng lại Chánh pháp của Phật .
Người viết văn thơ như vậy sẽ làm thêm thù bớt bạn. Người có trí hiểu biết sẽ xa lánh, vì khi thuận nhau thì không nói gì, nhưng khi nghịch nhau thì ngòi bút của họ là miệng lưỡi bươi móc chưởi nhau, mạt sát nhau. Văn thơ như vậy không phải là lối văn thơ xây dựng tốt đạo, đẹp đời; văn thơ như vậy là kém đạo đức nhân bản, thiếu văn hóa, thiếu tình người, thiếu lòng tha thứ, thiếu sự yêu thương. Tại sao các con không thấy nhân quả? Mà thấy cái đúng sai, phải trái của cá nhân con người để làm khổ mình, khổ người, biến ngòi bút của mình trở thành lưỡi dao hai lưỡi giết mình giết người con có thấy điều này không? Có lần Thầy đã sửa vài chữ trong thơ văn của con và bảo con đừng viết nữa. Đấy là Thầy muốn thơ văn con thanh thoát nhẹ nhàng và cao thượng. Con có thấy thơ văn của Thanh Quang và Từ Quang không? Đâu phải hai người không biết cái sai cái đúng, nhưng hai người thường dùng lời thuận hay nghịch là cố ý giúp đỡ người khác khắc phục cái xấu để trở thành người tốt hơn.
Một người có đạo đức thấy một người khác làm sai lầm lỗi một điều gì, nếu thấy mình có đủ khả năng thì hai người cùng ngồi lại trực tiếp nói chuyện khuyên nhau những điều phải trái để cho người kia sửa đổi, nếu người đó không nghe lời khuyên của mình, hoặc khả năng của mình không thể thuyết phục được người đó thì im lặng không nói một lời nào, không chỉ trích, không nói tính xấu của người đó với một người thứ ba, huống là viết văn thơ bêu xấu người đó cho mọi người đều biết thì ngòi bút ấy rất tệ, rất độc ác, đứng trong góc độ đạo đức Phật giáo không làm khổ mình, khổ người thì ngòi bút đó là ngòi bút thiếu đạo đức nhân bản, mất nhân tính, giết người bằng ngòi bút, ngòi bút đó là bút máu.
Bởi vậy khi cầm bút viết về cá nhân người nào chúng ta cũng đừng quá ca ngợi cao vút người đó trên mây xanh, rồi cũng có ngày sẽ hạ họ xuống tận vực sâu hố thẳm, mà hãy viết đúng sự thật. Còn khi cầm bút viết hay nói về một người nào làm sai quấy thì cố gắng tránh không nói tính xấu, không bươi móc điều xấu của người đó như trên đã nói.
Khi viết hay nói về một cá nhân nào nên khen tặng cái tốt của người đó ra, đừng vạch cái xấu ra. Đó là tạo duyên thiện cảm để có ngày giúp đỡ người đó xây dựng lại người tốt. Người viết văn như vậy mới là thiện hữu tri thức của mọi người, người bạn tốt mà ai cũng mến phục. Có đúng như vậy không con?
Một người cầm bút viết phải là người có lòng yêu thương rộng lớn vô bờ bến, thương tất cả mọi loài, thương tất cả mọi người, dù bất cứ một người nào thiện hay ác đều thương như nhau. Vì thương người nên luôn luôn dùng ái ngữ, viết những lời thơ văn đầy lòng từ bi lân mẫn, vì thế lời văn thơ không dùng ác ngữ.
“Tất Cả Sẽ Thay Đổi… Bởi Tình Yêu Thương” đây là một tựa đề của cuộc thí nghiệp trong một ngôi trường: “Một buổi sáng bà hiệu trưởng thông báo trước toàn thể học sinh: “Hôm nay, chúng ta sẽ bắt đầu một thí nghiệm về tinh thần”. Bà giơ hai cây thường xuân được trồng trong hai cái chậu giống hệt nhau. “Chúng ta có hai chậu cây” , bà nói, “Các con có thấy chúng giống nhau không?
Tất cả học sinh đều đồng loạt gật đầu. Tôi cũng vậy, vì trong lĩnh vực này, tôi cũng chỉ là một đứa trẻ.
“Chúng ta sẽ cho hai chậu cây này cùng lượng nước, cùng lượng ánh sáng nhưng không cùng lượng quan tâm”, bà nói, “Chúng ta sẽ cùng nhau quan sát xem điều gì sẽ xảy ra khi ta đặt một cây vào nhà bếp, nơi chẳng có ai để ý đến, và một cây ở ngay trong đại sảnh, nơi mọi người ra vào mỗi ngày”.
Bà đặt một cây lên lan can và cùng lũ học sinh, rồng rắn kéo nhau vào nhà bếp, đặt chậu cây kia lên một chiếc bàn ở chỗ khụất. Sau đó, bà lại dẫn đám học sinh đang tròn mắt ngạc nhiên trở ra đại sảnh.
“Trong tháng tới, cứ mỗi ngày, chúng ta lại hát cho chậu cây này nghe”, bà nói, “Chúng ta sẽ nói cho nó biết rằng chúng ta yêu mến nó, rằng nó là một cây thường xuân xinh đẹp. Chúng ta sẽ nghĩ những điều tốt đẹp về nó”.
Một đứa giơ tay lên “thưa cô thế còn cây thường xuân trong kia?” nó đưa ngón tay nhỏ nhắn chỉ vào trong bếp. Bà hiệu trưởng mỉm cười: “Chúng ta sẽ dùng nó để làm vật so sánh trong thí nghiệm này. Các con nghĩ sẽ đối xử với nó ra sao?
“Có phải chúng ta sẽ không hát, không nói chuyện với nó?
Không nói một lời nào.
“Chúng ta cũng không nghĩ những điều tốt đẹp về nó?”
“Đúng vậy và chúng ta sẽ chờ xem điều gì xảy ra sao đó”.
Bốn tuần sau tôi cũng như đám trẻ con, hoàn toàn ngạc nhiên trước những điều nhìn thấy. Cây thường xuân đặt trong nhà bếp trông yếu ơt, bệnh hoạn và hầu như không phát triển. Nhưng cây thường xuân đặt trong đại sảnh, được hát cho nghe mỗi ngày, được bọn trẻ trò chuyện và gửi đến những lời khen tặng tốt đẹp, đã lớn lên gấp ba lần. Những chiếc lá xanh vươn dài, tràng đầy nhựa sống.
Để có thể minh chứng cho thí nghiệm này, và để làm khô đi những giọt nước mắt cảm thương cho thân phận của cây thường xuân trong bếp của bọn trẻ có trái tim yếu đuối, chúng tôi đã mang nó ra ngoài phòng lớn và đặt đối diện bên cây kia..
Chỉ trong ba tuần cây thường xuân thứ hai đã bắt kịp cây thứ nhất. Và sau bốn tuần, hầu như không phân biệt được giữa hai cây. Tôi đã học được một bài học vô cùng quan trọng: mọi thứ điều phát triển .. nếu có tình yêu .
“Người Thắp Sáng Ước Mơ”
Ký thư tuyển chọn và biên dịch
Đây con có nghe thấy câu chuyện trên đây không? Thanh Trí con hãy nghe lời Thầy, ngòi bút của con là ngòi bút tốt, ngòi bút của tình thương, để viết đạo đức nhân bản, soạn thảo GIÁO ÁN LỚP THỌ TAM QUY để dạy người học đạo đức mới bước chân vào đạo Phật. Đây là lớp vỡ lòng đạo đức của Phật giáo, Thầy tin rằng con sẽ biên soạn được. Biên soạn lý thuyết và thực hành đạo đức nhân bản này thì phải biên soạn đi song song với nhau từng hành động đạo đức một.
Muốn viết được GIÁO ÁN này thì con nên đọc kỹ lại tập sách THỌ TAM QUY rồi mới viết. Vồn công phu này viết đạo đức là xây dựng tư tưởng cho mình một đức hạnh VÔ LẬU của Phật giáo khiến cho con từ sự Chánh tư duy đến thân hành Chánh nghiệp và khẩu hành Chánh ngữ hoàn toàn thanh tịnh trong sáng và cao thượng tuyệt vời. Con hãy bắt tay vào việc làm này, những gì không biết Thầy sẽ trợ giúp thêm, để các con trở thành người thay Thầy, đem đạo đức đến với mọi người vì Thầy đã già rồi, cũng phải có ngày từ giả các con vào Niết Bàn mà thôi.
Thăm và chúc con vui mạnh nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thân thương chào con
Kính gửi: Minh Nhân
Bài con viết là giáo trình học tập, còn giáo án thì không biên soạn như vậy. Con nên theo sự hướng dẫn của Thầy mà biên soạn .
1- Niệm hồng danh Phật.
2- Giới thiệu về lớp học năm giới đức
3- Triển khai giới thứ nhất KHÔNG NÊN SÁT SANH, con nói rõ về GIỚI ĐỨC, GIỚI HẠNH, GIỚI HÀNH
4- Giới đức xuất phát từ THÂN như thế nào? Từ KHẨU như thế nào ? Từ Ý như thế nào ?
5- Giới hạnh xuất phát từ THÂN như thế nào? Từ KHẨU như thế nào? Từ Ý như thế nào?
6- Giới thứ nhất với ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ, với ĐỊNH VÔ LẬU, với ĐỊNH CHÁNH NIỆM CHÁNH TỈNH GIÁC như thế nào?
Chỉ một giới sát sanh từ lý thuyết đến thực hành con phải biên soạn làm nhiều giờ tu tập, chứ không phải giảng nói suông. Một giờ lý thuyết về đức hạnh, thì một giờ dạy về thực hành đức hạnh.
Khi nào con làm chưa được Thầy sẽ hướng dẫn thêm để con soạn cho được giáo án rèn luyện nhân cách đạo đức làm người.
Giáo án dễ soạn nhất là “THỌ BÁT QUAN TRAI”. Vậy con hãy soạn thử rồi Thầy giúp cho. Có chịu khó soạn thảo là tu tập, là triển khai tri kiến, nhờ đó con mới có đủ tri kiến để xả tâm và sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả.
Thăm và chúc con mạnh khoẻ, nhớ xả tâm và sống độc cư tốt
Thân thương chào con
T.B: Soạn thảo bài mà con đã gửi cho Thầy cũng giúp cho tri kiến con đứng giảng rất tốt. Khi làm bài không có bài nào không ích lợi, nếu biết áp dụng vào đời sống đó là xả tâm; nếu đứng lớp dạy thì giảng nói lưu loát
(Ngày 12 - 11 – 2006)
Kính gởi: Thiện Thảo
Con cảm nhận tâm THANH TỊNH, tức là tâm không niệm, rồi con tu pháp THÂN HÀNH NIỆM có lực, nhờ đó con NHẬP ĐỊNH và thực hiện TAM MINH, con có biết nhiều đời của con chưa? Con có quan sát vũ trụ thấy gì chưa? Con có vào Niết Bàn gặp Phật chưa? Con có một thân biến ra nhiều thân chưa?
Còn tất cả những điều con nói coi chừng con bị tưởng.
Con muốn biết mình có NHẬP ĐỊNH và TAM MINH được chưa? Con phải căn cứ vào giới luật; con có sống đúng giới hạnh độc cư chưa?
Người tu chứng đạo có Định và Tam Minh là phải sống ĐỘC CƯ – ĐỘC BỘ – ĐỘC HÀNH” và thích độc cư - độc bộ - độc hành nên không bao giờ nói chuyện với ai cả.
Khi tâm thích sống độc cư như vậy thì tâm định trên thân. Tâm định trên thân suốt 12 giờ hoặc 7 ngày đêm thì có đủ thời gian thanh tịnh để rèn luyện 7 năng lực giác chi. khi 7 năng lực giác chi xuất hiện đầy đủ thì mới có Tứ Thần Túc, có Tứ Thần Túc mới thực hiện được Tam Minh
Cho nên những điều con trình sự tu tập là bị tưởng định, tưởng Tam Minh, con nên giữ giới luật lại cho kỹ, đừng đi trồng hoa kiển, đừng nói bất cứ một người nào con chứng đạo thì con mới mong tu đúng pháp. Nói chứng đạo mà không có một chứng cứ rõ ràng thì không đủ thuyết phục người khác con ạ! .
Thân thương chào con
(Ngày 14- 3- 2007)
Kính gởi: Ngọc Trung.
1, Muốn điều phục những loại tưởng này thì chỉ có Định Niệm Hơi Thở và phương pháp tác ý. Vậy từ ngay bây giờ con nên tu tập đề mục thứ nhất của thở ra, vô, hơi thở bình thường, nhiếp tâm và an trú cho được từ 10 phút đến 30 phút.
2, Từ lâu từng giết hại và ăn thịt chúng sanh, nhưng muốn chuyển nghiệp ấy thì ngay từ bây giờ con sống đúng năm giới luật đức hạnh của Phật: 1- Đức hiếu sinh; 2- Đức ly tham; 3- Đức thanh tịnh; 4- Đức thành thật; 5- Đức minh mẫn. Khi con sống đúng những đức hạnh này thì nghiệp ác vô lượng kiếp sẽ chuyển sạch khiến cho thân tâm chuyển hết nghiệp ác.
3, Bào thai là một hợp duyên ngũ uẩn đầy đủ, là một con người như bao nhiêu con người khác, có ngũ triền cái đầy đủ, có ngũ căn đầy đủ, chứ không phải là một tế bào như ông Lương Minh Đáng nói.
Bào thai bị nạo bỏ đó là duyên yểu tử của một con người, khi bào thai chết trong hoàn cảnh nào thì từ trường cận tử nghiệp đó sẽ tiếp tục tái sinh làm một bào thai khác và cứ như vậy tiếp tục luân hồi sinh tử mãi mãi.
4, khi gặp các bạn đồng môn nhân điện con cứ tiếp giao bình thường, con không nên đá động đến nhân điện sai đúng là nhân duyên của họ.
Còn họ có hỏi con vấn đề đi tu hiện nay thì con bảo con đi học đạo đức nhân bản - nhân quả.
Đi tu theo Phật, có bạn gái là một nhân quả nghiệp báo cần phải chuyển hóa, nếu không chuyển hóa thì con đường tu chẳng đi đến đâu, chỉ uổng công tu tập .
Nhân điện là một năng lực tưởng nó không làm lợi ích lớn cho nhân loại, nó tạo tác lợi ích nhỏ gây đam mê cho một số trí thức thích làm từ thiện lợi ích cho xã hội, nhưng nhìn lại bản thân của mỗi học viên nhân điện đều tham, sân, si, mạn, nghi còn đủ. Tập luyện nhân điện không làm chủ sự sống chết, không chấm dứt tái sanh luân hồi, chết không biết đi về đâu? Sống không thông suốt đạo đức nhân bản – nhân quả thường làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
Đối với các bạn nhân điện tuỳ duyên mà con cho học đọc sách của Thầy, còn không đủ duyên thì thôi.
Khi biết giới luật là thiện pháp chuyển hóa tất cả quả khổ đau, vì thế, giới là mạng sống thanh tịnh của chúng ta, cho nên chúng ta thà chết chứ không phạm giới.
Ăn ngày một bữa đó là quyền sống với đức tri túc thiểu dục của chúng ta, không ai có quyền bắt buộc chúng ta sống phạm giới này được và chúng ta cũng không nên vì một lý do nào mà phạm giới này. Vượt qua mọi chướng ngại để sống vì giới luật là người biết chuyển đổi nhân quả, làm thay đổi sự sống trên hành tinh này, nếu con người giới luật chưa nghiêm túc thì hành tinh này là địa ngục.
Người sống giới luật là gương hạnh sáng đạo đức cho mọi người soi, đầu tiên tuy họ có buồn khổ, nhưng sau đó họ được nhiếp phục trong giới luật và trở thành những người có đạo đức. Còn ngược lại họ lôi cuốn chúng ta vào ác pháp phạm giới và chúng ta cùng họ sống trong địa ngục.
Con không vượt ra những tình thương một hướng của họ thì ngàn đời con sẽ chôn vùi trong nấm mộ thương đau của ái kiết sử.
Hiện giờ con đến lớp học để học giới luật đức hạnh, khi trở về thất con nên tập tỉnh thức từng hơi thở, từng bước đi, khi ngồi, khi đi khi đứng, khi nằm, mỗi mỗi hành động đều phải có giờ giấc nhất định tu tập tỉnh thức để áp dụng đức hạnh đã học trong lớp vào sự sống hằng ngày để thành những thói quen đạo đức tốt đẹp.
Con luôn luôn phải áp dụng đức hạnh hiếu sinh vào đời sống của con để xả tâm rốt ráo. Chưa đến giờ ngủ mà bị hôm trầm thùy miên nên đi kinh hành tới lui, không được ngũ trước giờ tu. Nhớ luôn luôn áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống: khi ăn; khi uống, khi lao tác, khi ngồi một mình.
Về pháp danh Thầy cho con một cái tên để tu tập cho tốt hơn. Đó là THÍCH CHÁNH KIẾN. Có Chánh kiến liền có sự giải thoát an vui, có tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ.
Thăm và chúc con thành công trong việc tu hành
Thầy của con
(Ngày 18 - 2 – 2007)
Kính gởi: Nguyên Trí
Thầy ở đâu thì tâm đều được an ổn, cảm ơn con đã hỏi thăm Thầy
Khi xuống tóc rồi phải hiền lành như Phật, nói phải cẩn thận không nên nói ra thiếu suy tư, thiếu suy tư là thiếu lòng yêu thương mình, thương người. Chưa xuống tóc thì ít tội hơn còn xuống tóc rồi là tịnh nhân, thì phải sống như thế nào để ít tội lỗi con ạ!
Những điều trong bức thư trước con hỏi không có quan trọng, con cứ giữ như vậy mà tu tập bình thường.
Khi không được Thầy trả lời là con đã hiểu con tu tập không sai cứ tu tập như vậy, vả lại con đang theo học lớp đạo đức hiếu sinh, để thông suốt giới luật. Giữ gìn đúng hạnh người tu thì sau này mới có dịp Thầy về truyền giới cho các con, còn không học giới luật đức hạnh thì làm sao thọ giới được? Thọ giới không khó, nhưng sống đúng giới đừng vi phạm giới luật là một điều khó, khó vô cùng con ạ! Vì thế, ngay từ lúc này con hãy tập sống đúng giới luật đừng vi phạm. Sau khi thọ giới con sẽ không vi phạm và không vi phạm thì không tội lỗi.
Đề mục của hơi thở mà con thở chậm 13 hơi một phút là hơi thở dài, đề mục hai cũng là đề mục hơi thở ra vô dài.
Đối với con thì đề mục một và hai chỉ có một hơi thở dài mà thôi, chứ không có hơi thở bình thường và ngắn.
Vậy con nên dùng hơi thở dài tu tập dù con tu đề mục bốn hay năm, sáu, bảy, tám, chín, mười vv.. thì cứ giữ hơi thở dài đó mà tu, đừng nên tu hơi thở khác, chỉ khi nào bị rối loạn hơi thở thì con đừng tu tập hơi thở nữa.
Con có thông suốt định vô lậu chưa? Tri kiến của con còn rất hạn hẹp, tri kiến hạn hẹp không hiểu lấy gì mà xả tâm; đức hạnh không có, lấy gì mà giải thoát.
Nếu từ lâu các con đã ở trong thất giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì các con đã tu chứng đạo từ lâu rồi, có đâu đến giờ này vẫn còn phạm giới, sức tĩnh giác chánh niệm từ lâu tu tập đến giờ này mà kết quả chưa đạt được tiêu chuẩn nhiếp tâm. Vì thế, hôn trầm thùy miên không nhiếp phục được. Hôn trầm thuỳ miên không nhiếp phục được thì mong gì có Chánh niệm xả tâm
Con có đọc “Chú bé người Ấn độ ngồi thiền 6 tháng không ăn uống chưa? Con muốn tu như chú bé đó phải không? Đến giờ này các con còn mê muội không thấy đâu là con đường Phật giáo và đâu là con đường của ngoại đạo.
Thời gian ngắn nhất 7 tháng để tu chứng đạo, mà con thấy có người nào giữ gìn giới độc cư được không? Có người nào tu chứng Tam Minh chưa? .
Giới luật đức hạnh chưa nghiêm chỉnh mà muốn làm chủ sanh tử luân hồi chấm dứt tái sanh thì điều đó là ở trong giấc mộng con ạ?
Bây giờ nhập thất tu tập để làm chủ sanh tử luân hồi, chứ trước kia con vào tu viện không nhập thất tu hành sao? Còn bây giờ mới vào nhập thất tu thật ư? Chắc lúc nào vào tu viện các con cũng nỗ lực tu hành để mong cầu sự giải thoát. Phải không các con?
Con hãy hỏi cô Nguyên Hạnh nếu cô tu có định thì cô phải có trí tuệ (định sinh tuệ), có trí tuệ thì đạo đức nhân quả cô phải thông suốt.
Nếu thông suốt đạo đức nhân quả, sao cô còn trở về gia đình làm gì, cô không li gia cắt ái để ra khỏi cuộc đời không bị buộc trói như xích sắt, còn hỏi về giới luật thì cô có thông suốt chưa? Như vậy cô chưa có trí tuệ giới luật nhân quả. Chỉ ở trong trạng thái tỉnh thức an trú, nếu cô không học giới luật đức hạnh thì cô tu tập một thời gian nữa sẽ rơi vào 16 loại tưởng ngũ ấm ma. Căn cứ vào giới luật thì biết người tu đúng tu sai, khi cô vừa ra thất để về quê là đã nói chuyện, đó là cô bị pháp tưởng, người tu hành có giới luật nghiêm chỉnh, sống im lặng như Thánh, không hề nói cho ai biết về sự tu hành của mình, dù họ có Tam Minh cũng không nói
Con đã xuống tóc mà không học giới luật đức hạnh thì chừng thọ giới con có xứng đáng thọ giới không ? Không học giới làm sao thọ giới được. Phải không con?
Một người tu sĩ thà chết chứ không phạm giới. Nếu muốn không phạm giới mà không học giới thì con biết gì về giới mà không vi phạm?
Vậy con nói giới thứ hai cho Thầy nghe về đức ly tham. Vậy giới ly tham của người tu sĩ là ly cái gì ?
Cạo tóc mà không học giới luật cho tinh nghiêm về đức hạnh thì xuất gia có lợi ích gì cho bản thân con, cho Phật giáo?
Hiện giờ vào thất tu tập thiền định cho mau để đối trị bệnh, để kịp làm chủ sự sống chết, điều này có chắc không?
Tu sĩ ở đây có ai chứng thiền định chưa? Hay đã chứng thiền tưởng.
Con có nghe Phật dạy: “GIỚI SINH ĐỊNH”, chứ bao giờ dạy: “ĐỊNH SINH GIỚI”.
Còn giới luật chưa nghiêm túc con nói ra tâm còn phân biệt so đo hơn thiệt. Thân con bệnh là do nhân quả không lành của con từ kiếp trước, bây giờ học nhân quả lành để chuyển nghiệp nhân quả ác cho thân con mạnh khỏe, con lại không học, lại xin vào thất tu tập để chuyển nhân quả bệnh tật, thân con sắp chết đến nơi rồi. Nhưng thiền định có chuyển được nhân quả không? Hay là chỉ đẩy lui trong cấp thời, để nhờ giới mà chuyển.
Vì thấy các con tu sai, dạy có sáu giới luật mà người nào cũng vi phạm. Cho nên đến giờ này chưa có ai chứng Tam Minh. Vậy mà các con còn muốn vào thất tu nữa sao?
Thầy đã biết căn cơ con người đời bây giờ, vật chất quá nhiều, lôi cuốn tâm dục rất mạnh nên tự giữ giới luật rất khó Vì thế Thầy mới soạn giáo án dạy các con đức hạnh. Nếu các con tu thiền định đã chứng thì Thầy soạn giáo án giới luật đức hạnh làm gì cho cực khổ?
Hơn 25 năm dạy người mong có người chứng quả A La Hán, để có đầy đủ Tam Minh nhưng đến giờ này chưa có ai cả? Giới luật đã vi phạm, dạy gì, nói gì các con cũng không nghe.
Trăm người về đây dạy ăn, ngũ, độc cư, nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng, nhưng có ai làm được chưa? Chỉ có sáu giới như vậy mà người nào cũng phạm, nhất là giới độc cư. Con có thấy cô KT ..., cô H… cô Th..., cô L Ch..., thầy TM…, TS..., TNg... TTh..., TT... đều rơi vào tưởng định.
Tu thấy tâm mình an là cho mình nhập định sao ?
Muốn nhập định thì tâm phải giới luật nghiêm túc. Giới luật chưa nghiêm mà nhập định thì đó là tu tập tỉnh thức mà thôi .
Thầy cho con nhập thất 3 tháng cố gắng tu tập, nếu làm chủ được bệnh thì cũng tốt, nếu không làm chủ thì chừng đó váo lớp I học lại giới luật cũng không muộn đâu.
Ngày mùng 4 Tết khai mở lớp học, những người không xin vào thất tu thì cố gắng học đạo đức và sống để tâm được thanh thản, an lạc và hạnh phúc, nhất là sống biết thương người không làm khổ ai cả.
Riêng con được nghỉ học vào thất tu THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI có điều kiện gì tu tập sai thì hỏi Thầy sửa lại. Sau ba tháng tu tập không kết quả sẽ ra thất đi học lại giới luật đức hạnh.
Nếu muốn tu tập TỨ NIỆM XỨ thì cảm giác toàn thân phải để tâm tự nhiên cảm nhận, chứ không được lút lắt thân, không được tập trung tâm ức chế. Tu tập Tứ Niệm Xứ là cảm nhận toàn thân một cách tự nhiên. Chỉ khi nào tâm thanh tịnh bằng giới luật thì mới có sự cảm nhận tự nhiên, ngoài giới luật ra mà tu tập Tứ Niệm Xứ đều bị ức chế tâm, khi ức chế tâm thì rơi vào tưởng định.
Đi Thân Hành Niệm là đi theo lệnh truyền, chứ không phải cảm giác toàn thân. Cảm giác toàn thân là tu sai.
Tu Định Niệm Hơi Thở thì phải biết hơi thở mình thở dài ngắn rõ ràng. Khi tập hơi thở phải vận dụng, nếu hơi thở dài thì phải thở đều đều chậm dài, không được thở lúc dài lúc ngắn.
Bức thư thưa hỏi trước của con trình bày sự tu tập không có gì quan trọng nên Thầy không trả lời, Bức thư này vì con xuất gia mà không học giới thì sau này không được truyền giới nên nó quan trọng Thầy mới trả lời.
Cuối thư Thầy có lời thăm và chúc con mạnh tu tập xả tâm cho thật tốt.
Thầy của con
(Ngoc Tuyen Son 11 – 10 – 2006)
Kính gửi: Thiện Thảo
Con nhiếp tâm và an trú tâm trên Tứ Niệm Xứ tốt, nhưng coi chừng sai, vì giới luật con chưa nghiêm chỉnh, con còn đi trồng trọt cây kiểng, không vô sự hoàn toàn.
Tu hành phải lấy giới luật làm đầu, thiếu giới luật mà tu tập là trăm ngàn người đều lọt vào trạng thái tưởng và có thể bị rối loạn thần kinh điên khùng, tình trạng con là bị rối loạn chức năng thần kinh có thể phải dừng ngay lại.
Lo giữ gìn giới luật và dùng pháp như lý tác ý để xả tâm cho tâm được ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Chờ Thầy trở về hướng dẫn tu tập Tứ Niệm Xứ chứ bây giờ khoan tu tập Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là pháp tu chứng đạt quả A La Hán, không được tu tập khi không có Thầy. Nếu không nghe lời Thầy tu sai một li sẽ đi sai một ngàn dặm, con nên lưu ý điều này, đừng quá vội vàng mà uổng phí một đời người
Thăm và chúc con tu tập giữ giới cho nghiêm chỉnh và xả tâm cho thật tốt để tâm bất động mà thôi.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn ngày 2 - 10 – 2006)
Kính gửi: Thanh Dung
Thầy đã nhận được thư con, lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 2006, do một Thầy ở chùa Ngọc Tuyền mang đến chỗ Thầy ở.
Từ khi rời xa tu viện ở nơi thâm sơn cùng cốc Thầy cảm thấy tự do hơn không còn ai quấy rầy, làm động. Thầy mong rằng sau khóa tu học này, tuy không có Thầy nhưng mọi người sẽ trưởng thành hơn, tự quý thầy, quý cô sẽ đi trên đôi chân của quý thầy, quý cô vững vàng hơn.
Thầy sẽ không bao giờ trở về tu viện nữa, nơi đó bất an lắm, còn duyên thì ở lại hết duyên thì vào Niết Bàn.
Còn ít hôm nữa Thầy được 79 tuổi rồi, tính theo Dương lịch, còn tính theo Âm lịch thì 80, đến tuổi này ra đi cũng vừa, còn tiếc gì mà ở lại. Tu sinh có ai nghe Thầy dạy đâu, Thầy ở lại để làm gì. Phải không con?
Cuộc đời đầy cay đắng và gian khổ chỉ vì danh và lợi. Thầy tin nơi con là người nhớ lâu, chắc con đã hiểu Phật pháp đã biết cách tu tập thì dù ở đâu con cũng không tu sai đường lạc lối, chỉ vì con chưa muốn tu mà thôi.
Đời người là pháp vô thường, là khổ đau cuộc sống toàn là nước mắt. Trẻ đó rồi già đó như bóng câu cửa sổ. Có phải không con?
Phải sáng suốt biết lo tu tập để cứu mình ra khỏi sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, còn không biết thì trôi lăn trong lục đạo khổ đau vô cùng vô tận. Sự đau khổ này chỉ có tự mình cứu mình không ai giúp mình được. Nếu không biết tự cứu mình, cứ để nhân quả chi phối theo ác nghiệp thì khổ đau lại chồng thêm khổ đau. Cuộc đời khổ lắm con ạ! Thầy đến lúc ra đi vào nơi vĩnh hằng mà còn không có một một nơi ở cho yên thân thì biết đời là khổ. Có đúng như vậy phải không con?
Thầy thương các con, mong sao các con hãy tự giác ngộ ráng tu tập để những ngày còn sống trên thế gian này là những ngày thanh thản, an lạc và vô sự.
Cuộc đời này còn có gì hạnh phúc đâu, sống thì khổ đau, chết thì chỉ còn lại nắm xương tàn vùi sâu trong lòng đất lạnh.
Những ngày còn lại trên đời này, con hãy ráng tu tập để giữ gìn tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì đó là hạnh phúc lắm rồi.
Sống một mình không ai làm động, sống nhiều người làm sao tránh khỏi động mà có động là có khổ đau, cho nên Thầy ước mong con hãy sống một mình ở nơi đâu không ai quấy rầy là hạnh phúc lắm con ạ!, Không ai cứu mình bằng chính mình. Phật đã để lại cho chúng ta rất đầy đủ các pháp để làm chủ sự sống chết vậy con hãy tu tập để cứu mình.
Hiện giờ Thầy không muốn gặp ai, vì gặp người này thì người khác sẽ so bì và rất xấu hổ với mọi người vì học trò mình không giữ gìn giới luật, tu hành tuy có kết quả nhưng chưa hoàn chỉnh, chỉ tu danh, tu lợi thật là đau buồn.
Một cuộc đời tu hành của Thầy chỉ mong tìm một người đệ tử biết giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nhưng chẳng có ai, thôi thì nhập diệt cho rồi ở lại đây làm gì nữa. Phải không con?
Nếu tu viện yên ổn được thì các con nên ở đó, sống độc cư tu tập xả tâm, đừng chơi với ai, vì chơi với ai cũng làm một chướng duyên cho mình không điều này, thì điều khác, còn nếu Tu Viện không yên thì các con là những người có trí sáng suốt sẽ vượt lên để tâm yên tỉnh tu hành.
Thầy cầu mong cho các con được bình an là Thầy mừng. Nhất là con là người thông minh có tài, có trí Thầy tin con sẽ làm sáng tỏ một góc trời không thua gì thầy Chân Quang.
Thầy đã già rồi chỉ còn vào Niết Bàn mà thôi, còn làm được những gì. Tu Viện Chơn Như Thầy đã bỏ đi rồi mong rằng nơi đây sau này cũng chỉ là một di tích lịch sử của một đời người hết sức ra công dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo mang đến cho loài người một sự sống bình an.
Thầy không về ở nơi đó nữa đâu con ạ! Vì thương các con mà Thầy mở lớp dạy bảy tháng tu tập chứng đạt chân lí, nhưng các con không nghe lời Thầy ai cũng phá giới, nên Thầy đành phải rời khỏi Tu Viện trước ngày mãn khoá, vì ở lại quá xấu hổ với công lao của đàn na thí chủ. Mỗi giọt mồ hôi nước mắt của phật tử đã cúng dường để các con rảnh rang tu hành, thế mà các con tu hành không trọn vẹn thì Thầy biết nói làm sao với Phật tử đây!
Bây giờ ở một nơi khi đói không cơm thì dùng lá cây rừng, còn có cơm người cúng dường thì ăn, còn không cơm, không lá cây rừng thì ngồi thiền mà chơi hay nhập Niết Bàn khỏe hơn.
Nếu còn duyên chú Chơn Tâm xin phép được ở Phước Hải và Cô Liên Châu xin phép được ở Long Thành thì Thầy sẽ về nơi đó xây dựng Ni Bộ và lập Tăng Đoàn, chừng đó Thầy sẽ gọi các con về tu tập, nhưng các con phải hứa giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, còn không giữ gìn giới luật thì xây dựng để làm gì.
Thăm và chúc con vui mạnh, nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thầy của con
(Ngọc Tuyền Sơn ngày 26- 10- 06)
Kính gởi: Cô Liên Châu và Tuệ Hạnh.
Khi Thầy rời khỏi tu viện là để thành lập các Ban, do các Ban điều hành tu viện, nhờ đó Thầy được rảnh rang biên soạn những bộ sách Đạo Đức Làm Người và bộ sách Giới Luật Đức Hạnh của Phật.
Khi rời Thầy rời hỏi tu viện thì chỉ còn hai tháng nữa mới giải hạ, thế mà quý sư thầy lại bỏ thất đi chơi. Thì làm sao Thầy không khuyên họ sống đúng giới luật, đừng làm như vậy Phật tử cười chê.
Các con yên tâm, đó là những việc dạy bảo của Thầy, không có việc gì quý Thầy làm qua mắt Thầy được, nhưng khi Thầy còn ở trong tu viện khuyên bảo dạy dỗ các sư, thầy có nghe cũng tốt, không nghe thì thôi, chứ Thầy biết làm sao hơn. Nhưng các con là cư sĩ phật tử gánh vác những cơm ăn áo mặc đời sống của họ, thế mà để họ đã sống không đúng giới luật thì Thầy phải có trách nhiệm nhắc nhở.
Thầy xin lỗi các con. “GIÁO BÂT NGHIÊM SƯ CHI ĐỌA”. Người Thầy dạy dỗ học trò mà không nghiêm túc giới luật thì phải chịu lỗi.
Vậy các con thương Thầy mà bỏ qua. Tuy rằng Thầy ở xa nhưng lúc nào Thầy cũng chăm lo sự tu hành của quý thầy, quý sư nên họ làm gì Thầy đều biết, chứ không có ai báo cho Thầy biết đâu, các con ạ!
Thấy sự phá giới của thầy này được, thì sẽ có thầy khác phá giới nên Thầy viết thư khuyên bảo để ngăn ngừa các Thầy khác sẽ không theo vết xe cũ.
Thầy mong sao quý sư thầy trở thành những người giới luật nghiêm túc để Phật giáo được trường tồn mãi mãi. Đó là điều ước mong nhất của người Thầy.
Thầy rất biết ơn các con phật tử Thành Phố Hồ Chí Minh đã lo cho đời sống 20 tăng ni sinh học khoá đào tạo bảy tháng lớp tu chứng đạt chân lí tâm bất động, tưởng đâu tăng ni sinh đã rớt hết nhưng không ngờ cũng còn được 2 người tuy chưa hoàn toàn nhưng kết quả tu hành rất cụ thể
Cuối thư Thầy thăm và chúc các con vui mạnh gặp nhiều mai mắn để tiến về đường tu giải thoát.
Thân thương chào các con
(Ngọc Tuyền Sơn 24 - 10 – 2006)
Kính gửi: Quý Phật tử Hà Nội, quý Phật tử trong nước và ở nước ngoài.
Kính thưa quý vị! Như quý vị đã biết sóng gió Chơn Như chỉ là những bài thi trắc nghiệm cho những tu sĩ của tu viện, để biết những tu sĩ nào tu đúng, tu sĩ nào tu sai, tu sĩ nào xả tâm, tu sĩ nào không xả tâm; tu sĩ nào tâm bất động, tu sĩ nào tâm động; tu sĩ nào tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tu sĩ nào tâm không thanh thản, an lạc và vô sự đều biết rõ.
Có những tu sĩ động tâm, tu hành không đúng pháp, không chịu xả tâm, thường phạm giới, phá giớinên không rõ chuyện sóng gió Chơn Như là những bài thi trắc nghiệm trong khoá tu học. Vì thế mới có những lời ra, tiếng vào, nói xấu người này, nói xấu người kia. Những tu sinh nói xấu người này, nói xấu người kia là những tu sinh đã thi rớt. Họ chỉ phí công tu hành vô ích, họ chẳng khác nào như người thế tục chưa tu. Vậy quý Phật tử đừng nghe theo họ mà làm thêm động tâm mình.
Tu Viện Chơn Như là nơi đào tạo những bậc chứng quả BẤT ĐỘNG TÂM, nhờ có sóng gió Chơn Như mà quý vị biết được tu sinh nào chứng quả và tu sinh nào không chứng quả.
Chuyện sóng gió Chơn Như là chuyện nhân quả bình thường như mọi chuyện nhân quả ngoài thế gian, nó đâu có gì quan trọng; nó đâu có gì làm cho những Phật tử phải quan tâm, nó chẳng qua là những đối tượng để xả tâm cho những người mới tu mà thôi.
Còn chuyện Thầy rời khỏi tu viện Chơn Như là muốn cho những đệ tử của mình phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh hơn, phải tự tin nơi mình hiểu rõ đường tu hành qua lời giảng dạy của Thầy, đừng tin những tà kiến, kiến giải theo kinh sách phát triển và kiến giải của những người khác. Thầy chỉ mong mỗi tu sinh phải đi bằng đôi chân của mình, chẳng nương tựa vào ai cả mà hãy nương tựa vào chính mình. Sự ra đi của Thầy không có nghĩa là Thầy lìa bỏ tu viện mà làm cho tu viện lớn mạnh hơn, tổ chức có trường lớp hẳn hoi để tất cả quý Phật tử về tu học dễ dàng.
Thầy dự định sẽ ra khỏi tu viện sau khoá tu tập bảy tháng chứng chân lí của quý thầy, quý cô, để quý thầy, quý cô thay Thầy đứng lớp dạy quý phật tử Thọ Bát Quan Trai. Nhưng thời gian đến quá sớm, chỉ còn hai tháng nữa mới mãn khoá thì sóng gió nổi lên Thầy thấy dịp này cũng là đến lúc phải ra đi. Ra đi là tìm nơi ẩn bóng để soạn viết bộ sách đạo đức làm người và bộ giới luật cho xong.
Sau khi các lớp học Thọ Tam Quy, Thọ Ngũ Giới, Thọ Bát Quan Trai sinh hoạt đều đều. Còn tu sinh giữ gìn giới luật nghiêm túc thì Thầy sẽ mở các lớp tu học Bát Chánh Đạo bảy năm để đào tạo những người tu chứng quả A La Hán.
Thầy không ở trong một tu viện nào cả. Thầy chỉ đến dạy rồi đi, chỉ ở một nơi nào yên tỉnh để soạn và viết những bộ sách đạo đức cho xong. Còn các con người nào giữ gìn giới luật nghiêm túc, có chút thiền định, làm chủ bệnh tật, đứng ra phụ Thầy, dạy các lớp Thọ Tam Quy, Thọ Ngũ Giới và Thọ Bát Quan Trai.
Đứng ra giảng dạy, nhưng vẫn tiếp tục xả tâm và an trú tâm trên Tứ Niệm Xứ để chứng tâm VÔ LẬU hoàn toàn.
Hôm nay Thầy viết bức thư này gửi đến quý Phật tử là để xác định những lời nói xấu người này, nói xấu người kia, làm dao động tâm quý Phật tử, gây chia rẻ nội bộ tu viện. Đó là những tu sinh đã thi rớt.
Còn tổ chức các Ban trong tu viện là do Thầy chỉ đạo, phân công vừa với khả năng trình độ chứng đạt giới luật, thiền định của những người đứng lớp, để giúp quý Phật tử có người hướng dẫn tu học từ thấp đến cao. Và nhất là để ổn định tu viện tránh những cơn sóng gió bừa bãi, tạo thế yên ổn cho những người mới tu.
Quý phật tử hãy bình tâm đừng nghe những lời xuyên tạc, Vì tu viện đang dựng lại Chánh pháp của Phật giáo nguyên thủy, nên gặp biết bao nhiêu khó khăn từ muôn phía đánh vào, nếu quý phật tử không sáng suốt thì sẽ rơi vào cạm bẫy của tà giáo ngoại đạo mà từ lâu chúng đã dìm Phật giáo. Hôm nay được một chút ánh sáng Phật giáo bừng lên, nếu không khéo ánh sáng sẽ tắt đi thì không còn dịp nào sống lại được và con người trên hành tinh này thật là bạc phước. Tất cả mọi sự khổ đau đều đổ vào đầu của nhân loại.
Thân thương chào các con
(Ngọc Tuyền Sơn 24 - 11 – 2006)
Kính gửi: Các con thân mến.
Chính lúc này là lúc các con cần phải triển khai tri kiến giải thoát hơn bao giờ hết, vì các con có hai nhiệm vụ:
1- Triển khai tri kiến để tự rèn luyện nhân cách đạo đức – nhân bản cho mình; để giữ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, để làm gương hạnh cho những người khác soi.
2- Nhất là lúc này các con cần phải thông suốt những gì cần thông suốt thì mới đủ khả năng đứng lớp thay Thầy dạy những người khác rèn luyện nhân cách.
Cho nên, sự biên soạn giáo trình và giáo án là điều quan trọng nhất. Có biên soạn giáo trình và giáo án thì những gì cần thông suốt các con mới thông suốt. Có thông suốt mới làm chủ tâm mình; mới lìa tâm tham, sân, si ,mạn, nghi; mới tâm giữ gìn bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; mới làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Càng biên soạn giáo trình giáo án thì các con càng thông suốt; càng thông suốt thì mới đứng lớp dạy người rèn luyện nhân cách đạo đức mới dễ dàng. Nhờ đó mới dựng lại chánh pháp của đức Phật, nền đạo đức nhân bản mới được phổ cập đến với mọi người
Các con đừng nghĩ rằng đứng lớp dạy người tu hành là các con không tu tập được. Càng đứng lớp dạy người tu hành lại càng triển khai tri kiến thông suốt chánh pháp của Phật, nhờ đó các con xả tâm rất tốt, nhất là ly dục ly ác pháp.
Lẽ ra, các con phải tu tập xong mới đứng lớp dạy, nhưng vì sống độc cư đúng giới luật thì quá khó, cho nên các con thường sống phạm giới luật này, mà sống phạm giới luật này thì tu tập bị ức chế tâm. Bị ức chế tâm thường lọt vào tưởng pháp. Còn bây giờ các con ra đứng lớp dạy lại có Thầy hướng dẫn các con vừa đứng lớp dạy người tu, vừa triển khai tri kiến để ngăn ác diệt ác pháp làm chủ thân tâm một cách cụ thể dễ dàng mà không bị ức chế.
Các con có nghe Phật dạy tu tập thiền định không? Tu tập thiền định của Phật giáo là NGĂN ÁC DIỆT ÁC PHÁP, SINH THIỆN TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP, có nghĩa là các con sống trong các pháp dù thiện hay ác mà không bị pháp nào làm tâm các con dao động được, đó là các con đang tu tập thiền định, chứ không phải ngồi trong thất ức chế tâm cho hết vọng tưởng là tu tập thiền định, tu tập như vậy là tu tập tà thiền, tà định.
Các con đã từng tu tập những pháp đẩy lui các chướng ngại pháp. Và, hôm nay lại triển khai tri kiến thông suốt CÁC PHÁP VÔ THƯỜNG VÔ NGÃ, KHÔNG PHẢI LÀ TA, KHÔNG PHẢi CỦA TA, KHÔNG PHẢI BẢN NGÃ CỦA TA. Như vậy, còn pháp nào làm dao động tâm các con được. Phải không các con? Rồi đây những bước chân của các con sẽ đi khắp nơi trên hành tinh này, đem Chánh pháp của Phật và đạo đức nhân bản – nhân quả đến với mọi người.
Chính ngay giờ này các con sẽ được tập huấn tu học triển khai tri kiến giải thoát để trở thành những giảng sư thân giáo, thuyết giáo đạo đức nhân bản cho mọi người. Tuy Thầy ở xa nhưng lúc nào cũng ở bên các con để hướng dẫn và giúp đỡ các con để hoàn thành xứ mạng trọng đại mang nền đạo đức nhân bản của Phật giáo đến với mọi người trong thế kỷ XXI này.
Trong lúc này các con phải biết thương yêu nhau, phải biết xả bỏ những lỗi lầm của nhau, đừng có những ý kiến bất đồng, nghi ngờ nhau điều này thế kia thì việc lớn khó thành. Trong Ban nào thì làm việc theo các Ban điều gì không thông suốt thì hỏi Thầy, Thầy sẽ góp ý giúp các con hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ngòi bút của các con sẽ được hướng dẫn trở thành những ngòi bút đạo đức. Ngòi bút đạo đức, thì con người phải có đạo đức. Bởi những đề tài Thầy cho các con biên soạn giáo trình và giáo án dạy người tu tập là vừa rèn luyện đạo đức cho các con mà cũng là vừa rèn luyện ngồi bút đạo đức của các con để dạy người.
Tuy ở không gần không xa nhưng Thầy hướng dẫn các con biên soạn theo những đề tài sau đây:
1- Chơn Thành với đề tài THỌ BÁT QUAN TRAI.
2- Phước Tồn với đề tài THỌ BÁT QUAN TRAI.
3- Minh Nhân với đề tài THỌ BÁT QUAN TRAI.
4- Thanh Quang với đề tài THẬP THIỆN
5- Thanh Trí với đề tài TAM QUY.
6- Từ Quang với đề tài NGŨ GIỚI.
7- Diệu Quang với đề tài THỌ BÁT QUAN TRAI.
8- Liễu Thiện với đề tài THỌ BÁT QUAN TRAI.
9- Mỹ Thiện với đề tài THỌ BÁT QUAN TRAI.
10- Hải Tâm với đề tài THỌ BÁT QUAN TRAI.
11- Mỹ Linh với đề tài NGŨ GIỚI.
Liễu Huệ với đề tài NGŨ GIỚI.
12- Hạnh Từ với đề tài NGŨ GIỚI.
13- Ngọc Bình với đề tài NGŨ GIỚI
Lần lượt các đề tài này các con phải biên soạn hết theo sự hướng dẫn của Thầy. Khi biên soạn xong là các con đứng lớp dạy dễ dàng không còn khó khăn. Nhất là khi biện soạn những giáo trình và giáo án này sẽ giúp các con thấm nhuần những đạo đức nhân bản. Nhờ thấm nhuần những đạo đức mà các con buông xả các ác pháp lại dễ dàng hơn.
Tu trong cảnh động không bị ức chế tâm mà còn có lợi ích cho mình, cho người. Còn tu trong cảnh tịnh, chỉ có lợi ích cho mình nhưng phải sống độc cư trọn vẹn, nếu không sống độc cư trọn vẹn thì bị ức chế tâm lọt vào các pháp tưởng dễ rối loạn thần kinh, rất nguy hiểm.
Tu trong cảnh động sống như một người bình thường, nhưng lại phi thường, vì lìa tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Cho nên có một người hỏi Phật:
Ông là ai? Có phải Thiên Thần không? Có phải Phạm Thiên không? Có phải Phật không? Có phải Càn Thác Bà không?
Đức Phật đáp:
- Ta không phải Thiên Thần, không phải Phạm Thiên, không phải Phật, không phải Càn Thác Bà… Ta chỉ là một con người mà không phải là con người, vì Ta không còn tham, sân, si, mạn, nghi.
Chương trình dạy người tu sau này là chương trình đào tạo đạo đức nhân bản để mọi người sống không làm khổ mình, khổ người, đó là dạy họ rèn nhân cách ly tham, sân, si, mạn, nghi. Con người mà ly tham, sân, si, mạn, nghi là người chứng đạo.
Chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Người nào sống được như vậy là chứng đạo. Còn bây giờ nói chuyện Tam Minh Lục Thông sẽ có một số người hiểu lầm sinh tâm tham đắm mê thần thông, do đắm mê thần thông nên cố gắng ức chế thân tâm làm rối loạn thần kinh rất nguy hiểm.
Người nào sống không làm khổ mình khổ người chừng đó sẽ hỏi Thầy Tứ Thiền, Tam Minh và Lục Thông thì Thấy sẽ dạy cho. Còn bây giờ chưa sống được thì không nên hỏi.
Thăm và chúc các con mạnh khỏe, tu tập xả tâm tốt.
Thân thương chào các con
(Ngọc Tuyền Sơn 4 - 11- 2006)
Kính gửi: Diệu Linh
Những việc đã qua là một bài học kinh nghiệm dạy cho các con biết rằng: cuộc đời này đừng vội tin ai cả. Phải không con?
Người ở đời thường dùng danh nghĩa này, danh nghĩa khác làm tiền một cách thiếu đạo đức. Người tu sĩ cũng như người cư sĩ khi tu hành chưa tới nơi, tới chốn thì họ cũng như những người đời thường, họ cũng còn tham, sân, si, mạn, nghi như mọi người. Nhưng họ là những tu sĩ hay cư sĩ nên họ được học đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo, vì thế họ là những người đời thường nhưng họ vẫn hơn người đời thường, vì họ sống có đạo đức. Đạo Phật dạy họ tu học đạo đức để cuộc sống được an vui và hạnh phúc, thế họ không tu học đạo đức thì họ còn tu học pháp môn gì?
Thật là đau buồn, người có duyên gặp được chánh pháp của Phật mà không chịu sống trong thiện pháp lại ôm ác pháp để sống khổ đau. Tội nghiệp thay! Tội nghiệp thay! Họ là những người đáng thương không đáng ghét. Phải không con?
Phật giáo suy đồi là do những tu sĩ phạm giới, phá giới. Cho nên thấy tu sĩ phạm giới là các con nên tránh xa. Tu sĩ phạm giới là những người làm giới luật Phật mất. Giới luật Phật mất là Phật giáo mất, Phật giáo mất thì chỉ còn tà giáo. Tà giáo sẽ đem đến cho loài người nhiều khổ đau vô cùng, vô tận. Cho nên những tu sĩ lợi dụng công sức và tiền bạc của Phật tử là tu sĩ ngoại đạo. Hôm nay nhìn tu sĩ Phật giáo phạm giới phá giới mà đau lòng cho đại gia đình Phật giáo. Phật giáo sẽ đi về đâu? Khi tu sĩ chỉ biết cúng bái tụng niệm như ca hát thì còn gì Phật giáo nữa phải không các con?
Thầy đã gửi những bức tâm thư căn dặn các con, thấy người nào nói xấu người khác, thì người đó là người xấu đừng nghe theo họ. Phật dạy: “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người” Thế có ai nghe lời Phật dạy đâu, nên đau khổ vẫn phải chịu lấy khổ đau. Người nào nói xấu người khác là người không tốt, các con phải tránh xa những hạng người này và phải biết xả tâm.
Nếu các con đã cúng dường cho những tu sĩ như vậy thì đó là các con đã trả nợ nhân quả của tiền kiếp. Đừng nghĩ sai nghĩ quấy về họ mà tạo thêm nhân quả cho các con.
Hiện giờ các con chỉ còn cầu mong các con được đầy đủ sức khỏe để tu tập sống trong chân lí tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi, còn tất cả các ác pháp đều bỏ ngoài tai.
Tất cả các pháp trên đời này đều vô thường, không có pháp nào là con, là của con cả, hãy buông bỏ xuống đi con ạ! Để tâm hồn con được thảnh thơi, an lạc, đó là giải thoát. Thân này còn giữ không được huống là của cải tiền bạc danh vọng giữ làm chi con ạ! Tiền bạc biết rằng làm bằng mồ hôi nước mắt nhưng phải biết sử dụng đúng chỗ đúng lúc thì mới đem lại sự an vui cho mình cho người.
Ráng tu tập xả những ác pháp đó để tâm bất động là hạnh phúc lắm rồi con ạ!
Hãy mở rộng lòng yêu thương những người đang ở trong ác pháp, họ là những người khổ và mãi tạo khổ đau cho chính họ Vậy các con hãy yêu thương, không nên ghét ai cả. Con có nhớ bài kệ “BUÔNG XUỐNG” của Thầy không?
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
Vạn pháp vô thường buông xuống đi!”
Đệ nhất pháp buông xuống của Phật giáo là lòng thương yêu vô bờ bến đối với mọi người, đối với vạn vật. Con có biết không? Đó chính là đạo đức hiếu sinh con ạ! Nó thường mang lại lợi ích rất lớn cho mình, cho người.
Đọc bức thư thứ hai của con, Thầy thấy con tiến bộ trên đường tu tập rất nhiều, biết xả tâm, biết cứu mình ra khỏi nhân quả, biết bảo vệ chân lí để tâm con được an lạc và vô sự. Chính con đã chánh tư duy được những điều này nên tâm con bất động thanh thản, nhẹ nhàng hơn.
Con đường tu theo Phật giáo chỉ dùng sự hiểu biết của con mà hóa giải được tâm đau khổ, nhờ đó tâm được giải thoát. Như vậy tu theo Phật giáo đâu phải khó khăn, chỉ cần biết buông bỏ thì ngay tức khắc là có giải thoát
Bức thư thứ nhất tâm con vì ác pháp mà đau khổ; bức thư thứ hai vì biết xả tâm thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm, “chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách”, đó là con đã thực hiện lòng yêu thương với con và với mọi người. Thật tuyệt vời một tâm hồn cao thượng mà chỉ có Phật giáo mới có đạo đức ấy mà thôi. Phải nỗ lực hơn con ạ để đem lại cho thế gian một mùa Xuân vĩnh cửu.
Xả tâm dễ nhất chỉ có lòng yêu thương, người có lòng yêu thương chân thật đối với mọi người là có tâm hồn thanh thản an lạc và vô sự. Nhờ có lòng yêu thương mà các ác pháp dễ dàng xả bỏ. Có đúng như vậy không con?
Nhờ con biết xả bỏ những lòng buồn phiền đau khổ, nên tâm con được an vui, yên ổn thật sự trong lòng, nếu không biết buông xả thì con khổ vô cùng, từ ngày này sang ngày khác mỗi khi nhớ đến. Phải vậy không con?
Thầy luôn luôn nhắc nhở và dạy bảo các con xả tâm, vì xả tâm là xả ác pháp là có giải thoát ngay liền, nhưng có ai nghe lời Thầy đâu, vì thế cuộc đời của các con còn nhiều khổ đau. Phải chi các con nghe lời Thầy thì đâu còn khổ đau nữa. Phải không con? Thiền định của Phật giáo là xả bỏ, là từ bỏ, là diệt bỏ các ác pháp thì tâm con đang ở cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Đó mới là chánh định của Phật giáo
Nếu các con còn thích ôm giữ các ác pháp, chấp nhận để chịu khổ đau thì lại chịu khổ đau nhiều hơn, vì thế mà buông xả rất khó. Phải không con?
Đọc bức thư thứ hai Thầy rất mừng là thấy con biết buông xả, biết buông xả là giống Thầy con ạ! Tu theo Phật giáo là tu tập như vậy. Tu tập như vậy là tu đúng pháp. “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy” lời dạy này là pháp buông xả đấy con ạ!
Đạo đức nhân bản – nhân quả chỉ có thực hành pháp buông xả như lý tác ý thì mới sống đúng đạo đức này. Khi con chánh tư duy là lúc lòng yêu thương con rộng lớn vô bờ bến, nhờ thế con biết tha thứ những lỗi lầm và thương yêu những người khác một cách chân thật.
Đạo Phật rất tuyệt vời, nếu mọi người ai cũng biết sống đúng như lời đức Phật đã dạy thì thế gian này là hạnh phúc biết bao! Phải không con?
Thăm và chúc con vui mạnh, nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 5 - 11 – 2006)
Kính gửi: Chơn Thành, Chơn Tịnh, Giác Thường, Minh Nhân, Kim Quang, Từ Quang, Phước Tồn, Chí Thiện, Diệu Quang, Liễu Huệ, Mỹ Thiện, Mỹ Linh, Hạnh Từ, Liễu Ngọc, Liễu Thiện, Ngọc Bình.
Sau bao năm tháng tu học với Thầy, các con cứ cảm thấy mình còn là một người học trò nhỏ. Ngay bây giờ các con hãy chuẩn bị cho mình là một người lớn, một người đứng lớp dạy người khác tu tập.
Trải qua năm tháng trong kinh nghiệm tu hành của các con đã thừa sức đứng lớp dạy đạo đức; thừa sức biên soạn giáo án đạo đức. Nếu có gì chưa hiểu thì có Thầy sẽ giúp cho. Cứ bắt tay vào việc biên soạn đừng sợ làm sai. Sai thì sửa lại chứ không sao hết.
Khi đứng lớp dạy đạo đức phải ăn mặc tề chỉnh, khi thuyết giảng không được đưa tay lên xuống theo điệu bộ; phải giữ gìn oai nghi tế hạnh của một người đứng lớp, tâm phải bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; phải biết nhẫn nhục giữ tâm im lặng như Thánh khi gặp chuyện bất bình; phải biết lúc cần nói thì nói, lúc không cần nói thì sống độc cư một mình, chứ không phải lúc nào cũng tập họp nói chuyện. Nói chuyện không bao giờ hết chuyện, chỉ biết im lặng không nói thì mới sống độc cư, có sống độc cư thì mới phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Đó là những điều quan trọng mà người đứng lớp phải thấy trách nhiệm bổn phận của mình, người đứng lớp là người làm gương sáng cho những tu sinh soi.
Thân giáo là như vậy, nếu các con làm sai thì gương sáng của các con không còn là gương sáng nữa, và như vậy thì các con không thể nào đứng lớp dạy người tu được.
Điều cần thiết là phải biết soạn thảo tám giới đức của BÁT QUAN TRAI. Giới thứ nhất là đức hạnh gì? Nghĩa lý như thế nào? Cách thức tu tập rèn luyện giới đức đó ra sao trong TỨ VÔ LƯỢNG TÂM? Giới thứ hai, thứ ba, thứ tư ….cũng vậy. Giới đức đó đem áp dụng vào ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ như thế nào? Đem áp dụng vào ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như thế nào? Đem áp dụng vào ĐỊNH SÁNG SUỐT như thế nào? Đem áp dụng vào ĐỊNH VÔ LẬU như thế nào? Phải soạn thảo rõ ràng có mạch lạc, từ thấp đến cao, từ gần đến xa, từ lý thuyết đến thực hành phải cụ thể, thiết thực, không được lý thuyết nói suông, nói chung chung trong hình thức mà phải nói chỉ rõ ra từng mỗi hành động thân, khẩu, ý.
Vì lợi ích của con người; vì sự sống an ổn yên vui của vạn vật trên hành tinh này; vì cuộc sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh; vì Phật pháp được trường tồn sống mãi với loài người muôn thuở.
Này các con hãy đứng trong góc độ NHÂN QUẢ và THỌ BÁT QUAN TRAI, Chơn Thành, Giác Thường, Minh Nhân, Kim Quang, Từ Quang, Chơn Tịnh, Chơn Niệm, Phước Tồn, Chí Thiện, Diệu Quang, Liễu Huệ, Mỹ Thiện, Mỹ Linh, Hạnh Từ, Liễu Ngọc, Liễu Thiện, Ngọc Bình. Các con hãy dựa vào thân hành, khẩu hành và ý hành soạn thảo giáo án hướng dẫn từng hành động thân, miệng, ý để mọi người rèn luyện nhân cách, tu tập bốn pháp Định làm thay đổi cuộc sống khổ đau để trở thành cuộc sống yên vui và hạnh phúc.
Thời gian dạy 2 giờ trong buổi sáng vừa lý thuyết vừa thực hành, Buổi chiều chỉ kiểm tra lại sự thực hành trong buổi sáng 1 giờ để xem lại sự tu tập có đúng không?
Khi biên soạn giáo án dạy tu tập là chính các con đã tu tập cho các con rất nhiều, nhất là vừa triển khai tri kiến giải thoát tâm vô lậu, vừa thực hành giới đức oai nghi tế hạnh đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Các con vừa tu, vừa đứng lớp dạy. Tu và làm việc có lợi ích rất lớn cho mình cho người, vì phải làm gương hạnh cho tu sinh, vừa phải thông suốt những gì cần thông suốt, có thông suốt mới xả được tâm, còn không thông suốt chỉ hiểu biết một cách chung chung là không xả được tâm; không xả được tâm thì bị ức chế tâm.
Các con nên nhớ kỹ lời Phật dạy: “NHỮNG GÌ THÔNG SUỐT CẦN THÔNG SUỐT”. Nếu chưa thông suốt những điều cần thông suốt thì các con tu tập không xả được tâm mà còn ức chế tâm, tức là các con làm khổ các con. Còn THÔNG SUỐT NHỮNG GÌ CẦN THÔNG SUỐT thì đó là tri kiến giải thoát. Có tri kiến giải thoát thì xả tâm rất dễ dàng.
“NHỮNG GÌ THÔNG SUỐT CẦN THÔNG SUỐT” là tri kiến giải thoát của các con như trên đã nói. Tri kiến giải thoát của các con muốn có được là nhờ phải tu học các lớp Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Tu học các lớp Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định tức là các con tư duy biên soạn giáo án tu tập các lớp THỌ TAM QUY, THỌ NGŨ GIỚI, THỌ BÁT QUAN TRAI, THẬP THIỆN, THẬP GIỚI SA DI, 250 GIỚI TỲ KHƯU, 348 GIỚI TỲ KHƯU NI, KINH PHẠM VÕNG, KINH SA MÔN QUẢ.
Nếu Tu Viện được yên ổn thì tám lớp BÁT CHÁNH ĐẠO được ra đời thì các con được học tập suốt tám lớp này trong bảy năm thì lúc bây giờ các con đứng lớp dạy người tu đều là những bậc chứng quả A La Hán cả, nhưng duyên phước không đủ khiến các con không giữ trọn hạnh độc cư, nên sóng gió Chơn Như nổi đậy. Lớp Chánh Kiến chỉ có bốn tháng đình chỉ, vì thế hôm nay muốn bảo vệ tu viện để được yên ổn là nơi tu hành cho mọi người thì các con phải vừa học tu và vừa dạy người tu, Thầy chỉ là người hoa tiêu hướng dẫn các con: “Đứng lớp dạy và tu xả tâm”, giống như thời đức Phật tuy ông A Nan tu chưa xong, nhưng Phật sai ông đến dạy Ni chúng và chúng Tăng. Chỉ có những người ở cách xa Phật dạy người tu tập đều được Phật trắc nghiệm tu chứng mới được cho đi dạy như: năm anh em Kiều Trần Như, sáu mươi người bạn bè trong gia đình của ông Yasa và ông Phú Lâu Na v.v....
Hôm nay các con cũng vậy hoàn cảnh của tu viện bất an, buộc lòng các con phải vừa tu, vừa đứng lớp dạy để tu viện vươn mình đi lên; để dựng lại Chánh pháp của đức Phật, nhất là xây dựng nền đạo đức nhân bản của Phật giáo.
Hãy cố gắng lên các con ạ! Đây là trách nhiệm bổn phận của các con. Trong cảnh sóng gió Chơn Như. Nếu các con không đoàn kết để bảo vệ nó, lại vô tình gây chia rẽ nhau, tưởng nơi đâu sẽ có chỗ yên ổn hơn, điều đó không có các con ạ! Chính sự chia rẽ nói xấu nhau của các con đã làm cho nó càng suy yếu, tồi tệ hơn. Nếu chẳng may nơi đây tàn rụi thì bất cứ nơi đâu khi gặp khó khăn cũng sẽ tàn rụi như vậy. Cho nên chỗ nào gặp khó khăn là chỗ tôi luyện thành những con người HIỀN NHÂN, THÁNH ĐỨC. Hiền nhân, Thánh đức là những con người được tôi luyện trong lò giới đức của Phật giáo, chứ không phải HIỀN NHÂN, THÁNH ĐỨC tự trên trời rơi xuống. Phải không các con?
Tu viện Chơn Như được xem là lò tôi luyện những thanh thép lợi ích cho đời, cho đạo. Vậy các con có hân hạnh, hoan hỉ được sự tôi luyện của nó hay không? Nếu muốn được tôi luyện thì không nên nãn chí, phải bền lòng, gan dạ, kiên trì khi vấp ngã thì hãy mau đứng lên, hãy thấy những gì mình còn sai, còn phạm giới thì cố gắng khắc phục sửa sai, để trở thành những người có đầy đủ giới đức, để xứng đáng là những đệ tử của Phật; để trở thành những bậc A La Hán vô lậu.
Thăm và chúc các con vui mạnh, nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thân thương chào các con
(Ngọc Tuyền Sơn - 30 - 10 – 2006)
Kính gửi: Liễu Ngọc
Con có ước nguyện xuất gia là một điều rất quý, vì xuất gia là bỏ hết cuộc đời đau khổ của thế gian, danh lợi không còn màng, chỉ còn tìm cầu một hướng sống giải thoát ra khỏi nhà sinh tử luân hồi mà thôi.
Người xuất gia là người buông xuống hết không còn gì để vướng bận, dù thiện, dù ác hay dù là ái kiết sử cũng phải buông bỏ xuống hết con ạ!.
Đời sống chỉ còn ba y, một bát, luôn sống trong tu viện chuyên tu với những người đồng một chí hướng xuất gia tìm sự giải thoát như con, chứ không thể sống với những người tại gia và những người xuất gia mà danh lợi còn đầy ấp. Vì thế, khi các con xuất gia phải có chỗ ở xứng hợp để tu hành đến nơi đến chốn. Thầy đang lo điều đó cho các con, vì đời sống các con chẳng còn chi cả.
Người xuất gia đời sống chẳng còn gì hết con ạ! Nhờ bát cơm của đàn na thí chủ sống qua ngày. Người xuất gia chỉ còn duy nhất là một lòng thương yêu rộng lớn vô bờ bến, ai có làm hại mình, nói xấu mình cũng đều thương họ, thương thật sự, chứ không phải thương ngoài đầu môi, chót lưỡi.
Bởi vì, người xuất gia tu hành theo Phật giáo, họ biết rất rõ những người hại mình, những người nói xấu mình là những người đang đau khổ, là những người đang ở trong ác pháp, họ mang đầy lòng câm tức, hận thù, ghét cay, ghét đắng. Vì thế họ là những người khổ đau vô cùng, vô tận, họ là những người đáng thương con ạ!
Hiểu biết được như vậy người xuất tu hành phải tha thứ và thương yêu thật sự trong tận đáy lòng của mình, luôn luôn hướng tâm ước nguyện cho những người này giác ngộ được quy luật nhân quả, hiểu được lý chân thật của Phật giáo thấy rằng những sự đau khổ ấy chính mình tạo ra rồi cũng chính mình gặt lấy.
Trước khi xuất gia con có tư duy suy nghĩ và chuẩn bị tinh thần những điều này chưa? Xuất gia rồi chúng ta không thể sống chung với những người tại gia được. Vì nếp sống của người xuất gia không phải là nếp sống của người tại gia. Con có thấy điều này chưa?
Những người thân trong gia đình có ai không đồng ý việc xuất gia của con không? Hoàn cảnh xuất gia của con có thuận lợi chưa? Hiện giờ con thấy tâm con như thế nào? Có hoan hỷ xả được hết chưa? Có thanh thản, an lạc và vô sự chưa? Có vui sống độc cư một mình được chưa? Có thấy sự xuất gia là một tấm gương sáng đức hạnh không làm khổ mình, khổ người chưa? Có thấy đứng trước các ác pháp tâm con im lặng như Thánh được chưa? Tất cả những câu hỏi này con trả lời được và quyết tâm sẽ hướng đến nếp sống như vậy, thì hiện giờ Thầy cho phép con xuống tóc. Sau khi xây dự khu riêng biệt cho những người nữ xuất gia thì Thầy làm lễ xuất gia truyền giới trao y bát, còn bây giờ cạo tóc làm tịnh nhân học tập giới luật oai nghi đức hạnh cho đầy đủ. Cô Diệu Quang thay Thầy xuống tóc cho con.
Lập các Ban là Thầy chỉ định để chấn chỉnh lại tu viện có những lớp học riêng biệt cho tu sĩ nam và cư sĩ nam; có những lớp học riêng biệt cho tu sĩ nữ và cư sĩ nữ, từ thấp đến cao. Cũng như chỗ ở của tu sĩ nam riêng, tu sĩ nữ riêng; cư sĩ nam riêng, cư sĩ nữ riêng. Đây là một vấn đề trọng đại xây dựng lại chánh pháp của Phật giáo bằng một chương trình quy mô đào tạo giáo dục đạo đức nhân bản – nhân quả cho mọi sống không làm khổ mình khổ người.
Thân bệnh của con chưa đẩy lui được, đó là thân nghiệp nhiều đời do nghiệp sát sinh mà ra. Vậy con hãy bền chí an trú tâm trên Tứ Niệm Xứ tác ý theo Thân Hành đuổi bệnh thì bệnh con sẽ chấm dứt, nếu nghiệp nặng thì phải lâu hơn một chút, còn nghiệp nhẹ thì mau hơn, không có nghiệp nào mà Phật pháp không chuyển được. Đó là một sự thật nếu ai có lòng tin bền chí thì bệnh nào cũng hết.
Pháp môn tác ý là pháp môn dẫn tâm vào đạo, cho nên người tu theo Phật giáo làm chủ được thân tâm là nhờ pháp như lý tác ý. Cho nên thức ngủ đúng giờ mà con áp dụng thấy hiệu quả, đó là pháp hướng tâm. Hãy tiếp tục tinh tấn tu tập con ạ!
Con đứng trong Ban Giám Luật vậy hãy cố gắng giữ gìn giới hạnh độc cư cho nghiêm chỉnh hơn nữa để xứng đáng là một người xuất gia sau này.
Thăm và chúc con vượt qua thân nghiệp và tu tập xả tâm cho thật tốt
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 30 - 10 – 2006)
Kính gửi: Liễu Thiện
Con hãy thông báo cho cô Liễu Vân biết để cô an tâm hơn hay gửi bức thư này đến cũng được. Tất cả mọi sự việc xảy ra thuận hay nghịch đều là do duyên nhân quả của chúng sinh. Nếu phước báu của chúng sinh đầy đủ thì chúng ta xây dựng nền đạo đức của Phật giáo rất dễ dàng, còn nếu không đủ thì chúng ta phải vất vả nhiều hơn. Nhưng sự vất vả ấy mới nói lên được lòng nhiệt tâm của chúng ta đối với Phật pháp; mới nói lên được lòng yêu thương của chúng ta đối mọi người. Còn ngược lại các con tức giận, nói điều này, luận điều kia, nói qua, nói lại, nói xấu người khác là các con đã làm mất đức hạnh của các con.
Bởi vì những việc làm của các con là vì Phật pháp được trường tồn, là vì lợi ích cho mọi người, chứ đâu phải vì lợi ích cho riêng cá nhân của các con. Vì vậy, các con hãy hân hoan bắt tay và vượt qua những khó khăn, gian nan thử thách trong những việc làm này.
Với việc làm này duy nhất là nội bộ chị em của các con phải cảm thông những sự khó khăn, phải đoàn kết và thương yêu nhau, không nên cố chấp tranh cãi hơn thua mà phải biết tuỳ thuận, nhẫn nhục và vui lòng với nhau trong mọi việc làm, đừng làm theo ý mình mà hãy làm theo ý người, phải dùng ái ngữ mà đối xử nhau, lấy việc của người khác làm, xem như là việc của mình, không nên nản chí, lo buồn. Nhất là đừng trách cứ lẫn nhau, đổ thừa cho nhau. Có được như vậy mới làm nên việc lớn.
Khi hiểu được như vậy các con không buồn phiền anh, chị, em nào cả mà chỉ còn biết thương yêu tha thứ mọi sự hiểu lầm lạc của nhau mà thôi, vì các con làm việc lợi ích cho mọi người, chứ không phải làm việc vì danh (đứng lớp dạy học), chứ không phải làm việc vì lợi (tiền bạc Phật tử cúng dàng lo cho đời sống tu sinh). Do tâm niệm chúng ta không phải vì danh, vì lợi thì có xá gì những lời nói sai, những điều trái ý. Chị em có thương nhau, có tha thứ mỗi lỗi lầm của nhau thì mới làm nên việc lớn, Nhất là các con những tu sinh trong tu viện hãy lấy những việc làm chung nhau biết xả tâm, biết nhẫn nhục, tùy thuận và vui vẻ với nhau thì việc lớn nào cũng làm được. Và ngay bây giờ các con hãy chuẩn bị cho mình trở thành một người gương hạnh đứng lớp dạy người khác đạo đức là phải đầy đủ thân giáo, thuyết giáo. Đó là trách nhiệm và bổn phận của các con để trả lời cho mọi người biết. chứ không phải phân bua hơn thiệt phải trái bằng miệng lưỡi thế gian như người đời, còn phàm phu tục tử.
1- Tuy con mới vào tu viện, nhưng con đã từng theo tu học với Thầy xả tâm nhiều năm tháng trước đây, Cho nên không cần phân bua cho họ biết, chỉ có hiện giờ các con phải cố gắng học tập rèn luyện qua sự hướng dẫn của Thầy, thì các con sẽ đứng lớp dạy tu tập đạo đức rất dễ dàng. Tại sao con có tên trong nhiều Ban, là vì có tên để dự vào các lớp huấn luyện để sau này làm việc dễ dàng. Càng có tên nhiều trong các Ban là phải giữ gìn đức hạnh trong sáng, khi người ta nói đến con như vậy thì phải cố gắng giữ gìn đức hạnh nhiều hơn để trả lời. Chính sự giữ gìn cố gắng đức hạnh nhiều hơn là con ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp là con đã giải thoát
2- Đúng vậy người nào vào tu cũng đều có mang tịnh tài, nhưng không phải mọi người vào tu đều có tiền hết. Trong tu viện chúng ta không nhận học phí của ai hết, chỉ biết giúp mọi người tu hành mà thôi, ai có tâm cúng dàng giúp mình tu và người khác tu đó là một điều tốt, một tâm niệm tốt mà tu viện nhận.
Trước khi phát biểu một điều gì thì phải xem việc làm của người khác rồi mới nói thì nói ra chính chắn hơn. Về tiền bạc làm bằng mồ hôi nước mắt của phật tử, nên các con dè dặt, chừng nào có người phát tâm thì mới nhận, còn chưa phát tâm thì chớ nên kêu gọi xin thì cũng giống như Đại Thừa.
3- Đứng lớp dạy các con nên tập làm thinh, khi họ khen chê, các con không nên nói lại điều gì cả. Các lớp học mở cửa các con sẽ đứng lớp dạy cho thật tốt. Chừng đó là trả lời với những phật tử chê khen
4- Hãy báo cô Liễu Vân biết đừng nên trả lời một điều gì khi họ phát biểu chống trái nhau mà chỉ nói điều đó để hỏi lại Thầy. Hiện giờ chỉ có cố gắng đoàn kết với những người hiểu biết cảm thông nhau trong giai đoạn khó khăn, để chứng minh những việc làm của các con mà thôi. Đừng vì một việc nhỏ mọn mà bỏ việc lớn, đó là các con đã có trí đối phó trước những khó khăn.
Muốn thắng mọi khó khăn, gian nan, thử thách thì chỉ có lòng thương yêu và tha thứ thì mới vượt qua. Chúng ta đứng sừng sững giữa trời đất mênh mong mà không bị ngã gục là nhờ có lòng thương yêu. Hãy tập sống như ông Phú Lâu Na con ạ!.
Thăm và chúc các con vui mạnh nhớ xả tâm tốt.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 19 - 10 – 2006)
Kính gửi: Liễu Thiện
Trong lúc này các con phải im lặng như Thánh, để những người phạm giới làm gì thì làm, nhưng mọi người trong tu viện đều thấy, nghe, hiểu biết, chứ không phải người ta không thấy, nghe, hiểu, biết đâu. Điều cần thiết là hiện giờ các con âm thầm nên chọn người thành lập các Ban.
Khi các con chọn người xong rồi mời họ ra thành lập các Ban.
Khi các Ban thành lập xong thì mới cho ra một thông tư để báo cáo cho mọi người trong tu viện biết hiện giờ là do các ban điều hành tu viện, ai làm sai phạm kỷ luật thì các Ban hợp lại mời ra khỏi Tu Viện. Mời ra khỏi Tu Viện bằng văn bản, chứ không phải bằng tranh luận tay đôi.
Làm việc như vậy là làm việc theo luật hành chánh có tổ chức hẳn hoi, thì không có ai nói xấu một cá nhân nào được. Cho nên cô Út, Liễu Thiện hay một người nào đó không bị mang tiếng hung dữ.
Thành lập các Ban là điều cần thiết hiện nay của tu viện. Vậy các con hãy xúc tiến làm việc này để ổn định tu viện càng sớm càng tốt.
Hiện giờ các con nên thành lập 4 Ban:
1- BAN GIẢNG HUẤN:
Nam: Chơn Thành, Minh Nhân. Thanh Quang, Từ Quang…
Nữ: Diệu Quang, Liễu Huệ, Cô Thảo, Tú, Hạnh Từ, Liễu Thiện….
2 – BAN GIÁM LUẬT:
Nam: Chơn Thành, Giác Thường, Thiện Thảo
Nữ: THỊ SÁT: Diệu Quang, Liễu Thiện, Mỹ Linh, cô Thảo, cô Hồng
3 - BAN ĐỜI SỐNG:
Diệu Quang, Liễu Thiện, Hải Tâm, Liễu Huệ, Mỹ Linh, Mỹ Thiện, Cô Nghiệm, cô Phương, Bé Nhi (nội diện)
Liễu Tâm, Liễu Vân, Liên Châu, cô Bính, Cô Thắm, Diệu Linh, Cô Liên….(ngoại diện)
4 - BAN IN ẤN:
Thanh Quang, Từ Quang, Thanh Trí, Chơn Tịnh, Chú Phụng, chú Hai, chú Thảo (nội diện)
Minh Tâm, Ông Bà Thức, Diệu Quang, Liễu Thiện, Liễu Tâm, Liễu Vân, Liên Châu, Tuệ Hạnh (ngoại diện).
5- BAN NGOẠI GIAO:
Diệu Quang, Liễu Tâm, Hải Tâm, Mỹ Linh (đối ngoại)
Khi con về Hà Nội thì mang theo bảng thông tư của BAN GIÁM LUẬT do Thầy Chân Thành soạn thảo. Ai phá giới, ai phạm giới và phạm kỷ luật trong tu viện như thế nào thì chừng đó mọi người sẽ rõ và tin 100%. Còn con về Hà Nội có ai hỏi về tu viện thì con không nên nói gì cả mà chỉ báo cáo cho Phật tử biết: Bây giờ tu viện đã tổ chức các Ban điều hành, nên rất ổn định và không còn ai làm động. Nhất là chương trình sẽ mở mang các lớp học tu đúng tiêu chuẩn giáo dục đào tạo. Còn những việc xảy ra tại tu viện vừa qua là một bước tiến vượt lên của tu viện để xây dựng các lớp tu học cụ thể hơn. Còn ai không tin đúng hay sai là những người không hiểu nhân quả diễn biết để thay da đổi thịt của tu viện, đó là những ý kiến cá nhân không thấy xa, hiểu rộng. Còn riêng con dù có nói tốt gì cho tu viện thì vẫn có người không tin, cho nên chẳng nói gì là tốt nhất. Lúc bấy giờ con mang theo những thông báo mở các lớp tu học, giao cho TỔ ĐOÀN KẾT phát ra cho Phật tử, để quý Phật tử chuẩn bị vào tu học. Nhất là gửi thông tư cho TỔ ĐOÀN KẾT xin Phật tử các nơi sẽ hỗ trợ cho BAN ĐỜI SỐNG để các bác, các cụ, các cô an tâm tu học.
Ai theo tu học thì tốt, không theo thì thôi, đừng lo ngại gì các con ạ! Hãy lo tu tập xả tâm mình, để mình được an vui, thanh thản và vô sự, là giải thoát, là hạnh phúc. Ai nói xấu, nói tốt mặc họ. Cuộc đời này phải lìa khỏi danh và lợi. Danh lợi như nước chảy qua cầu có gì đâu các con ạ! Khi chết có mang những gì theo được đâu?
Chuyện sóng gió Chơn Như là một việc thường tình có gì mà các con phải tranh luận hơn thua đồ thừa, càng tranh luận hơn thua đổ thừa là tự mình phá hoại tu viện của mình thì tiếng không tốt cho các con nên phải biết nhẫn nhục để làm việc lớn.
Còn riêng Thầy đã có nơi ẩn trú an ổn để lo soạn thảo những bộ sách đạo đức làm người và những bộ giới luật của Phật còn đang dở dang. Thầy đã già rồi, giao lại tu viện này cho các Ban. Các con hãy lãnh trách nhiệm, đoàn kết, biết thương yêu nhau, biết tha thứ những lỗi lầm của nhau thì Thầy sẽ về thăm, còn không đoàn kết tranh chấp hơn thua, hết duyên Thầy thị tịch chẳng để lại dấu vết gì cả.
Thăm và chúc các con mạnh khoẻ tu tập xả tâm tốt.
Thân thương chào các con
(Ngày 27 - 3 – 2007)
Kính gửi: Thiện Tâm!
Kính gửi: các tu sinh!
Chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh, người học viên cũng là giảng viên, giảng viên cũng là học viên. Cho nên học viên nào sống đúng giới luật đức hạnh là thân giáo làm gương cho mọi người soiđó là giảng viên trong lớp học.
Vậy tất cả tu sinh trong lớp học cố gắng thân giáo đức hạnh giới luật để lần lượt Thầy sẽ đề cử ra đứng lớp dạy. Vừa rồi thầy Chơn Thành đi Hà Nội có việc cần, nên Thầy đề cử thầy Thanh Quang dạy thế lớp học vẫn trôi chảy bình thường.
Hôm nay, Thầy Thanh Quang sắp phải trực tiếp lo khu an dưỡng Tam Điệp - Ninh Bình và còn liên hệ với Nhà Xuất Tôn Giáo lo việc xin phép in ấn. Còn thầy Từ Quang hết hạn phải về Úc lo cơ sở bên ấy, thời gian không còn dài nữa, Khả năng quý Thầy đứng lớp dạy không có khó khăn.
Còn lại tất cả tu sinh học tậpđạo đức không phải học để hiểu biết suông mà phải áp dụng vào đời sống hằng ngày và còn coønphải thực tập biên soạn giáo án đạo đức để khi đứng lớp dạy dễ dàng hơn.
Hôm nay lớp học chúng ta có thêm một lớp mới, Vậy Thầy xin đề cử Thiện Tâm dạy lớpmới và Thầy Chơn Thành dạy lớp cũ, để thầy Chơn Thành còn thời gian biên soạn giáo án phụ giúp Thầy
Nếu chương trình học đạo đức hiếu sinh hết thì tu sinh sẽ được thi lên lớp học đức ly tham. Thầy ước mong sao tất cả tu sinh lớp hiếu sinh sẽ được lên lớp ly tham không có một người nào ở lại.
Muốn được lên lớp các tu sinh hãy biết giữ gìn giới luật nghiêm túc áp dụng đức hạnh độc cư để thể hiện sống trầm lặng quán xét mỗi hành động có ứng dụng đức hiếu sinh hay không?
Có được như vậy Thầy và các tu sinh mới dựng lại chánh pháp của Phật giáo thì thế gian này mới có sự sống bình yên. Cuối cùng Thầy xin có lời thăm và chúc quý tu sinh tu tập tốt, áp dụng đức hiếu sinh ngày càng thấm nhuần hơn.
Thầy của các con
(Ngọc Tuyền Sơn 2 - 10 – 2006)
Kính gửi: Liễu Ngọc
Con hãy về lo giải quyết gia đình cho xong, vì đó là bổn phận trách nhiệm của một người mẹ, con không thể giao cho một người nào khác được. Khi nào giải quyết xong và cả gia đình chấp thuận cho con xuất gia thì Thầy sẽ xuất gia cho. Xuất gia không khó nhưng khó là ở chỗ phải thuận các duyên. Vì đạo Phật có một nền đạo đức, sống không, làm khổ mình khổ người, là một người sắp làm đệ tử xuất gia của Phật thì phải thông suốt đạo đức này. Khi thấy mình còn làm khổ mình, khổ người thì không nên xuất gia con ạ! Cho nên sự tu tập của con giữ trọn hạnh độc cư xả tâm như vậy, nếu thuận duyên gia đình thì con là người xuất gia tốt.
Giờ lao tác buổi sáng con đi quét dọn nhưng luôn phòng hộ sáu căn nên lúc nào cũng tỉnh giác từng hành động quét, tỉnh giác thì không nói chuyện với người khác, thiếu tỉnh giác thì hay đi nói chuyện. Ngoài giờ lao tác mà đi quét hoặc làm những việc khác là phóng dật, chỉ trừ những người nằm trong Ban In Ấn hay Ban Xây Dựng, Ban Đời Sống thì họ phải lao tác trong công việc của họ nhưng họ rất tỉnh giác từng việc làm, từng đối tượng để phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, đó chính là để diệt ngã xả tâm, nên khi tiếp duyên nói chuyện với ai, họ nói rất ít, bởi vì họ cũng vừa làm, vừa tu tập xả từng tâm niệm ác.
Thăm và chúc con vui mạnh, nhớ xả tâm cho thật tốt.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 2 - 10 – 2006)
Kính gửi: Diệu Minh
Con hãy xếp lại y áo xuất gia để làm giấy xuất cảnh. Sau khi qua bên đó xong thì con sẽ mặc lại y áo xuất gia. Nhớ giữ gìn giấy chứng nhận THỌ GIỚI SA DI NI Thầy đã cấp cho.
Tu hành chỉ có giới luật là pháp môn hàng đầu phải giữ gìn nghiêm chỉnh thì tu hành mới không lạc vào tà pháp.
Tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì phải để tâm tự nhiên quán trên thân và cũng để tự nhiên tâm sẽ nhiếp phục tất cả ưu phiền, chứ đừng dùng sức tập trung ức chế không niệm là sai. Bởi vậy tu đến đây con phải thiện xảo linh động khéo léo, nhất là phải phòng hộ sáu căn trọn vẹn thì tâm mới xả sạch tham, sân, si, mạn, nghi.
Thăm và chúc các con vui mạnh
Thân thương chào con
Ngọc Tuyền Sơn 2 - 10 - 2006
Kính gửi: Hải Tâm
Đúng là các con còn phải tu tập nhiều nữa, nhưng tập biên soạn bài để dạy người tu cũng là triển khai tri kiến giải thoát để xả tâm, tức là con cũng đang tu Định Vô Lậu. Công việc đó có Thầy hướng dẫn, con đừng sợ. Lẽ ra các con phải học hết lớp Chánh kiến, nhưng vì sóng gió Chơn Như nên lớp Chánh kiến đành phải đóng cửa.
Hiện giờ hàng ngày con vẫn lo tu tập xả tâm, mà tu tập xả tâm thì có hai pháp:
1- Quán nhân quả
2- Quán từ bi
Còn đứng lớp dạy là dạy theo giáo án con biên soạn và kinh nghiệm của tu hành của con đã tu có kết quả. Nếu phật tử hỏi ngoài vấn đề con dạy và hỏi những điều con không biết về kinh thì con bảo phật tử hãy đọc lại Đường Về Xứ Phật và Những Lời Gốc Phật Dạy, về giới luật thì con bảo phật tử hãy đọc lại Văn Hóa Truyền Thống, Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ.
Sự đứng lớp dạy con đừng lo ngại mà chỉ có siêng năng ghi lại những gì con đã hiểu về đức hạnh giới luật của Phật; về kinh nghiệm tu tập xả tâm trong bốn pháp ĐỊNH mà các con đã tu tập thuần thục
Con cứ mạnh dạn ghi lại theo thứ tự tám giới đức Bát Quan Trai và những kinh nghiệm thực hành bốn pháp định, Thầy sẽ chỉnh sửa lại cho. Chính soạn bài là cũng ghi lại sự tu hành của mình làm cho sự tu hành của mình lại thắm nhuần thêm. Hãy cố gắng lên con ạ! Đừng sợ sệt e ngại, phải mạnh dạn, đứng lớp dạy phải nghiêm trang, ăn mặc phải chỉnh tề, khi thuyết giảng không nên ra dấu tay, mà hai tay phải để tự nhiên trên mặt bàn hoặc trong lòng khi ngồi ghế. Có cần gì con cứ hỏi Thầy sẽ dạy tiếp cho.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 2 - 10 – 2006)
Kính gửi: Chơn Thành
1- Thầy sẽ gửi cho con Phương án xây dựng Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện, nhưng chỉ ngại là không xin phép được.
2- Vấn đề Phật tử Hà Nội con đừng lo những bức tâm thư của Thầy sẽ quét sạch những chông gai để đem lại sự bình an cho phật tử và tu viện Chơn Như. Tu viện Chơn Như sẽ là nơi trổ hoa kết trái đạo đức nhân bản ngày một nhiều hơn.
Ban Giảng Huấn của tu viện Chơn Như ngày một đông hơn, nhiều giảng sư đức tài đầy đủ hơn.
3- Chiếc thất đó là khu vực nữ, con không nên qua ở đó, nhất là đường đi của các cô trong Ban Đời Sống ra nhà bếp.
4- Sư Chơn Niệm biết xin sám hối là tốt, cơ thể sư Chơn Niệm mất hết năng lực thanh tịnh.
Lúc này hơn bao giờ hết con nên giữ gìn hạnh độc cư nghiêm chỉnh để khi ra thất sau bảy tháng tu tập chứng đạt chân lí, mang lại kết quả khả quan cho mọi người soi gương, mặc dù con chưa hoàn chỉnh lắm nhưng vẫn thấy được kết quả cụ thể rõ ràng mà không ai dám phủ nhận.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 2 - 10 – 2006)
Kính gửi: Minh Nhân
Việc tu tập của con như vậy là tốt, nhưng lưu ý: giữ gìn độc cư trọn vẹn, đừng ức chế tâm trên Tứ Niệm Xứ mà hãy để tâm tự nhiên, khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm còn độc thoại. Tâm còn độc thoại nhưng không qua được tri kiến của con thì con đã làm chủ tâm con, làm chủ tâm con tức là giải thoát; làm chủ tâm con tức là làm chủ tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Làm chủ tâm tham, sân, si, mạn, nghi là con không bị chúng sai khiến được, không sai được con tức là tâm con thanh thản, an lạc và vô sự. Chừng nào tâm con hết tham, sân, si, mạn, nghi thì hết độc thoại. Hết độc thoại thì tâm con nhập vào BẤT ĐỘNG TÂM ĐỊNH. Nhập vào BẤT ĐỘNG TÂM ĐỊNH thì tâm con định tỉnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng tức là con có đầy đủ Tứ Thần Túc. Cho nên tu tập phải sống đời sống giới luật đức hạnh, nhất là giới hạnh độc cư phải trọn vẹn, rồi dùng tri kiến quét tham, sân, si, mạn, nghi.
Lúc này là lúc con phải thiện xảo sống tự nhiên, chỉ có tri kiến giải thoát hoạt động, lúc nào cũng quán chiếu theo sát từng hành động thân, miệng, ý
Các con nên nhớ tu tập chỉ cần giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là phải thích sống trong giới luật. Mà thích sống trong giới luật là người chứng giới luật. Vì thích sống trong giới luật nên tâm dục ly ác pháp, do tâm ly dục ly ác pháp nên tu tập nhập định BẤT ĐỘNG rất dễ dàng.
Con không cần đọc lại bài cũ, khả năng con thừa sức biên soạn giáo án đứng lớp dạy. Bây giờ con dựa vào năm giới biên soạn thành giáo án lý thuyết và thực hành song song từng đức hạnh của năm giới này. Sau khi soạn xong gửi xuống cho Thầy, Thầy sẽ chỉnh sửa lại cho, cứ biên soạn theo cách thức tư duy suy nghĩ và tu tập của con. Quan trọng nhất là pháp hành của năm giới đức này. Nếu thấy khó hiểu con nên dựa vào tập sách: Những chặng đường tu tập của người cư sĩ. Ở đây quan trọng là cách thức thực hành rèn luyện nhân cách, chứ không phải lý thuyết dông dài. Con đừng lo có Thầy, cần những gì cứ thưa hỏi Thầy sẽ hướng dẫn các con trở thành người đứng lớp giảng dạy có bài bản, đừng lo con ạ! Các con là đệ tử của Thầy bao năm tháng kinh nghiệm tu hành, bây giờ dạy là dạy lại kinh nghiệm tu hành của mình chớ có gì khó, Chỉ có hệ thống lại đức hạnh và pháp hành từ thấp đến cao theo thứ tự mà đức Phật đã dạy như NGŨ GIỚI thì giới thứ nhất là giới cấm sát sanh; giới thứ năm là giới cấm uống rượu, cứ theo đó mà con biên soạn thì không bao giờ sai.
Một người đã giác ngộ chân lý là không bao giờ trở lại đời sống thế tục này nữa, cho nên đức Phật dạy: “Ta không trở lui lại đời sống này nữa”. Một khi đã giác ngộ bốn chân lí của Phật giáo: KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO” thì còn ai muốn sống trở lại thế gian này nữa. Phải không con?
Đứng lớp dạy cũng là tu thân giáo, thuyết giáo. Tu thân giáo, thuyết giáo tức là làm lợi ích cho mình, cho người. Có đúng như vậy không? Thuyết giáo không khó, nhưng thân giáo khó hơn, khi chúng ta nói một việc gì thì thân chúng ta phải làm đúng việc ấy, nhất là cách thức sống hằng ngày phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, đi đứng nằm ngồi luôn luôn trong chánh niệm tỉnh giác, phải thể hiện đức hiếu sinh đối với mọi người và mọi loài, nhất là lời nói phải ôn tồn nhã nhặn nhẹ nhàng êm dịu luôn luôn dùng lời ái ngữ. Cho nên thân giáo rất khò người giảng viên cần phải lưu ý. Nếu không ý thức trách nhiệm của người giảng viện thì ý nghĩa đạo đức sư phạm truyền đạt tư tưởng đạo đức cho người khác mất hết ý nghĩa của nhà giáo.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 28 – 10 – 2006)
Kính gửi: Thanh Quang
Sau khi đọc bức thư con đề ngày 3 tháng 9 Âm Lịch. Thầy nhận xét con đã trưởng thành tri kiến giải thoát nhân quả về sự tư duy quán xét.
Luôn luôn con hãy áp dụng tri kiến ấy vào đời sống hằng ngày của con, thì đạo đức không làm khổ mình, khổ người hiện ra trước mắt tại đó.
Tuy bức thư nói về nhân quả ngắn nhưng đầy đủ ý nghĩa đạo đức giải thoát, cho mình, cho người.
Vì lợi ích con người, đứng trong góc độ NHÂN QUẢ và THẬP THIỆN con đủ sức dựa vào thân hành, khẩu hành và ý hành soạn thảo giáo trình hướng dẫn từng hành động thân, khẩu, ý để mọi người rèn luyện nhân cách, làm thay đổi cuộc sống khổ đau trở thành cuộc sống yên vui và hạnh phúc.
Khi soạn thảo giáo trình rèn luyện nhân cách đạo đức này, tri kiến con lại thâm sâu lý nhân quả hơn nữa, đó cũng là bước đường tu tập đi vào lối kiến thức giải thoát, đừng tiếp duyên nói chuyện ngoài lề để tạo thêm nhân quả khổ đau cho mình cho người, làm phí tổn thời gian vô ích. Tất cả những gì xảy ra chung quanh con đều là duyên nhân quả, có gì mà phải bận tâm bàn tới bàn lui. Phải không con?
Hãy để thời gian quý báu ấy quán xét chuyên sâu vào nhân cách đạo đức nhân quả để ban bố cho mình, cho người lòng thương yêu tha thứ rộng lớn đúng nghĩa từ bi của Phật giáo. Chính cũng từ đó tâm con bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Hạnh phúc lắm con ạ! Tâm con sẽ thường sống trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là con đã chứng nhập vào chân lí. Như vậy vừa dạy người tu tập rèn luyện nhân cách mà cũng chính con đang tu tập rèn luyện nhân cách cho mình. Con có biết không? Đó là tu quán xả tâm lậu hoặc tuyệt vời.
Vì lợi ích cho mình cho người con hãy dồn hết thời gian và công sức vào chương trình soạn thảo giáo án rèn luyện nhân cách, một tập sách có giá trị lợi ích lớn cho loài người, hãy bắt tay vào việc làm ngay bây giờ con ạ! Đừng phí thời gian nói chuyện loanh quanh với các bạn không ích lợi đâu. Thầy rất tin tưởng nơi con cũng như công việc xin phép in ấn, con đã hoàn thành công việc tốt đẹp.
2- Lần sửa bản thảo kế tới, con nên chọn những huynh đệ nào có tâm tích cực làm việc kỹ lưỡng, soát lại những lỗi lầm của bản thảo trước khi in, ý này rất hay Thầy chấp nhận để không còn sai sót những lỗi lầm như những kỳ in trước.
3- Ý kiến của con là giữ kinh sách lại không phát hành ngay lúc này, Thầy chấp nhận, cô Út chỉ phát những sách Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm, Thọ Bát Quan Trai, Thọ Tam Quy Ngũ Giới, Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ, Tạo Duyên Hóa Độ Chúng Sanh và Đạo Đức Làm Người.
Khả năng con thừa sức làm điều này, ngay bây giờ phải bắt tay vào việc tức là con tu Định Vô Lậu. Chuẩn bị cho lớp dạy Thập Thiện mà con là người đứng lớp rèn luyện nhân cách, sống không làm khổ mình, khổ người bằng thân giáo, khối óc và tri kiến của con dạy cho người khác.
Lớp học đạo đức Thập Thiện sắp tới đây sẽ mở cửa, con phải thấy trọng trách, gánh vác thay Thầy trong lúc này, để dựng lại Chánh pháp của Phật, làm cho nền đạo đức của Phật giáo bừng sáng lên như ánh hào quang, đem lợi ích cho mọi người, cho mọi gia đình, cho đất nước quê hương của mình.
Ngay bây giờ con hãy rèn luyện nhân cách ái ngữ, lời nói nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn dù bất cứ một người nào làm trái ý. Nhớ tác ý ái ngữ con ạ!
Cũng ngay bây giờ con hãy rèn luyện nhân cách oai nghi chánh hạnh nhẹ nhàng, êm dịu đi, đứng, nằm, ngồi khoan thai, tiếp giao mọi người từ tốn, khoan dung, rộng lòng tha thứ và yêu thương.
Cũng ngay bây giờ con hãy rèn luyện nhân cách tư duy suy nghĩ của con để tìm thấy những lỗi của mình mà sửa đổi nhất là khi thấy lỗi người, lúc nào cũng thực hiện đầy lòng yêu thương, tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác.
Bức thư thứ hai đề ngày 8 tháng 9 Âm lịch. Con hỏi:
1- Vấn đề con đã nói trong thư với Ban Tôn Giáo Chính Phủ về Phật giáo nguyên thủy là đúng nhất. Những sách Thầy viết đều dựa vào tạng kinh Pàli do Hòa Thượng Minh Châu dịch thì không còn ai dám bắt bẻ được. Con đã vạch rõ cho họ thấy đạo Phật là nền ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI, chứ không phải thuần túy một tôn giáo, điều đó rất hay. Mạnh dạn xác định được điều này với Ban Tôn Giáo Chính Phủ Nhà Nước để Nhà Nước hiểu rõ hơn về Phật giáo.
2- Có dịp con cứ nghiên cứu thêm Phật giáo Nam Tông. Thầy chấp nhận cho hai con: Thanh Quang và Từ Quang đến đó nghiên cứu và quay phim, ghi chép sự tổ chức của họ để xét qua kinh tạng Pàli, để biết họ tổ chứ như thế nào? Những cái sai chúng ta nên tránh, những cái tốt thì nhận vào để tổ chức các lớp học của Tu Viện được hoàn chỉnh hơn. Trách nhiệm của việc làm này hơi khó, nhiều khi các con sẽ bị lôi theo dòng nước của Nam Tông không chừng, nhưng thôi mọi đều do nhân quả, đều do duyên tan hợp của các pháp có hợp thì phải có tan, muốn duy trì cũng không làm sao được. Còn duyên thì gần nhau hết duyên thì phải xa nhau. Đó là quy luật vô thường của các pháp.
3- Về đứng lớp dạy các con đừng lo ngại, có Thầy ở một bên, Thầy sẽ hướng dẫn:
Lớp THỌ BÁT QUAN TRAI chỉ truyền tám giới và dạy thực hành bốn pháp định như các con đã tu tập. Chỉ dạy có một lần rồi từ đó về sau người Thọ Bát Quan Trai cứ tu tập suốt thời gian thọ, nếu gặp những gì khó khăn trong sự tu tập thì mới xin thưa hỏi.
Lần lượt Thầy sẽ hướng dẫn các con soạn thảo giáo án và đứng dạy không có khó khăn gì cả, vì khả năng của các con thừa sức.
Các con đứng lớp lần lượt sẽ được Thầy gửi thư hướng dẫn trợ giúp các con hoàn thành thân giáo, thuyết giáo, hành giáo.
Vừa tu tập giải thoát cho mình, vừa đứng lớp dạy mọi người rèn luyện nhân cách tức là các con đang dựng lại Chánh pháp của Phật.
Thân thương chào các con
(Ngọc Tuyền Sơn 28 – 10 – 2006)
Kính gửi: Thanh Quang
Có tham dự vào các lễ của tôn giáo, các con mới thấy tôn giáo không mang lại lợi ích thiết thực cho loài người, mà mang đến sự hao tốn tiền của, công sức vĩ đại của con người mà thôi. Tiền của, công sức vĩ đại của con người chỉ để phục vụ những dục lạc danh lợi, ăn uống, vui chơi cho một số người mang danh là tôn giáo, nhưng họ làm được những gì lợi ích thiết thực cho loài người hay chỉ tạo ra một thế giới tưởng siêu hình, một thiền định ảo giác ức chế tâm để lừa đảo mọi người tâm còn tham mê thần thông. Hình thức nghi lễ tôn giáo cũng giống như một tổ chức những ngày lễ lớn như người thế gian mà thôi. Có Thần Thánh nào ngự xuống ban phước cho mọi người không?
Đạo Phật là một sự thật của loài người, nên mới được gọi là chân lý, Đã là chân lý thì chỉ có nền đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người. Sao đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người lại tổ chức lễ lộc to lớn làm hao tốn hàng tỷ bạc và công sức của nhiều người? Những việc làm này là phi đạo đức nhân bản – nhân quả. Như vậy những người này họ không hiểu Phật giáo, họ đã làm mất chân lý của Phật giáo, vì thế Phật giáo hiện giờ là Phật giáo Bà La Môn, chứ không phải Phật giáo Nguyên Thủy, họ chỉ mượn danh Phật giáo Nguyên Thủy để lừa gạt Phật tử. Có đúng như vậy không các con?
Về phát hành kinh sách sao này con có ý kiến gì?
1- Phát hành ấn tống
2- Phát hành thu lại số vốn.
Về vấn đề này các con nên họp lại bàn thật kỹ rồi cho Thầy biết.
Bộ ĐVXP là một bộ sách của nhiều ngòi bút hợp sức dựng lại chánh pháp của Phật giáo và quét sạch những kiến giải tà pháp của ngoại đạo đang phủ dầy đặc với mục đích diệt sạch Phật giáo trên thế gian này. Cho nên khi sửa bài các con phải thấy trách niệm và bổn phận dựng lại nền đạo đức nhân bản của Phật giáo. Vì vậy ngòi bút của các con phải khéo léo dùng từ nhẹ nhàng nhưng chỉ thẳng bộ mặt thật của Bà La Môn Giáo Đại Thừa và thiền Đông Độ lừa đảo phật tử, để khi sách được in ấn và phát hành thì có một giá trị rất lớn đối với loài người. Công ơn ấy lịch sử sẽ ghi và nhân loại sẽ không quên.
Cho nên, các con phải khéo léo sửa những từ cho ôn tồn, nhã nhặn nhưng không tránh né, nói thẳng những cái sai của kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ cho mọi người biết: kinh sách này không phải là những lời Phật dạy.
Chú Chung xin Thầy cho phép chú được xin phép Nhà Xuất Bản Tôn Giáo in ấn cuốn HÀNH THẬP THIỆN và TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Khi cuốn sách này được in xong thì chú lại xin cho phép chú được xin phép in tiếp cuốn sách THỌ TAM QUY, NGŨ GIỚI và THỌ BÁT QUAN TRAI, nhưng chú lại nhờ Thầy nhuận lại, vì sách do quý thầy nghe băng giảng của Thầy ghi lại nên toàn là văn nói và không mạch lạc cho lắm.
Khi nhuận lại xong sách, Thầy cho một cái tên chung của hai bộ sách này là NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG TU HỌC CỦA NGƯỜI CƯ SĨ. Cho nên chú Chung gửi Nhà Xuất Bản Tôn Giáo duyệt. Vì thế Nhà Xuất Bản Tôn Giáo hỏi con về cuốn sách này thì con thật khéo léo trả lời như vậy rất hay.
Hai tập này có giấy phép con sẽ giao cho cô Liên Châu và chú Chung in 3.000 cuốn mỗi tập. Hai người sẽ chấp nhận liền.
Về Trung Tâm An Dưỡng, khi nào đánh phương án in xong Thầy sẽ ký tên và giao lại cho con để xin phép, nếu xin phép thì phước chúng sinh đã có.
THẬP THIỆN là đường đi đạo đức nhân bản - nhân quả của con người, nên nó là bộ sách đạo đức suốt cả một đời người, vì thế phần nội dung THẬP THIỆN rất phong phú không thể tính số được, chỉ tùy trình độ biên soạn. Sự biên soạn cũng tùy vào mỗi lớp dạy; cũng tùy vào trình độ của tu sinh tiếp thu, nên sự soạn thảo hết sức cẩn thận, kỹ lưỡng.
Ví dụ: Lớp THỌ NGŨ GIỚI dạy về giới sát sinh thì đức của nó là ĐỨC HIẾU SINH. ĐỨC HIẾU SINH ở sự suy nghĩ tư duy; ĐỨC HIẾU SINH ở hành động lời nói; ĐỨC HIẾU SINH ở thân hành thì ở lớp học sơ cấp này con phải viết đơn giản dễ hiểu rõ ràng có cho những ví dụ cụ thể của mỗi hành động đạo đức đó để học viên cởi mở thích thú tiếp thu. thì số lượng trang trang một giới đức hiếu sinh như vậy thì ngắn nhất cũng phải năm chục trang, còn dài nhất thì tùy theo kinh nghiệm sống của cuộc đời và khả năng quan sát trong thực tế mà viết ra.
Thời gian dạy 2 giờ trong buổi sáng vừa lý thuyết vừa thực hành, Buổi chiều chỉ kiểm tra lại sự thực hành trong buổi sáng 1 giờ để xem lại sự tu tập có đúng không?
Một giới đức có thể dạy nhiều giờ, nhiều ngày, vì mỗi giới đức còn phải áp dụng thực hành vào bốn pháp định của Phật như: ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ, ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC, ĐỊNH VÔ LẬU, ĐỊNH SÁNG SUỐT và TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.
Sau khi các con đứng lớp dạy rồi rút ra được những kinh nghiệm từ sự tu tập của mình và của những tu sinh mới xác định giờ giấc, nhưng đó chỉ là các nhân của con mà thôi, chứ chưa phải họp nhau để rút ra từ những kinh nghiệm của các bạn đồng tu đồng dạy.
Đây là lớp dạy đạo đức nhân bản – nhân quả đầu tiên trên hành tinh này, cho nên sự biên soạn giáo án phải cẩn thận kỹ lưỡng thì khi đứng lớp dạy rất dễ dàng không có khó khăn. Còn tu sinh nào thắc mắc thưa hỏi những điều gì ngoài vấn đề các con đang dạy, thì chỉ cho tu sinh nên đọc lại trong những kinh sách của Thầy viết. Vì trong kinh sách đó đã trả lời rất đầy đủ. Nếu còn không hiểu thì nên viết thư hỏi Thầy, chứ các con không nên trả lời làm mất thời gian lý giải ngoài vấn đề tu tập rất là vô ích.
Thăm và chúc con vui mạnh, nhớ tu tập xả tâm tốt.
Thân thương chào con
(Ngọc Tuyền Sơn 5 – 11- 2006)
Kính gửi: Từ Quang
Một Phật tử Đại Thừa cố ý dùng câu hỏi vấn nạn để làm mất uy tín của Thầy, ngõ hầu để bảo vệ Đại thừa và dìm Phật giáo nguyên thủy một lần nữa, nhóm tu sĩ và cư sĩ trên trang Web thư viện Hoa Sen thuộc Đại thừa và Thiền tông rất đông không phải một người. Các con muốn trả lời thì phải dùng lời nhẹ nhàng, chỉ thẳng vào những pháp môn sai: mê tín, lạc hậu, ảo tưởng hư tưởng, không tưởng v.v...chứ không được chỉ trích những cái sai của cá nhân quý thấy quý cư sĩ.
Theo Thầy thì không nên trả lời chỉ nên im lặng là tốt nhất, vì chúng ta tu hành theo đúng chánh pháp của Phật nên đạt được kết quả là làm chủ được bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết. Đó là một bằng chứng cụ thể không ai có thể phủ nhận việc tu hành của chúng ta là sai được. Theo Thầy thiết nghĩ các nhà Đại thừa họ nói gì mặc họ, nhưng cuối cùng lần lượt họ cũng phải hướng về Chánh pháp của Phật, theo chúng ta tu hành vì kinh sách Đại thừa và Thiền tông không có pháp hành nên họ tu hành không làm chủ được sự sống chết.
Nếu muốn trả lời thì cô Diệu Quang hãy trả lời câu vấn nạn của Hương Trà, Nguyên Thanh trả lời Phật tử Dũng, Phật tử Tâm Niệm; Minh Điền trả lời thầy Chân Quang, Mật Hạnh xác định vị trí tu hành của Thầy, Bác sĩ Trí và Tâm Đức ghi lại lời dạy của Thầy trong băng TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT v.v….
Theo Thầy nghĩ các con nên để thì giờ trả lời thư trên mạng Hoa sen thì tốt hơn là để thì gian đó tu tập có lợi ích hơn nhiều. Tranh luận hơn thua nhau làm gì hãy lo tu tập làm chủ sự sống chết chấm dứt luân hồi mới là trả lời cho các sư thầy và cư sĩ bên Đại thừa và Thiền tông thực tế hơn. Đó là cách trả lời bằng thân giáo.
Hầu hết những bài viết của các con trả lời thư trên mạng rất đúng pháp, mạnh mẽ, dùng những lời chỉ thẳng cho những người cầm bút trong trên Web thư viện Hoa Sen biết rằng tu viện Chơn Như không phải có một mình Thầy Thông Lạc thông hiểu kinh sách Phật giáo nguyên thủy và Đại Thừa mà còn có nhiều người, Nhưng trả lời như vậy không phải là người tu sĩ Phật giáo. Người tu sĩ Phật giáo phải noi gương hạnh của đức Phật ai khen chê phỉ báng mạt sát cũng mặc chỉ im lặng như Thánh, vì tranh luận hơn thua chúng ta cũng như họ. Các con có hiểu chưa?
Bộ sách Đường Về Xứ Phật có nhiều phụ bản của nhiều người nói lên sự tu tập có kết quả tốt và có sự hiểu biết kinh sách nguyên thủy thấu triệt, chứ không như quý sư thầy và phật tử Đại Thừa chẳng hiểu kinh sách Phật cứ dựa vào kiến giải của các Tổ hiểu một cách lệch lạc ý nghĩa những lời Phật dạy, khiến cho con đường tu tập không đi đến đâu cả.
Những bài viết này được đưa vào bộ ĐVXP để xin phép in ấn và phổ biến khắp nơi để mọi người thấy rằng: không phải có một mình Thầy Thông Lạc hiểu biết Phật giáo nguyên thủy mà có nhiều người như trên đã nói.
Lần lượt các con sẽ thấy trong những tập ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT phần phụ bản không phải chỉ có một mình Nguyên Thanh mà còn có rất nhiều người. Những bài viết của tu sinh có lợi ích cho Phật giáo nguyên thủy đều được cho vào phần phụ bản và như vậy người ta mới thấy được sức tu tập cụ thể của tu sinh Chơn Như.
Các con hãy có đôi mắt nhìn việc lớn, chứ đừng nhìn việc nhỏ. Phải thấy xa đừng thấy gần. Lúc này làm việc; ngày nay phải nhận xét sự việc xảy ra ngày mai thì mới làm nên việc lớn. Thầy tin rằng các con là những người thông minh từng lăn lộn trong cuộc đời binh chủng, mà không nhận định được điều này ư!
Bộ sách BẬC BA MINH DẠY LUYỆN TU TỈNH GIÁC và bộ phim NGƯỜI ĐÃ ĐẾN VỚI CHÚNG TA của Từ Quang và Thanh Quang cũng đều đóng góp sức mạnh vào những bộ sách của Thầy, dựng lại chánh pháp của Phật.
“Một cây làm chẳng nên non ba cây dụm lại nên hòn núi cao”, các con không nghe lời Bác Hồ nói sao? Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Sức mạnh của ngòi bút tập thể sẽ là sức mạnh hơn súng đồng đại bác, hơn hỏa tiển, hạt nhân nguyên tử. Các con có thấy không? Bộ ĐVXP là tập trung sức mạnh của mọi người để dựng lại Chánh pháp của Phật, không phải có một mình Thầy mà của Tu Viện Chơn Như, Những câu hỏi của những Phật tử, những câu hỏi của các thầy; những câu trả lời của Thầy và của các con là những viên gạch, những khối đá, những thanh sắt đang xây dựng tòa nhà Phật giáo. Các con có thấy không?
Một mình Bác Hồ không thể đuổi giặc thống nhất đất nước mà nhờ sức đoàn kết của toàn dân. Bây giờ Thầy cũng vậy, một mình Thầy làm được những gì?
Không nên dùng từ quá mạnh phải nhẹ nhàng có chỗ cần nên sửa lại cho thanh lịch, ôn tồn hơn một chút là đủ rồi. Bài viết của Diệu Quang, Bác sĩ Trí, Tâm Đức, Nguyên Thanh, Mật Hạnh, Kim Quang, Mỹ Linh v.v... cũng có một giá trị làm sáng tõ được Phật giáo nguyên thủy ở mọi góc độ.
Thầy Chân Quang cũng là huynh đệ với các con không nên chỉ trích, nói xấu với nhau là không tốt, vì các con là anh em, chị em cùng học chung một Thầy mà nói xấu nhau, là người ta chê cười. Người nào có lỗi là để phần lỗi của họ. Vì đệ tử của Thầy hôm nay xấu ngày mai sẽ tốt. Các con có hiểu không?
Đạo Phật ra đời dạy cho những người khổ đau trở thành những người không đau khổ, cho nên đạo Phật không bỏ một người nào cả. Là con người dưới đôi mắt của Phật giáo, ai cũng là người biết sợ khổ đau, vì thế nên biết sửa đổi, biết cải ác làm thiện để được an vui, nếu không sửa đổi là đau khổ chịu lấy.
Tất cả bài viết của các con trong những tập ĐVXP sẽ được Thầy kiểm tra lại hết. Các con yên tâm khi Thầy cho những bài của các con vào ĐVXP là Thầy đã suy nghĩ kỹ. Thầy không thích làm anh hùng cá nhân, sách của Thầy không được ai chen vào. Thầy chỉ là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng con người của Thầy không còn tham, sân, si.
Thăm và chúc con vui mạnh tu tập xả tâm tốt.
Thân thương chào con
(Ngày 16 tháng 11 năm 2006)
Kính gửi: Từ Quang
Thầy đã nhận được bức thư con đề ngày 16 tháng 11 năm 2006. Thầy rất hoan hỷ chấp nhận con tu tập TỨ NIỆM XỨ, nhưng phải giữ giới hạnh độc cư cho nghiêm chỉnh, vì không nghiêm chỉnh thì sẽ bị ức chế tâm, ức chế tâm thì dễ sinh ra mười tám loại tưởng. Trên Tứ Niệm Xứ xả tâm chưa sạch mà vội tu tập giữ tâm bất động là sai con ạ! Tâm thanh thản, an lạc và vô sự chỉ khi nào sống đúng giới luật đức hạnh thì nó kéo dài trạng thái ấy ra còn dụng công để giữ gìn trạng thái đó là ức chế tâm. Con nên lưu ý
Trong thời gian tu tập trong một buổi là 3 giờ. Ba giờ con nên chia làm hai thời tu tập
· Thời thứ nhất con tu tập Tứ Niệm Xứ một giờ
· Thời thứ hai con tu tập Xả Tâm Vô lượng hai giờ. Có hôn trầm con tu tập Thân Hành Niệm.
Thầy chia thời gian cho con tu tập nhưng tuỳ đặc tướng của con, vì thế con phải linh động thiện xảo, đừng cố chấp một pháp mà chết cứng trong thời gian tu tập hoặc phải tu pháp này như thế này, phải tu pháp kia như thế kia. Tu như thế nào mà thân tâm tỉnh thức, thoải mái dễ chịu, không vọng tưởng lăng xăng, không hôn trầm thùy miên vô ký ngoan không. Con có nhớ lời Phật dạy không? “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy”. Tu mà không cảm thấy thoái mái dễ chịu là tu sai thì nên tu tập sửa lại. Con nên nhớ tu là có kết quả ngay liền, tu mà không có kết quả là tu sai pháp, tu sai pháp thì phải thưa hỏi lại kỹ và tập luyện cho căn bản tu ít tu chậm lại. Sự tu tập không nên vọi vàng, tu tập là phải xem xét từng hành động từng tâm niệm xả tâm và luôn luôn phải nhiệt tâm tinh cần không nên biếng trể.
Chúc con tu tập 6 tháng có nhiều kết quả tốt đẹp.
(Ngày 16 tháng 11 năm 2006)
Kính gửi: Thanh Quang
- Thầy đã nhận được hai bức thư con đề ngày 21 tháng 9 năm 2006 và một bức thư đề ngày 16 tháng 11 năm 2006. Thầy ước mong sao chùa Đông Trang, Ninh Bình xin phép được là một phước duyên rất lớn cho Phật pháp.
- Số điệp phái quy y phật tử Hà Tỉnh con nên cho pháp danh luôn để đỡ cho Thầy quá nhiều công việc.
- Những chặng đường tu tập của người cư sĩ đổi tên lại rất hay: “CON ĐƯỜNG TU THEO CHÁNH PHÁP CỦA NGƯỜI CƯ SĨ” Thầy xin cảm ơn chú Lý.
- Tạo Duyên Hóa Độ Chúng Sinh đoạn người chiến thắng thầy Chân Quang ghi lại. Con bảo chú Lý không có điều gì mà sợ.
- Về phát hành kinh sách thì ý Thầy ấn tống không bán, có ít cho ít, có nhiều cho nhiều. Phát hành kinh sách tìm địa chỉ thư viện 500 huyện, quận toàn quốc, ý kiến con rất hay.
- TẠO DUYÊN HÓA ĐỘ CHÚNG SINH và CON ĐƯỜNG TU THEO CHÁNH PHÁP CỦA NGƯỜI CƯ SĨ được nhà Xuất Bản TÔN GIÁO cấp giấy phép, chỉ cần cho chú Chung biết để liên lạc với nhà Xuất Bản và nhà in. Còn tiền bạc in ấn để sau này chú Chung và cô Liên Châu giải quyết.
* ĐỀ CƯƠNG GIÁO TRÌNH THẬP THIỆN VÀ HÀNH THẬP THIỆN con biên soạn như vầy rất đầy đủ chỉ còn triển khai thành GIÁO ÁN để đứng lớp dạy.
Con nên lưu ý: Đây là CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ CỦA PHẬT GIÁO. Vì thế khi biên soạn thành GIÁO ÁN thì phải nói rõ mỗi đức hạnh nơi thân, nơi miệng, nơi ý. Mỗi nơi thực hiện đức hạnh như thế nào? Nơi thân, thân phải làm gì? Nơi miệng, miệng phải nói gì? Nơi ý, ý phải suy nghĩ gì? Phần lý thuyết và thực hành phải gắn liền với nhau để người được đào tạo đạo đức dễ dàng biết phương pháp thực hành và rèn luyện nhân cách của mình. Thầy tin con sẽ biên soạn được những điều này giúp Thầy.
Thầy của con
(Ngày 16 tháng 11 năm 2006}
Kính gửi: Chơn Thành
Thầy nhận được thư con đề ngày 16 tháng 11 năm 2006 GIÁO TRÌNH THỌ BÁT QUAN TRAI con soạn như vậy, cứ theo đó đứng lớp dạy, nhưng con đơn giản phần nghi lễ chỉ hướng dẫn mọi người đứng dậy chấp tay niệm hồng danh đức BỔN SƯ THÍCH CA ba lần mà thôi, mỗi lần chỉ xá một xá, đừng lạy, vì phòng học có bàn ghế rất bất tiện.
Con sẽ đứng lớp dạy bên nam THỌ BÁT QUAN TRAI, còn giáo án dạy TAM QUY, NGŨ GIỚI Và THẬP THIỆN con biên soạn như vậy chưa ổn, để sau này Thầy hướng dẫn cho.
Phải cố gắng xả tâm bằng lòng yêu thương của mình đối với mọi người rộng lớn như đất trời, như ông Phú Lâu Na. Con đường chứng đạo của Phật giáo là ngay tại đó.
Thăm và chúc các con vui mạnh cùng nhau đoàn kết giúp Thầy trong lúc Tu Viện vươn mình vượt qua những khó khăn để dựng lại nền đạo đức của Phật giáo.
Thân thương chào các con
(Ngày 19 tháng 8 năm 2007)
Kính thưa Linh Mục!
Qua sự giới thiệu của cô Diệu Quang về Linh Mục, chúng tôi rất vui mừng, vì còn có người hiểu được tâm nguyện của chúng tôi. Tâm nguyện của chúng tôi là dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo, đem lại lợi ích lớn cho loài người trên hành tinh này.
Từ lâu chúng tôi chỉ ước mong sao các tôn giáo bạn, các đãng phái chánh trị khắp nơi trên thế giới đều bỏ xuống những giáo điều ngăn cách giữa tôn giáo này và tôn giáo khác; giữa tư tưởng chánh trị này và tư tưởng chánh trị khác, giữa người có tôn giáo và người không tôn giáo, giữa tư tưởng triết học này và triết học khác.
Thưa Linh Mục! Như chúng ta ai cũng biết: con người chỉ là con người cùng sinh ra và lớn lên đều sống trên hành tinh này như nhau cả. Vì thế chúng ta đã có chung một nền đạo đức nhân bản – nhân quả do từ những người sơ cổ đầu tiên có mặt trên trái đất này tạo ra. Xin quý vị đừng hiểu lầm: nền đạo đức này do đức Thích Ca Mâu Ni tự mình sáng tạo ra. Không phải vậy, đức Thích Ca Mâu Ni là người thừa kế và nối tiếp Tổ tiên của loài người dựng lại, khai thị và làm sáng tỏ nền đạo đức, để giúp chúng ta dễ hiểu và dễ nhận ra rõ ràng sự lợi ích rất lớn của nó. Nó xuất phát từ thân, miệng, ý của mỗi người, vì thế nó sẽ giúp cho mọi người cùng sống chung với nhau mà không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh.
Nền đạo đức quý báu như vậy, thế mà mọi người thờ ơ, để cả một thế giới loài người phải chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, từ chiến tranh bộ lạc đến chiến tranh nước lớn hiếp nước bé, rồi chiến thế giới: đại chiến thế giới lần thứ nhất, rồi lần thứ hai biết bao nhiêu sinh mạng con người chết một cách thảm thương, thế mà đến giờ này con người vẫn còn mê ngủ trong ngũ dục lạc, vì vậy chiến tranh chưa chấm dứt, thật là đau lòng. Phải không quý vị?
Nền đạo đức quý báu như vậy mà mọi người thờ ơ, để cả một thế giới loài người phải chịu khổ đau vì tệ nạn xã hội: Tệ nạn trộm cắp, cướp của giết người; tệ nạn mãi dâm, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em; tệ nạn xì ke ma túy, hút chích; tệ nạn rượu chè say xỉn, bạo lực gia đình, cờ gian bạc lận. Nhất là tai nạn giao thông đã cướp biết bao nhiêu sinh mạng của những người thân thương chết một cách đột ngột thê thảm và có còn sống thì thương tật suốt đời thật là đau khổ vô cùng.
Vậy ai là người chịu trách nhiệm này? Chắc không ai dám bảo rằng trách nhiệm này là về phần tôi. Phải vậy không thưa quý vị?
Đó là cái lỗi chung của mỗi người trên hành tinh này chứ không phải lỗi của riêng ai, vì đạo đức của con người thì con người phải tự biên soạn ra đạo đức chứ ngoài con người thì không có ai biên soạn giúp cho con người đâu, chỉ có con người mới hiểu con người. Cho nên Đức Thích Ca Mâu Ni, người cũng chỉ là con người như chúng ta. Người dựa vào những cái có đạo đức của Tổ Tiên mà triển khai và dựng lại bốn chân lí (bốn sự thật). Còn bây giờ chúng ta thì sao? Cũng vậy chúng ta nên dựa vào những gì của Tổ tiên đã có mà triển khai biên soạn thành sách đạo đức để mọi người trong chúng ta cùng học cùng rèn luyện nhân cách. Nhờ đó chiến tranh chấm dứt, tệ nạn xã hội không còn nữa . Đó là chúng ta đem lại sự bình an cho mình, cho loài người.
Kinh sách đạo đức Thầy đang biên soạn nhưng việc xin phép, in ấn, phát hành, biếu tặng, không bán để đạo đức đến với mọi người, thì hoàn toàn nhờ vào mọi người giúp Thầy trong đó có Linh Mục phát tâm làm việc này, thật là một điều vui mừng.
Thầy đang ẩn bóng ẩn danh để có thì giờ biên soạn sách đạo đức nên mọi việc đều giao cho cô Diệu Quang. Vậy ngưỡng mong Linh Mục có khả năng giúp đỡ cô Diệu Quang là Thầy vui mừng.
Cuối thư Thầy xin có lời thăm và chúc Linh Mục dồi dào sức khỏe.
Kính thư
Kính gửi: Tịnh Quang
- Khi tu tập pháp môn niệm Phật ức chế tâm không vọng tưởng thì có 18 loại tưởng xuất hiện nó rất tai hại cho người tu hành chân chánh, vì nó không làm chủ sinh, già, bệnh, chết, và chấm dứt sinh tử luân. Thường những người tu tập theo các pháp tưởng đều có những thần thông tưởng do đó biến họ trở thành những thầy phù thủy, những giáo chủ tà sư ngoại đạo mà các con thường gặp những mẫu chuyện thánh Tăng trong kinh sách Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông v.v…Đó là những người tu hành không đúng chánh pháp của Phật, thường thị hiện thần thông tưởng và tưởng pháp.
- Có những điều tu tập thành thói quen tốt làm lợi ích cho mình cho người; có những điều tu tập thành thói quen xấu dùng thần thông tưởng lừa đảo mọi người; có những điều tu tập thành thói quen nhưng không làm lợi ích cho ai mà cũng không hại ai nhưng lại mất thì giờ vô ích.
- Tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật đều có công đức đó là lời dạy lừa đảo của kinh sách Bà La Môn.
Ngày nào cũng tụng kinh mà sống không đúng giới luật Phật thì làm sao có công đức; ngày nào cũng ngồi thiền mà phá giới phạm giới, ăn uống ngủ nghỉ phi thời, không phòng hộ saú căn thì làm sao có công đức; niệm Phật mà sống như thế gian năm giới không giữ gìn trọn vẹn thì làm sao có công đức.
Giới luật là thiện pháp, là đức hạnh vì thế người sống đúng giới luật thì chuyển được ác nghiệp, do chuyển được ác nghiệp mới không còn đau khổ, không còn đau khổ là công đức. Tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật đều có công đức đó là nói công đức suông trên ngôn ngữ danh từ để lừa người.
- Không nằm giường cao rộng lớn là một giới luật chuẩn bị cho đời sống du Tăng khất sĩ còn các con là cư sĩ trong một tháng chỉ có 1, 2 ngày Thọ Bát Quan Trai Giới cũng tập giống như đời sống như Phật. Đây là sự tập luyện cho nên mới đầu con còn nằm giường cao rộng lớn không sao cả.
-Về miếng đất họ bán đắt lắm chúng ta không nên mua, còn chánh điện muốn tu bổ để Diệu Quang hỏi ý lại Thầy.
Kính lời thăm và chúc cô dồi dào sức khỏe tu tập xả tâm tốt
Kính thư
(Ngày 22 tháng 8 năm 2007)
Kính gửi quý tu sinh trong tu viện Chơn Như!
Kính thưa quý tu sinh! Hôm nay tu viện Chơn Như đã chuyển mình sang một giai đoạn mới nữa, đó là tổ chức Tăng đoàn, Ni đoàn, Nam cư sĩ đoàn và Nữ cư sĩ đoàn Chơn Như. Việc thành lập Giáo đoàn này là để hoàn chỉnh giới luật đức hạnh của mỗi tu sinh trong tu viện, nếu tu sinh nào thấy mình không đủ điều kiện khả năng theo đường lối tu tập của tu viện Chơn Như thì xin quý vị đừng nên gia nhập vào, vì đã gia nhập vào đoàn thể Chơn Như thì phải chấp hành tham gia vào các lớp học NGŨ GIỚI, 10 SA DI, 250 GIỚI TỲ KHEO TĂNG, 348 GIỚI TỲ KHEO NI VÀ TẤT CẢ GIỚI KINH để thực hiện nghiêm chỉnh giới luật đức hạnh và những oai nghi tế hạnh về thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện bằng đức hiếu sinh, đó cũng là để thực hiện cho bằng được những HÀNH ĐỘNG SỐNG KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHÔNG KHỔ NGƯỜI VÀ KHÔNG LÀM KHỔ TẤT CẢ CHÚNG SINH.
Kính thưa quý tu sinh! Lời nói thì dễ nhưng hành động sống đúng đạo đức và tu tập BỐN ĐỊNH của Phật giáo không phải là dễ dàng. Bằng chứng cụ thể tu viện Chơn Như đã thử thách tu sinh để kiểm nghiệm trình độ tu hành và đức hạnh của tu sinh qua nhiều trường lớp:
1- Lớp Thọ Bát Quan Trai.
2- Lớp Chánh Tri Kiến
3- Lớp Chánh Niệm Tỉnh Giác
4- Lớp Định Vô Lậu
5- Lớp Định Sáng Suốt
6- Lớp Định Niệm Hơi Thở
7- Lớp Tứ Niệm Xứ (Bảy tháng tu tập chứng quả A La Hán)
Từ lớp THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI tu tập trong bốn loại định đến LỚP CHÁNH KIẾN ra đời để xác định tu sinh có ly dục ly ác diệt ngã xả tâm đến mức độ nào. Quý tu sinh có biết không?
Qua những trường lớp trắc nghiệm này, Thầy và quý tu sinh đều biết rất rõ trong tu viện không có tu sinh nào đã diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Nhất là những pháp môn tu học Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở quý tu sinh còn chưa biết cách thực hành đúng pháp, vì thế chánh tri kiến giải thoát chỉ mới bắt đầu có chút ít, cho nên tri kiến chấp ngã của quý tu sinh còn quá nhiều nên thường thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình. Điều đáng buồn là tu sinh ở đây không NHIẾP TÂM TỈNH THỨC trong thân hành nội, ngoại để an trú đẩy lui bệnh thì thật là quá tệ, chỉ được vài người có thấm vào đâu.
Vì thế, lớp Chánh Tri Kiến đống cửa, nếu lớp Chánh Tri Kiến còn tiếp tục tu học thì bản ngã của quý tu sinh sẽ vĩ đại và lòng ganh tỵ hơn thua bộc phát giống như học sinh ngoài đời. Cho nên lớp Chánh tri kiến phải đống cửa và lớp bảy tháng tu chứng quả A La Hán ra đời, để tiếp tục kiểm nghiệm chọn người tu chứng quả A La Hán, nhưng sự tu tập nhiếp tâm và an trú tâm trong thân hành nội và thân hành ngoại của tu sinh còn kém lắm, nhất là xét duyệt về giới độc cư phòng hộ sáu căn của quý tu sinh để hộ trì và bảo vệ chân lí thì quý tu sinh đều phạm vào giới thể này rất trầm trọng, gần như phá sạch giới thể.
Sau năm tháng tu tập ở lớp này, Thầy và quý tu sinh ai cũng thấy rõ khả năng của tu sinh không đủ sức tu chứng quả A La Hán, phần nhiều là rơi vào các loại tưởng giải, phá giới hạnh độc cư, nên lớp học chứng quả A La Hán mới tu học được năm tháng phải đống cửa và ngay liền tu viện Chơn Như đã mở những lớp học ĐỨC HẠNH NGŨ GIỚI. Hạ từng cấp tu học của tu sinh xuống lớp thấp nhất, để tu sinh tu học trở lại lớp căn bản của người mới bắt đầu theo Phật giáo.
Như vậy trình độ tu học của tu sinh Chơn Như còn quá kém không thể tu học trên những lớp thiền định cao mà phải trở về tu học những lớp căn bản về giới luật. Qua những đợt xét nghiệm này những tu sinh cũng tự biết mình giới luật đức hạnh chưa nghiêm chỉnh, tâm ly dục ly ác pháp chưa hoàn toàn
Gần một năm tu học giới luật đức hiếu sinh và đức ly tham trong chương trình NGŨ GIỚI, tu sinh có học nhưng sự thực hành áp dụng vào đời sống hằng ngày để ly dục ly ác pháp diệt ngã xả tâm thì quá ít.
Hôm nay, để thể hiện theo nguyện ước của tu sinh tu hành chứng đạo; để dựng lại chánh pháp của Phật; để làm gương sáng soi đường cho mọi người tu tập; để đem lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người, để chấm dứt những tệ nạn xã hội đem lại sự bình an đến với mọi người. Thầy quyết định thành lập Tăng đoàn, Ni đoàn, Nam cư sĩ đoàn và Nữ cư sĩ đoàn Chơn Như để tạo duyên tiến tu giới luật đức hạnh cho hoàn chỉnh hơn và để thực hiện thân giáo đứng lớp dạy đạo đức cho mọi người trong các Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện sắp ra đời, nếu quý tu sinh giới luật đức hạnh không nghiêm chỉnh sẽ bị mời ra khỏi giáo đoàn. Đó là một điều xấu hổ, xin quý tu sinh lượng sức.
Trong một đoàn thể nào cũng vậy, mỗi thành viên đều phải sống có đoàn kết, có lòng thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm của nhau, thì mới làm nên việc lớn, còn chia rẻ nhau, nói xấu li gián nhau, là tự mình tiêu diệt lấy mình và không bao giờ làm nên việc lớn được.
Qua việc thành lập giáo đoàn Chơn Như, quý tu sinh tu viện Chơn Như thì sao? Từ ngày mở lớp học NGŨ GIỚI Thầy rất buồn là thấy quý tu sinh tại tu viện Chơn Như là những người tu hành đức hạnh, giới luật mà không thương nhau, thường chống trái nhau, ganh tỵ hơn thua từng lời ăn tiếng nói, thiếu đoàn kết, gây chia rẻ nội bộ, phe nhóm không có thiện chí giao lưu học tập.
Thầy ước mong sao khi thành lập Tăng đoàn, Ni đoàn, Nam cư sĩ đoàn và Nữ cư sĩ đoàn Chơn Như để mỗi tu sinh trong tu viện gia nhập vào đoàn thể phải thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình. Đó là để thực hiện tự giác khắc phục những oai nghi tế hạnh lỗi lầm của mình; đó là để sống đúng giới luật đức hạnh nghiêm chỉnh hơn; đó cũng là để củng cố lại sự đoàn kết chặc chẽ hơn để làm những công việc lớn hơn vì ích lợi cho mọi người; đó cũng là để thể hiện lòng yêu thương lá lành đùm lá rách gắn bó nhau hơn trên đường rèn nhân cách, đó cũng là để chuẩn bị tu học cho những lớp cao hơn thiền định; đó cũng là thân giáo đem đạo đức nhân bản – nhân quả để phổ biến khắp nơi, giúp mọi người sống không làm khổ mình khổ người.; đó cũng là những hành động cao thượng đem lại lòng yêu thương chan hòa và sự bình an yêu vui hạnh phúc cho loài người.
Hỡi Giáo đoàn Chơn Như! Trong một sứ mệnh thiêng liêng trọng đại không riêng gì của giáo đoàn Chơn Như mà của mọi người phải kê vai gánh vác, vì nhân loại, là đem nền đạo đức nhân bản - nhân quả đến với mọi người. Trên bước đường hoằng hóa đức hạnh nhân bản - nhân quả sắp đến, chúng ta còn gặp biết bao nhiêu chướng ngại, chông gai, khó khăn, gian khổ ở phía trước, nếu chúng ta thiếu tình đoàn kết, thiếu lòng yêu thương và tha thứ những lỗi lầm của nhau thì chúng ta sẽ gặp nhiều thất bại .
“Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, nhưng, chúng ta là những người đã được trang bị những đức hạnh như: đức hiếu sinh, đức ly tham, đức chung thủy, đức thành thật và đức minh mẩn thì còn gì nữa mà ngại núi, e sông. Phải không hỡi quý tu sinh?!
Sau khi hoàn thành giáo đoàn Chơn Như đi vào nề nếp, Những oai nghi tế hạnh hẳn hoi thì Thầy sẽ về thăm và tuyển chọn những tu sinh nào tiêu biểu giới luật đức hạnh, nhất là nhiếp tâm và an trú tâm trong trạng thái tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự, để được sống bên Thầy và được hướng dẫn tu tập Tứ Thần Túc để chứng đạt chân lí. Khi những người chứng đạt chân lý mới làm nồng cốt để dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả và chánh pháp của Phật giáo ở ngày mai.
Sau cùng Thầy kính gửi lời thân thương nhất thăm và chúc toàn thể tu sinh được mạnh khỏe tu tập giới luật đức hạnh ngày một tốt đẹp hơn.
Thân thương chào các con
Dương lịch ngày 26 tháng 8 năm 2007–Âm lịch ngày 15 tháng 7 năm Đinh Hợi
Kính thưa quý tu sinh trong tu viện Chơn Như!
Kính thưa quý vị! Sau những ngày tổ chức Ni đoàn và nữ cư sĩ đoàn Chơn Như, Hôm nay là ngày lễ ra mắt Ni đoàn Chơn Như cũng là ngày làm lễ thế phát xuất gia cho quý cư sĩ đã có đủ duyên lành xin xuất gia; để được chính thứcgia nhập vào Ni đoàn Chơn Như; để đượcthực hiện đời sống Phạm Hạnh cao thượng ba y, một bát như đời sống đức Phật còn tại thế; để được buông xả sạch đời sống thế gian không còn dính mắc vật chất tiền bạc, của cải, tài sản, danh lợi, thương yêu, ghét thù, oán hậnv.v…; để được tiến tới một giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ xả tâm cao hơn; để được làm xứ giả Như Lai đem nền đạo đức nhân bản – nhân quả ban rải cho chúng sinh khắp mọi nơi, làm lợi ích cho quần sinh thì việcxuất gia là một điều cần thiết, vì hình tướng xuất gia là hình tướng Phật, làgương hạnh thân giáo giới luật tinh nghiêm, đức hạnh giải thoát rõ ràng, oai nghi tế hạnh phải được đầy đủ.
Buổi lễ thế phát xuất gia hôm nay tuy không có Thầy, nhưng Thầy luôn luôn ở bên cạnh để trợ giúp chúng ta hoàn thành Ni đoàn Chơn Như sứ giả Như Lai và hướng dẫn chúng ta tu hành đến nơi đến chốn; để chỉ đạo làm gương sáng thân giáo đi hoằng hóa khắp mọi nơi.
Vì trọng trách quá lớn của Ni đoàn Chơn Như nên Diệu Quang xin thay mặt Thầy có vài lời khuyên nhũ:
Hôm nay là ngày lễ xuất gia cũng là ngày ra mắt Ni đoàn Chơn Như như đã nói ở trên. Đó là một ngày lễ rất trọng đại và ấn tượng suốt đời không bao giờ quên cho mỗi tu sinh khi được gia nhập vào Ni đoàn. Vậy mỗi tu sinh khi được chính thức trở thành một tu sinh trong Ni đoàn Chơn Như thì phải sống trọn vẹn với đức hiếu sinh, luôn luôn thực hiện lòng yêu thương và đức tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, thường thấy lỗi mình để thực hiện đức ly tham buông xả tận gốc tham, sân, si, mạn, nghi; để được ly dục ly ác pháp thân tâm vào chánh định bốn thiền, đầy đủ tam minh lục thông, chứng quả A La Hán. Vì thế thân tâm thường sống độc cư, giữ gìn sáu căn nghiêm chỉnh, hộ trì và bảo vệ chân lí nên không thấy lỗi người để tâm được bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Đến đây Diệu Quang xin tuyên bố khai mạc buổi lễ thế phát xuất gia bắt đầu, xin mời cô Trung Liên lên làm chủ lễ.
NamMô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Hôm ngay là ngày 28/8 /2007–Nhằmngày 16/7/ Năm Đinh Hợi
Kính thưa Chánh quyền các cấp tại địa phương!
Kính thưa quý phật tử Hà Nội!
Thầy có lời kính thăm và chúc quý vị dồi dào sức khỏe.
Kính thưa quý vị! Hôm nay quý Phật tử đã câu hữu, vân tập về đây đông đủ để nghe lời huấn từ của Thầy, tuy Thầy ở xa nhưng tiếng nói của Thầy vẫn ở bên quý vị. Quý vị có nghe tiếng nói của Thầy không?
Vậy quý vị hãy lắng nghe lời Thầy khuyên bảo:
Chùa Ngô là một ngôi chùa cổ xưa, do sư cô Đàm Yên làm trụ trì, Người đã đến tận Tu Viện Chơn Như miền Nam huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh thành kính dâng lên cúng dường ngôi chùa này để làm nơi tu học cho quý Phật tử Hà Nội.
Do lòng thành của sư cô và duyên lành đã đến với quý Phật tử Hà Nội, nên Thầy nhận ngôi chùa này để làm nơi sinh hoạt tu tập và rèn luyện nhân cách đúng chánh pháp của Phật giáo, Đó là nơi sinh hoạt tôn giáo mà Nhà nước đã cho phép, có pháp luật văn bản về tôn giáo hẳn hoi.Vì thế, trong buổi họp hôm nayquý Phật tử hãy mời chánh quyền địa phương tham dự vào buổi lễ tiếp nhận ngôi chùa Ngô và Thọ Bát Quan Trai Giới.
Kính thưa quý vị Phật tử có mặt trong buổi họp hôm nay! Phật giáo đã truyền thừa vào đất nước Việt Nam, trước khi truyền sang qua Trung Quốc, trải qua nhiều thời đại Đinh, Lê. Lý, Trần v.v… cho đến ngày nay Phật giáo có một chiều dài lịch sử. Vì thế, sự truyền thừa nền văn hóa đạo đức Phật giáo quá lâu dài như vây nên có những cái đúng, nhưng cũng có những cái sai. Những cái đúng là nền văn hóa đạo đức nhân bản - nhân quả dạy người sống không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ chúng sanh. Còn những cái sai là nền văn hóa mê tín, lạc hậu, chuyên lo cúng bái, cầu siêu, cầu an, cầu phước, cầu tự, xin xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu, dựng vợ gã chồng, cất cửa, xây nhà, xây mồ mả, cúng vong, tiển linh, đốt tiền, vàng mả v.v… Đó là văn hóa làm hao tốn tiền của nhân dân mỗi năm lên đến hằngbạc tỷ.
Hôm nay muốn được Thầy nhận ngôi chùa Ngô để xây dựng thành nơi tu hành và mở mang trường lớp học đạo đức giới luật của Phật giáo thì sư cô trụ trì Đàm Yên đại diện Phật giáo, chánh quyền các cấp và nhân dân tại địa phương này đồng cúng dường cho Thầy đểlàm nơi quý phật tử miền Bắc sinh hoạt tu tập đúng chánh pháp, đúng văn hóa đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người của Phật giáo như trên đã nói thì Thầy chấp nhận, còn ngược lại cúng dường để dùng làm nơi sinh hoạt mê tín, lạc hậu, cầu cúng, xin xăm, bói quẻ v.v….thì Thầy không nhận.
Kính thưa quý Phật tử có mặt trong buổi họp hôm nay! Đây là một ngôi chùa cổ có một chiều dài di tích lịch sử gắn liền với nhân dân và đất nước, dù cơ quan văn hóa Nhà nước có cho phép được xây cất lại, nhưng chúng ta cần phải giữ nguyên hình trạng cổ xưa của ngôi chùa, chỉ có trùng tu lại những chỗ bị hư hao, nhất là không được thay đổi vị trí. Quý phật tử có nhớ chưa?
Còn về sinh hoạt học tập rèn luyện nhân cách đạo đức nhân bản – nhân quả thì chúng ta nên xin phép Chánh quyền địa phương xây cất một phòng học vừa làm nơi Thọ Bát Quan Trai Giới vừa làm lớp học đạo đức và xây cất thêm những chiếc thất nhỏ chỉ đủ cho một người làm nơi tu tập cá nhân. Đó là việc về sau, còn bây giờ thì quý phật tử nên sinh hoạt chung trong ngôi chùa đã có sẵn. không được xây cất gì thêm. Chỉ khi nào xin được giấyphép xây cất, chừng đó Thầy sẽ về thăm và vẽ đồ án trên khu đất chùa để xây dựng cái nào trước, cái nào sau, chứ không được xây cất đại, không theo quy hoạch, làm hao tốn tiền của đàn na thí chủ thì không nên.
Phàm làm một điều gì trước tiên là phải làm đúng pháp luật của Nhà nước vì chúng ta là một công dân trong một nước có độc lập, có chủ quyền hẳn hoi, vì thế quý phật tử phải làm theo đúng pháp luật, không được làm sai.
Hôm nay quý Phật tử Hà Nội có về đây đầy đủ không? Quý Phật tử phải đoàn kết chặc chẽ chị ngã em nâng thì làm việc gì cũng nên. Sức mạnh của đoàn kết thì dời non lấp biển cũng dễ dàng, “một cây làm chẳng nên non ba cây dụm lại nên hòn núi cao”. Còn chia rẻ là chết, quý Phật tử có biết không? Quý phật tử chia rẻ thì không làm nên việc lớn, lại còn vạch lưng cho người khác xem thẹo, nói xấu nhau, nói lời li gián gây chia rẻ, thật là tệ hại. Chúng ta đem đạo đức đến với mọi người, là làm lợi ích chung, chứ đâu có làm lợi ích cho riêng ai. thì chúng ta phải sống sao cho đúng là người có đạo đức nhân bản - nhân quả. Người sống có đạo đức nhân bản - nhân quả thì không được nói xấu nhau. Phải không quý phật tử? Chúng ta làm việc đâu vì danh, vì lợi mà vì lòng yêu thương: thương mình, thương người, thương con cháu của chúng ta nhiều thế hệ mai sau.
Thầy chỉ ước mong sao chùa Ngô sẽ được nhà nước cho phép thành lập nơi tu hành và học đạo đức cho quý Phật tử Hà Nội thì Thầy rất mừng và sẽ đến thăm các con ngay .
Bây giờ Liễu Tâm hãy thay Thầy làm chủ lễ Thọ Bát Quan Trai cho quý phật tử theo nghi thức mà Thầy đã biên soạn trong tập sách “NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG TU HỌC CỦA NGƯỜI CƯ SĨ”. Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay.
Đến đây Thầy gửi lời kính thăm và chúc quý gia đình phật tử mạnh khỏe, tu tập xả tâm tốt, nhất là sống với đức hiếu sinh đầy lòng tha thứ, yêu thương và cuối cùng Thầy cũng xin chúc cho buổi họp mặt Thọ Bát Quan Trai Giới hôm nay tại chùa Ngô của quý Phật tử Hà Nội thành công tốt đẹp.
NamMô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính gửi: Các con thân mến.
Tuy ở xa cách tu viện nhưng với tính hiếu tu, hiếu học đã giúp các con được gần bên Thầy. Thầy đã đọc xong tất cả những bài làm của các con. Các con giỏi lắm, siêng năng, cần mẫn học tập đạo đạo đức để sống biết thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác, để tâm mình được bất động.
Người sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả là người sống thấy lỗi mình, không thấy lỗi người. Còn những người sống thấy lỗi người, là những người đang sống theo vòng nhân quả luân hồi sinh tử. Các con có nhớ chăng?
Các con đang học tập và rèn luyện nhân cách đạo đức theo lớp NGŨ GIỚI tức là các con đang nổ lực quyết tâm vượt thoát ra khỏi vòng tay nhân quả luân hồi đề tiến tới làm chủ sinh, già, bệnh, chết và không làm nô lệ cho nhân quả. Những bài làm của các con đã gửi về cho Thầy là các con đã chứng minh sự nhiệt tâm quyết tu theo con đường giải thoát của Phật giáo.
Thầy sẽ gửi những bài mẫu đã phân đoạn, đáp án và giải trình án để các con xem và sửa lại bài của các con cho đúng, rồi rút ra từ kinh nghiệm của những bài thi này để làm những bài thi khác. Và như vậy các con sẽ làm đúng nhiều hơn. Các con cố nhớ đọc những tập sách Thầy đã biên soạn như: Giáo Án rèn nhân cách đức hiếu sinh tập I, II. Giới đức ly tham tập I, II. Giới đức chung thủy tập I, II v.v…
Càng đọc trí kiến các con càng mở rộng sự hiểu biết đạo đức, nhờ đó tất cả những hành động thân, miệng, ý của các con sẽ không còn làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.
Lần lượt Thầy sẽ gửi sách học đạo đức và những bài thi mẫu cho các con, Thầy chỉ mong sao các con tu tập xả tâm tốt để sống một đời sống như Phật, như Thầy, tâm lúc nào cũng bất động thanh thản, an lạc và vô sự, không ai làm gì động tâm được. Thầy tin rằng các con sẽ làm được không có khó khăn, không có mệt nhọc. Phải cố gắng lên các con ạ!
Một lần nữa, Thầy khen các con là những người học trò chịu khó siêng năng, cần mẫn chăm học, chăm tu, có ngày các con sẽ thành công trong sự nghiệp đi tìm chân lí. Hãy tự thắp đưốc lên mà đi và hãy cố gắng lên để cứu mình ra khỏi nhà sinh tử luân hồi. Các con ạ!
Sau cùng Thầy có lời thăm và chúc các con tu tập xả tâm cho thật tốt, sống đời đạo đức hiếu sinh trọn vẹn.
Thân thương chào các con.
Kính gửi: Các con thân mến! Liễu Châu, Liễu Ngọc, Nguyên Hạnh
Buổi lễ xuất gia của các con, tuy Thầy không có mặt, nhưng Thầy luôn ở bên cạnh các con, giúp đỡ các con. Các con có biết không? Vì giới luật ở đâu là Thầy ở đó, nên các con giữ gìn giới luật là Thầy ở bên cạnh các con. Nhất là đức hiếu sinh các con giữ gìn trọn vẹn, biết thương yêu và tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, biết thấy lỗi mình không thấy lỗi người là các con đã xứng đáng là đệ tử của Phật, của tu viện Chơn Như.
Sau khi xuống tóc xong các con hãy cố gắng tập luyện những oai nghi tế hạnh cho xứng đáng là một tu sĩ của Ni đoàn Chơn Như. Vạn sự khởi đầu nan, mới đầu chưa quen sau sẽ quen dần trở thành nề nếp. Nếp sống người tu khác người đời khác các con ạ!
Người tu sĩ lìa lòng ham muốn để tâm được thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là mục đích cần phải đạt cho bằng được để xứng đáng là đệ tử của Phật.
Thăm và chúc các con vui mạnh tu tập xả tâm tốt.
Thầy của các con
(Có bổ xung thêm)
Kính gửi các con thân thương!
Hỡi các con thân thương! Con đường tu tập đi đến cứu cánh giải thoát của Phật giáo như các con đã biết, “TÂM BẤT ĐỘNG TRƯỚC CÁC ÁC PHÁP VÀ CÁC CẢM THỌ”. Nếu đứng trước các ác pháp mà tâm các con còn bị động thì đứng trước các cảm thọ làm sao các con chịu nổi. Có đúng như vậy không hỡi các con?
Vì thế, “THẤY LỖI MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI” là một phương pháp tuyệt vời của Phật giáo để giữ gìn tâm bất động. Thế sao các con không tu tập như vậy? Mà cứ thấy lỗi người không thấy lỗi mình, lại còn nói xấu người, chê bai, chỉ trích người khác. Vậy ai tốt, ai xấu ở đây? Người thấy lỗi người, nói xấu người là người tốt lắm sao các con?
Trong đời có cái gì thật đâu; có cái gì là của mình đâu. Phải không các con? Toàn là các pháp vô thường. Vậy sao các con còn muốn hơn thiệt, đúng sai phải trái mà không lo tu TÂM BẤT ĐỘNG. Hơn thiệt, đúng sai phải trái để làm gì hỡi các con? Trên đời còn có cái gì để các con giữ gìn nữa đâu. Các con có thấy không? Nếu không phải TÂM BẤT ĐỘNG TRƯỚC CÁC ÁC PHÁP VÀ CÁC CẢM THỌ thì còn cái gì nữa. Nếu không nhờ đức Phật chỉ dạy BỐN CHÂN LÍ thì thế gian này toàn là rổng không và đau khổ. Phải không các con?
Các con có thấy người nào chết còn mang theo được những gì? Hay chỉ còn mang theo những tội ác nghiệp báo? Điều đó chắc chắn các con ạ! Mọi người trên hành tinh này họ đang trang bị cho mình những hành lý tội ác nghiệp báo ấy để đi vào cõi chết. Các con có biết không? Chính các con cũng đang trang bị cho mình những hành lý như vậy. Bởi vì, các con đang thấy lỗi người, không thấy lỗi mình. Các con hãy dừng lại những hành động lỗi lầm này may ra còn có thể cứu chửa kịp, nếu không thì các con đã, đang và sẽ mãi mãi trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi nghiệp báo, tràn đầy khổ đau.
Khi chết đi, tất cả thân ngũ uẩn đều tan rả sạch không còn một uẩn nào hết các con ạ!. Người chết đi chỉ còn từ trường nghiệp lực nhân quả tội ác tương ưng với người hay thú vật mà tái sinh luân hồi, chứ không có linh hồn, thần thức nào cả. Linh hồn, thần thức là ảo tưởng của con người do tưởng uẩn của người còn sống tạo tác ra qua một hình ảnh huyền ảo. Còn người chết thì tan rả, tiêu sạch không còn một vật gì ngay khi tắt thở.
Luật nhân quả rất khít khao không kẻ hở thời gian, khi còn sống tạo tác theo lòng tham muốn (tâm ái dục) trong vòng tay ngũ triền cái tạo ra nhân quả nghiệp báo tội ác thì khi chết đi phải tương ưng tái sinh ngay liền với những người hay những thú vật cũng có tâm tham muốn, cũng trong vòng tay ngũ triền cái tạo ra nhân quả nghiệp báo tội ác như vậy để sinh ra làm người và làm thú vật trả vay nghiệp báo tội ác mà thân trước kia đã làm. Chứ không như kinh sách Đại Thừa dạy: Người chết rồi thần thức chưa đi đầu thai phải lang thang vất vưởng trong vòng 49 ngày. Đây là một loại ảo tưởng mê tín có sách vỡ, kinh doanh tôn giáo, làm tiền tín đồ mê tín nhẹ dạ dễ tin.
Sau khi nhập Tứ Thánh Định, sử dụng mắt Tam Minh, quan sát chẳng thấy có linh hồn, thần thức nào cả; cũng chẳng thấy quỷ, ma, thần, thánh, Ngọc Hoàng, Thượng Đế nào cả; cũng chẳng thấy có Chúa Trời, Chúa Đất, chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thiên nào cả v.v…. mà chỉ thấy những từ trường hình ảnh ác thiện của loài người và muôn thú trong không gian vô tận. Nhất là từ trường tâm bất động của chư Phật, chứ không có đức Phật. Các con nên lưu ý, nếu không thì các con cũng mù quáng mê tín, sống trong ảo tưởng như những người khác.
Người thế gian chỉ vì thấy lỗi người mà phải chịu khổ trăm cay ngàn đắng, còn các con bỏ hết đời vào Tu Viện tu tập để ra khỏi nhà sinh tử mà còn thấy lỗi người, còn hơn thiệt, còn tranh đua, còn kiện tụng, còn nói xấu thầy này, thầy khác. Tất cả các thầy đều là huynh đệ chung trong một nhà, dù họ ở trong bất cứ một hệ phái nào, các thầy không có ai sai cả, chỉ có pháp sai. Pháp sai thì nên chỉnh sửa pháp cho đúng lại, chứ sao nói xấu nhau, vạch lưng cho người khác xem thẹo ư! Việc làm ấy có tôt chăng hỡi các con?
Cuốn sách “Giặc Thầy Chùa” tác giả là người thế gian họ muốn khen chê sao cũng được. Chúng ta cũng không nên bắt chước họ, lối chỉ trích, phê phán nhau như vậy, đó là vì nó mang tính chất bè phái, thiên kiến, chính trị, nói xấu, gây chia nhau v.v...
Người sinh ra trên đời có ai không những phút lầm lạc, nhưng lầm lạc thì cần phải sửa sai, thì đó là một sự chuyển đổi làm cho đời sống tốt lại. Thánh nhân cũng từ phàm phu tội lỗi, nhưng các Ngài biết khắc phục sửa sai mình mà trở thành Thánh nhân, chứ đâu có Thánh nhân sẵn, Thánh nhân có sẵn là Thánh nhân do con người tưởng tượng ra. Đức Khổng Phu Tử còn sai kia mà!
Chúng ta là Phật tử, là tu sinh Chơn Như không nên bắt chước họ nay phê bình người này, mai chỉ trích người khác, nhất là huynh đệ với nhau cùng một thầy, một lò mà ra, sao các con làm như vậy. Các con đã đi sai tông chỉ của Phật giáo. Tông chỉ của Phật giáo là chuyển đổi đời sống thiếu đạo đức của thế gian trở thành đời sống thế gian có đạo đức, chứ không phải chúng ta bỏ đời để đi tu. Đi tu có nghĩa là làm tốt cho đời, làm cho đời thiện lành hơn; làm cho đời có đạo đức v.v… Cho nên đời sống có gì phải bỏ đâu các con? Bỏ đời để tìm đạo là sai, đạo thì ở trong đời, ngoài đời đi tìm đạo không bao giờ có. Phải không các con?
Nghe Thầy nói đến đây các con sẽ hỏi: “Chứ đức Phật Thích Ca Mâu Ni bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con thơ, cha già, mẹ yếu đi vào rừng hoang vắng tu hành sáu năm khổ hạnh. Như vậy không phải bỏ đời sao?
Sao các con lại hiểu đức Phật nông cạn như vậy? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đâu có bỏ đời, Khi đi dạo ra bốn của thành Ngài đã thấy bốn sự đau khổ của loài người quá khổ, nên Ngài từ bỏ những sợi dây trói buộc tạo nhiều đau khổ cho kiếp người, đó là ái kiết sử, danh, lợi, sắc, thực, thùy để vào rừng yên tịnh, một bóng một hình, nhờ đó Ngài tư duy tìm ra một đường lối, một phương pháp làm cho đời không còn khổ đau nữa, tốt đẹp hơn, chứ Ngài có bỏ đời đâu? Các con nghĩ như vậy là các con đã nghĩ sai về đức Phật, các con hãy sám hối đi!
Nếu bảo rằng đức Phật bỏ đời thì hôm nay làm gì chúng ta có bốn chân lí TỨ THÁNH ĐẾ; làm gì chúng ta có nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người; làm gì chúng ta có chương trình giáo dục BÁT CHÁNH ĐẠO đào tạo những bậc A LA HÁN.
Chánh đạo luôn luôn ở trong đời sống của mọi người có đạo đức, chứ đạo đâu có ở ngoài đời. Sống biết thương yêu và tha thứ mọi lỗi lầm của nhau là đạo. Vì thế chúng ta phải hiểu nghĩa cho rõ ràng: bỏ đời sống ác không có nghĩa là bỏ đời. Bỏ đời sống ác là để chuyển đổi làm thay đổi thành đời sống thiện, đời sống có đạo đức. Vậy các con bươi móc chuyện thế gian xấu tốt của nhau thì đạo làm sao có ở trong các con được. Các con có thấy điều này không hỡi các con? Các con làm như vậy có tốt cho các con không? Hay vì các con ganh tỵ, hơn thiệt nhau hay sợ người khác hơn mình? Không sợ người khác hơn mình sao lại nói xấu người khác, để lộ chân tướng phàm phu tham danh, tham quyền, khiến cho người trí thức hiểu biết phải lắt đầu, cho rằng đệ tử của Tu Viện Chơn Như còn tạp khí hơn đời thường. Và như vậy các con theo Thầy tu hành tự làm mất hạt giống giải thoát của Phật giáo. Thật là trái đạo. Thật là không xứng đáng với người tu hành Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi Hỷ, Xả.
Còn thấy lỗi người thì lòng từ bi thương yêu và tha thứ của Phật giáo của các con có còn không?. Điều này các con có biết không? Tất cả các pháp trên thế gian này có pháp nào là con, là của con, là bản ngã của con đâu, hãy chỉ cho Thầy xem đi? Nếu không có pháp nào là con, là của con, là bản ngã của con, tại sao các con lại thấy lỗi người?
Các con có hiểu chăng? Con người là con người NHÂN QUẢ, có con người nào ngoài nhân quả mà có đâu? Rồi các con hãy xem xét xa hơn đến sự sống của muôn loài vạn vật trên hành tinh này, mọi vật đều do nhân quả hợp duyên sinh ra. Vậy có vật nào ngoài nhân quả mà có đâu? Vậy sao các con vô minh cố chấp ôm cứng cái không phải của các con, để chịu khổ, chịu đau muôn đời muôn kiếp trôi lăn trong lục đạo.
Các con đã bỏ đời vô đạo đức, đi tìm đạo để chuyển đời làm cho đời có đạo đức như trên đã nói, tức là đi tìm chỗ tâm không nhân quả. Vậy chỗ tâm không nhân quả là cái gì? Các con có biết không? Đó là chỗ TÂM BẤT ĐỘNG TRƯỚC CÁC ÁC PHÁP VÀ CÁC CẢM THỌ.
Tâm còn động là còn nhân quả, còn nhân quả thì còn tái sinh luân hồi. Các con có hiểu không? Vậy còn thấy lỗi người là tâm các con còn động. Tu theo Phật giáo mà tâm còn động thì dù cho các con có tu trải muôn ngàn kiếp cũng không giải thoát được.
Một phương phương nữa để tu tập tâm bất động. Đó là “TỨ VÔ LƯỢNG TÂM”.
Nói đến Tứ Vô Lượng Tâm là nói đến pháp độc nhất vô nhị của Phật giáo để làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì “ĐỨC HIẾU SINH” là sinh mạng, là sự sống của các con, của người Phật tử, là của tu sinh Chơn Như, nó là đạo quân tiên phong xông vào MẶT TRẬN NHÂN QUẢ để giải quyết sinh tử luân hồi. Nếu các con tu hành mà thiếu ĐỨC HIẾU SINH thì cũng giống như người đi đánh giặc mà không có quân thiện chiến, chỉ toàn là những quân ô hợp thì làm gì thắng trận được.
Nếu ai biết dùng ĐỨC HIẾU SINH trong cuộc sống hằng ngày thì tâm người đó không bao giờ thấy lỗi người, do không thấy lỗi người nên tâm Bất Động. Do tâm bất động là có giải thoát ngay liền. Còn những người thường thấy lỗi người thì đó những người thế gian phàm phu tục tử, dù họ là người tu sĩ nhưng họ không phải là tu sĩ Phật giáo mà họ là những tu sĩ Bà La Môn.
Nếu tu sinh nào tu tập theo Phật giáo Nguyên Thủy mà còn thấy lỗi người, sống thiếu đức hiếu sinh và thiếu đức tha thứ. Chính họ là những tu sĩ của Bà La Môn, họ không xứng đáng vào Giáo Đoàn Chơn Như. Giáo Đoàn Chơn Như gồm có: Tăng đoàn, Nam cư sĩ đoàn, Ni đoàn và Nữ cư sĩ đoàn. Đó là bốn giới đệ tử của Tu Viện Chơn Như
Bây giờ các con học lớp hiếu sinh, không phải chỉ biết đức hiếu sinh mà còn học nhiều hơn nữa, nhưng phải chia ra giờ nào học tu pháp nào cho rõ ràng. Ví dụ: giờ đến lớp học, giờ làm bài ở trong thất, giờ đọc thêm sách trong thư viên của tu viện, giờ ngồi giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự, giờ đi kinh hành chánh niệm tỉnh giác và giờ nhiếp tâm trong hơi thở v.v…
Muốn xem sách thêm nên đọc kỹ những bộ sách: Cảm Nang Phật Giáo Nguyên Thủy, Thiền Căn Bản, Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng tâm, Tứ Bất Họai Tịnh, Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ, Thời Khóa Tu Tập Trong Thời Đức Phật, Tạo Duyên Hóa Độ Chúng Sinh, Đạo Đức Làm Người, Những Lời Gốc Phật Dạy, Văn Hóa Truyền Thống Phật Giáo, Đường Về Xứ Phật, Giáo Án Rèn Nhân Cách v.v…
Nhất là sách chưa có xin phép thì không nên photo, chờ khi nào có giấy phép mới được photo thêm.
Người tu hành chưa xong mà điện thoại di động trong túi thì còn gì tu hành nữa các con? Nên ra đời sống như mọi người thế gian là tốt hơn. Tu sĩ mà có điện thoại di động thì cái tâm của họ là cái chợ.
Tu sĩ còn sợ chết uống thuốc có loài động vật thì còn gì là giới luật Phật. Trên đời này có loại thuốc nào uống vào mà thân chấm dứt bệnh hẳn đâu? Uống hết bệnh này thì lại sinh ra bệnh khác. Bệnh là do nghiệp của nhân quả thiện ác. Các con chưa ra khỏi nhân quả thì thân phải còn bệnh, đó là một sự tất yếu của đời sống con người, một qui luật tự nhiên của nhân quả. Các con có thân không ai trốn tránh khỏi bệnh đâu. Vậy mà sao các con lại sợ bệnh? Muốn không sợ bệnh thì các con nên nhiếp tâm và an trú tâm trong thân hành nội thì bệnh làm gì được các con. Thuốc trường sinh bất tử chỉ là một ảo tưởng của loài người. Vậy mà có người mê muội tin rằng có thật. Thật là vô minh sống trong không tưởng.
Thời gian tuổi đời các con còn ít lắm, khi vô thường đến thì thân này mất khó tìm lại được. Đời khổ lắm hơn thua nhau từng lời nói làm chi, cần phải lặng im như Thánh, giữ gìn tâm bất động để ra khỏi nhà sinh tử, suốt ngày để tâm hết chuyện này tới việc khác như cái chợ, khi chết sẽ mờ mịt và tương ưng tái sinh sẽ đi vào cảnh khổ. Các con nên nhớ những lời dạy này.
Thăm và chúc các con vui mạnh tu tập đừng thấy lỗi người.
Thân thương chào các con.
Kính gửi: các con thân thương.
Hỡi các con thân thương! Đọc tất cả những bài của các con chọn và biên soạn thành GIÁO ÁN RÈN NHÂN CÁCH LỚP NGŨ GIỚI, tuy còn sai sót một đôi chút, nhưng không đáng kể, nhất là GIẢI TRÌNH ĐÁP ÁN, các con giải trình đáp án như vậy chưa đủ. Giải trình như vậy là giải trình đáp án của bài học đạo đức đã chọn. Đó là giải trình đáp án của những bài học trong lớp đạo đức hiếu sinh, chứ đến lớp ly tham thì giải trình như vậy ngắn lắm chưa lột hết ý nghĩa đạo đức bản thân, gia đình và xã hội.
Muốn giải trình một đáp án cho đầy đủ thì các con phải dựa vào ba nơi: bản thân (đạo đức bản thân), gia đình (đạo đức gia đình) và xã hội (đạo đức xã hội) mà triển khai đức hạnh. Triển khai như vậy là triển khai tri kiến giới luật đạo đức để chuyển đổi thân tâm của mình khiến cho cuộc sống vô đạo đức trở thành có đạo đức. Vì thế đức Phật dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật (đức hạnh) ở đó, giới luật (đức hạnh) ở đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”.
Các con càng triển khai tri kiến giới luật đức hạnh thì tâm các con càng thanh tịnh và dễ dàng bất động, cho nên việc biên soạn giáo án là một điều cần thiết giúp tâm các con tu tập bất động. Vậy các con phải cố gắng hơn trên việc biên soạn giáo án. Vì nó là nguồn tri kiến giải thoát vô tận.
Tất cả tu sinh trong Tăng đoàn, Ni đoàn, Nam cư sĩ đoàn và Nữ cư sĩ đoàn Chơn Như còn phải triển khai tri kiến đức hạnh của mình nhiều hơn nữa mới mong có tri kiến giải thoát. Chính nhờ có chánh tri kiến giải thoát mà tâm mới BẤT ĐỘNG TRƯỚC CÁC ÁC PHÁP VÀ CÁC CẢM THỌ”.
Giai đoạn này là giai đoạn học giới luật đức hạnh thì việc triển khai tri kiến giải thoát rất cần thiết cho các con như đã nói ở trên. Vì vậy việc biên soạn Giáo Án là việc cần phải tu học, đó là để xây dựng cho mình có một đời sống đức hạnh Thánh thiện; đó là để đưa mình từ cõi địa ngục lên cõi thiên đàng; đó là để đưa mình từ phàm phu trở thành Thánh nhân; đó là để đưa mình từ cõi ác đến cõi thiện. Vậy tại sao các con không đến lớp học?
Vậy tại sao các con không chịu triển khai tri kiến làm bài biên soạn Giáo Án Rèn Luyện Nhân Cách. Bên nữ các con có những tu sinh giỏi lắm, siêng năng học tập đạo đức, XẢ TÂM RẤT TỐT, KHÔNG THẤY LỖI NGƯỜI và lại còn TINH TẤN BIÊN SOẠN GIÁO ÁN thật đáng khen. Còn bên nam các con có tu học như bên nữ không? Có biên soạn giáo án không? Có học đạo đức và rèn luyện nhân cách như bên nữ không? Thầy đã đọc bài của thầy Chơn Thành và của thầy Thiện Tâm làm bài khá lắm, còn các con thì tu học chơi, tu không cần làm bài, không cần triển khai tri kiến. Vậy kết quả tu học của các con sẽ ra sao? Trong khi có nhiều thì giờ rảnh rang lại vui chơi phí bỏ, thật là uổng. Các con có biết không? Tuổi các con đâu phải còn bé sắp chết đến nơi rồi.
Giai đoạn tu học giới luật đạo đức là giai đoạn TRIỂN KHAI TRI KIẾN GIẢI THOÁT đó là MÔN HỌC CHÍNH, còn những môn học phụ để giúp cho môn học chính thì các con chỉ được tập đi KINH HÀNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC, chỉ NHIẾP TÂM TRONG HƠI THỞ từ đề mục 1, 2, 3 chứ không được tu tập các đề mục khác.
Các con tu học phải đặt trọn vẹn tâm trí, dồn giờ giấc vào môn học chính, còn các môn học phụ lúc nào nghỉ ngơi rảnh rổi tu tập thêm để hộ trợ cho môn học chính và làm nhịp cầu nối tiếp cho giai đoạn thứ hai (Thiền định)
Giai đoạn này không phải là giai đoạn thiền định mà các con ở trong thất tu tập ức chế tâm là sai. Đức hạnh giới luật chưa xong mà tu thiền định là tu thiền định gì? Tu thiền định mà còn ăn uống phi thời, còn ngủ nghỉ phi thời, độc cư còn đi nói chuyện người này người kia, còn thấy lỗi người này, thấy lỗi người khác. Tu thiền như vậy là tà thiền. Tu thiền là phải thực hiện sống nơi thanh vắng, miệng để mốc meo không hề nói một tiếng, một lời, có đâu các con lại kết bè, kết bạn nói chuyện như cái chợ, không thua người thế gian.
Tu thiền là phải có người hướng dẫn, phải trực tiếp với thiện hữu tri thức thiền định, người có kinh nghiệm BỐN THÁNH ĐỊNH, còn người chưa có kinh nghiệm Bốn Thánh Định hướng dẫn sẽ lạc vào tà thiền sinh ra nhiều tưởng giải như các Thiền sư Đông Độ và các vị Tổ sư Đại Thừa để lại một rừng kinh sách, nhưng có ai tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi chưa? Số tiền in các kinh sách không ích lợi này từ xưa đến nay đã làm hao tốn tiền của tín đồ hằng bao nhiêu tỷ tỷ bạc, không sao kể hết. Nó chỉ là một loại kinh sách lý luận mồm mép tranh luận hơn thua ngoài đầu môi chót lưỡi. Nó có hòa nhập vào cuộc sống và có lợi ích thiết thực gì của loài người đâu?
Giáo đoàn Chơn Như ra đời là để chọn những tu sinh nào giới luật nghiêm chỉnh, sống không thấy lỗi người thì mới được nhập thất trong khu vực chuyên tu thiền định. Nam có khu vực riêng cho nam, nữ có khu vực riêng cho nữ. Những tu sinh nào nhập viện chuyên tu thiền định thì được trực tiếp sự hướng dẫn của Thầy. Bên nam do một thầy Giám viện nam, bên nữ do một cô Giám viện nữ, hai vị này phải có đầy đủ đức hạnh hiếu sinh để trực tiếp xem xét từng pháp hành tu tập, từng tâm tư, nguyện vọng, từng trạng thái tu tập, từng thời gian tu tập gặp khó khăn hoặc nhiếp tâm không được hoặc an trú không được của tu sinh, liền báo cáo và xin phép đến gặp Thầy. Khi gặp những trường hợp khó khăn như trên thì Thầy chấp nhận cho gặp và thầy Giám viện hay cô Giám viện đưa tu sinh đến gặp Thầy.
Phải tổ chức phân định rõ ràng trách nhiệm và bổn phận của mỗi người có nhiệm vụ để giữ gìn và bảo vệ chánh pháp của Phật. Nhất là tránh âm mưu phá hoại Phật giáo, tìm nói xấu Phật giáo, nói xấu Thầy, đó là những thủ đoạn làm hoang mang giao động Phật tử. Lẽ ra trong tu viện có sự sai trái thì chúng ta đóng cửa dạy nhau có gì mà phải nói xấu nhau. Chúng ta học đạo đức ái ngữ sao lại không ái ngữ mà lại nói ác ngữ, không nên nói xấu người sao lại nói xấu người. Phải không các con? Nói xấu nhau có lợi ích cho các con đâu hay vạch lưng cho người xem thẹo, người ta có khen các con đâu, các con đang làm trò cười chê cho thiên hạ.
Trong tập sách GIẶC THẦY CHÙA các con có đọc chưa? Tác giả dẫn chứng theo thiên kiến chính trị của mình để đặt tên sách GIẶC THẦY CHÙA. Gán cho tất cả thầy chùa đều làm giặc. Thầy chùa cũng chỉ là một công dân trong một nước, khi đất nước bị giặc ngoại xâm thì nhân dân cả nước đều theo tiếng gọi của non sông Tổ quốc đứng lên chống giặc, dưới sự lãnh đạo của một người yêu nước có tài có đức, thì quý thầy cũng là một người dân trong nước thì phải làm bổn phận công dân, chứ quý thầy đâu có đi cướp nước người khác sao gọi là làm giặc.
Kinh sách Đại Thừa dạy họ cầu cúng, tụng niệm: cầu siêu, cầu an, niệm Phật Di Đà để cầu vãng sanh Cực Lạc; để ức chế tâm không vọng tưởng (niệm Phật nhất tâm), còn dạy lạy hồng danh Phật sám hối để được tiêu tai, giải ách, còn dạy cúng dường tiền bạc xây chùa, đúc chuông, tượng Phật, trai tăng v.v.. để được phước báu. Cho nên quý thấy tu tập niệm Phật, lần chuổi, tứ thời tụng niệm sớm, chiều, tối, khuya chuông, mõ hẳn hoi, họ có làm sai chỗ nào đâu? Điều đáng nói ở đây là họ tu theo giáo pháp của Bà La Môn mà không biết mình đang tu theo giáo pháp của Bà La Môn, họ cứ tưởng mình tu đúng theo chánh pháp của Phật. Họ là những người đang bị thầy Tổ của Bà La Môn lường gạt, họ là những tu sĩ đáng thương đang bị giáo pháp Bà La Môn đưa vào nẽo danh và lợi, nên chùa to Phật lớn như cung đình vua chúa, chỗ ở của quý thầy tiện nghi sang trọng mọc lên như nấm. Cho nên, thầy tổ họ làm sao, sống sao họ làm y như vậy, chứ họ đâu có làm sai thầy tổ họ.
Như vậy rõ ràng tu sĩ Phật giáo Đại thừa hiện giờ là tu sĩ Bà La Môn mang danh Phật giáo, chứ tu sĩ Phật giáo chân chánh giới luật nghiêm chỉnh, không bao giờ sống trong chùa to, Phật lớn, chỉ biết đi xin thực phẩm ngày một bữa ăn để sống, chứ không đi xin tiền bạc, xin đô la.
Trong sách Giặc Thầy Chùa tác giả đứng ở một góc độ khác mà không cảm thông cho họ, họ là những người dân trong một nước đang bị lệ thuộc ngoại ban, thì họ cùng nhân dân cả nước đứng lên đuổi giặc ngoại xâm thì đâu có gì là sai. Nói về đời sống gia đình, họ là những người chịu ảnh hưởng văn hóa của người Trung Hoa theo kiểu Bà La Môn thì việc một vị thầy có vợ con là một điều đáng cho chúng ta cảm thông.
Vì sự truyền thừa giáo pháp của Phật giáo ở nước ta không còn là giáo pháp chân chánh của Phật giáo nữa. Như trên đã nói giáo pháp hiện giờ mà các tu sĩ Phật giáo đang tu học chỉ toàn là giáo lý kiến giải của Bà La Môn Giáo, cho nên các tu sĩ Phật giáo Đại Thừa hiện giờ trong các chùa và đang làm các chức vụ trong hàng giáo phẩm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có vợ, có con là một điều thường không có gì chúng ta phải nói. Họ đâu phải là người theo Phật giáo để tìm tu giải thoát làm chủ sinh tử, họ là những người chạy theo danh lợi trong tôn giáo thì chúng còn chỗ nào để nói họ.
Cho nên cuốn sách GIẶC THẦY CHÙA chỉ phê phán tu sĩ Bà La Môn, chứ đâu có phê phán tu sĩ Phật giáo. Phải không các con?
Vậy chúng ta là những tu sĩ Phật giáo chân chánh thì phải lấy đó làm một bài nhắc nhở và cũng cần phải rút ra nhiều kinh nghiệm để chuẩn bị tổ chức nơi tu học của chúng ta nghiêm chỉnh hẳn hoi hơn, khiến cho người ta không dám coi thường bốn giới đệ tử Phật.
Cuối cùng Thầy có lời thăm và chúc các con tu tập xả tâm tốt sống trọn vẹn đức hiếu sinh.
Kính gửi các con thân thương!
Hỡi các con thân thương! Các con hãy ghi nhớ những lời dạy này:
- Về BĂNG ĐĨA, ÂM THANH CA NHẠC, khi thu âm NHỮNG LỜI DẠY GIỚI LUẬT, ĐỨC HẠNH về đời sống con người hoặc NHỮNG BÀI PHÁP TU TẬP LY DỤC, LY ÁC PHÁP, để DIỆT NGÃ, XẢ TÂM, để NHẬP TỨ THÁNH ĐỊNH, để THỰC HIỆN TAM MINH, LÀM CHỦ SINH TỬ, CHẤM DỨT LUÂN HỒI của Thầy, khi các con sang ra đĩa, băng thì nên giữ nguyên bản, không nên cắt xén thêm bớt; không nên xen hoặc đệm ca nhạc, dù là ca nhạc đạo, vì ca nhạc phát ra âm thanh trầm bổng khiến cho lòng người dễ sinh tình cảm ưa thích, tham đắm, dính mắc. Vì thế giới luật Phật dạy: “KHÔNG NÊN CA HÁT VÀ NGHE CA HÁT”. Cho nên các con chỉ có thể xen đệm âm thanh thiên nhiên như: tiếng chim kêu, tiếng vượn hú, tiếng dế gáy, tiếng ếch nhái hòa tấu, tiếng gió thổi rì rào qua khe lá, tiếng sóng biển ào ào, tiếng gào thét của loài thú đang bị giết v.v….tùy theo bài giảng pháp mà lồng ghép âm thanh cho phù hợp nghĩa của bài kinh. Bởi âm nhạc thiên nhiên rất tự nhiên nhưng nói lên được ý nghĩa cứu cánh giải thoát của Phật pháp. Vì ý nghĩa cứu cánh giải thoát của Phật giáo rất tự nhiên lồng trong không gian và thời gian của mỗi người, không cầu kỳ khó hiểu, không khó khăn tập luyện như Voga, võ công, Tổ sư thiền, thiền xuất hồn, thiền vô vi ông Tư, ông Tám, nhân điện, khí công, dưỡng sinh v.v…Chỉ vì chúng ta hiểu sai Phật giáo, hiểu không đúng pháp của Phật dạy mà lại hiểu Phật pháp theo kiến tưởng giải của các vị Tổ sư Bà La Môn, nên mới thấy tu tập khó khăn. Nếu pháp Phật khó, sao lại có người đến nghe Phật thuyết giảng xong một bài pháp liền CHỨNG PHÁP NHÃN THANH TỊNH rồi xin Phật xuất gia, sống trong giáo đoàn Tăng, không bao lâu liền CHỨNG QUẢ A LA HÁN. Như vậy quả A LA HÁN là kết quả như thế nào mà trong thời đức Phật người tu hành chứng quả rất dễ dàng? Nếu muốn biết phương pháp tu vô lậu chứng quả A LA HÁN này thì phải học những lớp sau đây: Năm lớp Ngũ giới đức hạnh, Mười lớp Thập Thiện nhân quả và lớp Chánh kiến, lớp Chánh tư duy, lớp Chánh ngữ, lớp Chánh nghiệp, lớp Chánh mạng, lớp Chánh tinh tấn, lớp Chánh niệm và lớp Chánh định.
Sau khi học xong các lớp này, hằng ngày các con nhớ sống một mình trong thất, ngồi chơi bình thường hay ngồi bán già hoặc kiết già hay ngồi trên ghế dựa lưng rồi quan sát thân tâm, nhưng phải tỉnh thức từng tâm niệm của mình khi nó khởi lên và đang làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì các con dừng ngay niệm ấy liền bằng phương pháp NHƯ LÝ TÁC Ý để tâm được THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ. Còn ngược lại tâm niệm nào của các con không làm khổ các con, không khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh là các con tư duy, triển khai tâm niệm ấy để được tăng trưởng lớn mạnh, biến ra hành động thân hay miệng để đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho các con, cho mọi người và cho tất cả sự sống muôn loài trên hành tinh này. Cho nên chứng đạo của đạo Phật chỉ có một việc làm như vậy, một việc làm rất tự nhiên nhưng lại tìm thấy giải thoát ngay liền. Giải thoát ngay liền từ ngày này sang ngày khác, không có ngày nào không giải thoát. Nếu thân tâm giải thoát như vậy là các con đã chứng quả A La Hán. Quả A LA HÁN tại chỗ đó, chứ không còn chỗ nào khác nữa. Như vậy chứng quả A LA HÁN đâu phải khó. Phải không các con?
Quả A LA HÁN tu hành không khó, chỉ vì tâm chúng ta còn ham thích dục lạc thế gian; chỉ vì tâm danh, lợi, sắc, thực, thùy chưa chịu dứt bỏ, nên mới thấy chứng quả A LA HÁN là khó khăn. Điều khó khăn nhất hiện nay là trong giới phật tử tu hành theo Phật giáo đều không hiểu đúng nghĩa chánh pháp tu giải thoát của Phật, nên họ chỉ hiểu biết theo kiến tưởng giải của thầy tổ Đại Thừa và kiến tưởng giải của chính họ trong kinh sách.
Phật pháp là đạo đức nhân bản – nhân quả của loài người nên nó rất tự nhiên trong thiên nhiên như vậy thì các con hãy để tự nhiên mà chỉnh sửa từng tâm niệm ác của các con để nó trở thành từng tâm niệm thiện. Chỉnh sửa không có nghĩa là ức chế, bắt ép tâm của các con phải làm như thế này, phải làm như thế kia, mà các con chỉ cần hiểu nó thiện hay ác, có làm khổ mình, khổ người không? Nếu biết nó là ác pháp làm khổ mình khổ người, thì các con tác ý: “Đây là tâm thiếu đạo đức làm người hãy đi! đi! Nghe tác ý như vậy nó liền chấm dứt. Vậy sự tu hành đâu phải khó khăn. Chỉ có sửa đổi tâm các con như vậy mà chứng quả A LA HÁN, thì chứng quả A LA HÁN cũng đâu phải khó. Phải không các con?
Đạo Phật tự nhiên trong thiên nhiên như vậy nên bài thuyết pháp dạy người tu tập cũng rất tự nhiên và đơn giản, Cớ sao các con lồng ghép thêm những lời ca, tiếng nhạc trầm bổng, du dương vào bài thuyết pháp, làm mất đi sự tự nhiên của nó. Mục đích của bài thuyết pháp là để mọi người nghe, hiểu, biết và tu tập cho đúng pháp, để được giải thoát, chứ đâu phải để giải trí, để nghỉ xả hơi mà các con lồng ghép ca nhạc âm thanh vào. Thật là đáng trách! Một việc làm thiếu cân nhắc, thiếu hiểu biết vô tình các con đã phỉ báng Phật pháp, xem thường lời dạy của Phật quá rẻ. Còn các con lồng ghép xen đệm ca nhạc vào bài thuyết pháp của Thầy như vậy với mục đích gì? Các con có biết không? Đó là để lôi cuốn và cám dỗ Phật tử.
Đạo Phật ra đời vì lợi ích cho chúng sinh, nó đem lại sự bình an, yên vui cho mọi người trên hành tinh này, bằng một nền đạo đức nhân bản – nhân quả. Do đó hành động đạo đức nhân bản - nhân quả các con cần phải hiểu rõ, khi đã hiểu rõ rồi thì tự các con phải thắp lên ngọn đuốc đạo đức đó mà đi. Sự tu tập như vậy mới đúng với tinh thần tự lực của đạo Phật. Bởi vậy đạo Phật không có tha lực, không có cầu cúng, cầu nguyện v.v…Vì thế các con phải tự sống không làm khổ mình, khổ người. Đó là chánh pháp của Phật, còn ngoài ra là tà pháp của ngoại đạo.
Đạo Phật ra đời không dụ dỗ và lôi cuốn tín đồ bằng cách ban phước báu cho những ai cúng dường xây chùa, đúc chuông, tạc tượng; cho những ai làm việc từ thiện bố thí thực phẩm, tiền bạc, nhà ở v.v…và cho những ai tụng kinh bái sám cầu siêu, cầu an, lạy hồng danh sám hối.v.v… Ai có duyên đến với đạo Phật thì phải tự mình tu tập, chứ không ai thay thế tu tập cho mình được cả.
Lồng ghép âm thanh ca nhạc vào băng đĩa giảng kinh thuyết pháp, điều này quý thầy bên Đại Thừa và Thiền Tông họ đã làm và thành công rất tốt đẹp, họ đã phổ biến băng đĩa khắp nơi. Bởi họ biết rõ tâm lý Phật tử ưa thích nghe thuyết pháp có ca nhạc như vậy. Với mục đích họ làm như vậy là để lôi cuốn, dụ dỗ và giữ gìn Phật tử, nhờ đó chùa mới có Phật tử đông đảo; chùa mới có cúng dường tiền nhiều. Đó là một phương pháp kinh doanh tôn giáo. Vậy mà các con cũng bắt chước lối kinh doanh tôn giáo đó nữa sao?
Lời dạy của Phật là lời vàng ngọc, nó là đạo đức của con người (nhân bản), nếu ai biết sống đúng thì đem lại sự bình an, yên vui và hạnh phúc cho mình, cho người. Còn người nào sống không đúng đạo đức nhân bản thì họ cũng giống như người thế gian thường tranh đua hơn thiệt, thường lý luận phải trái trắng đen, hay nói xấu người này, nói xấu người kia, thường thấy lỗi người, không thấy lỗi mình, tâm chạy theo tiền bạc, danh vọng, nhà cửa, xe cộ, sắc đẹp v.v…thì tự làm khổ mình, khổ người, cuộc đời của họ đầy đau khổ. Những người này đem đạo đức Phật giáo đến với họ như nước đổ lá khoai, chẳng lợi ích gì dù các con có lồng ghép ca nhạc để lôi cuốn họ cũng chẳng ích lợi gì. Họ tu vì danh, vì lợi, chứ không phải vì cầu giải thoát cho mình, cho người.
Theo Phật giáo chỉ có sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả, không thêm bớt một việc gì vào cuộc sống tu hành, chỉ nên để thuần túy lời giảng dạy bình thường, đơn giản của Thầy là hay nhất. Vậy các con đừng bắt chước băng đĩa Đại Thừa lồng ghép âm thanh ca nhạc trong những bài pháp dạy về giới luật đức hạnh thì phạm tội rất lớn, đó là phá oai nghi tế hạnh trong giới luật Phật là phá giới cấm không nên ca hát nhạc kịch, không nghe ca hát nhạc kịch. Thời nay tu sĩ đều phạm giới luật này.
Các con có biết không? Gốc đau khổ của loài người là LÒNG HAM MUỐN (ái dục), nhưng lời ca tiếng hát âm thanh du dương trầm bổng gợi lên lòng ham muốn. Vì thế, giới luật Phật đã dạy: “KHÔNG NÊN NGHE CA HÁT VÀ TỰ CA HÁT”.
Vì vậy các con xen và đệm ca nhạc vào bài thuyết pháp của Thầy là các con đã đi sai tông chỉ của Phật giáo, làm sai giới luật Phật. Làm sai giới luật Phật là phỉ báng Phật như trên đã nói. Các con có biết không? Tội ấy nặng lắm các con ạ!
Do làm sai của các con ngày hôm nay mà người đời sau sẽ tiếp tục làm sai. Làm sai tức là vi phạm vào giới luật, mà phạm vào giới luật thì tu hành không bao giờ đến nơi đến chốn, chỉ uổng phí cho một đời tu hành. Người Phật tử thiếu oai nghi đức hạnh trong giới luật là diệt Phật giáo. Vì thế, đức Phật dạy: “Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”
Các con có thấy quý thầy Đại thừa không? Do Thầy Tổ của họ tu hành sai phạm giới, phá giới, nên trải qua hơn 2500 năm họ đều tu hành sai, tu không làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Khi tu hành sai thì thầy trò truyền nhau pháp sai, vì thế tu hành chẳng đi đến đâu, uổng phí một đời tu hành, chỉ loanh quanh trong danh lợi tôn giáo, biến họ trở thành những tu sĩ Bà La Môn mà họ không biết. Các con có thấy chăng?
Những gì các con không biết đã làm sai, một phần cũng chính Thầy thiếu sót không nhắc nhở các con ngay từ lúc ban đầu. Nhưng bắt đầu kể từ hôm nay các con nên cố gắng khắc phục sửa lại những chỗ sai, đừng làm sai nữa, những gì đã làm sai thì nên bỏ qua, chứ không thể thu hồi băng đĩa đó lại được, xem như không có gì cả. Các con nên nhớ đừng để chúng ta trở thành những nhà Đại thừa thứ hai, thứ ba nữa.
Thân thương chào các con
Kính gửi: Kim Quang và Kim Tiên
Khi các con về Tu Viện thì không gặp được Thầy, nhưng chắc các con đều thông suốt giáo pháp xả tâm ly dục, ly ác pháp của Phật, mà không còn bị lầm lạc rơi vào những pháp ức chế thân tâm của các Tổ sư tưởng giải tu hành, nên Thầy không lo cho các con lắm. Vì các con đã từng gặp các pháp môn này ở các trường thiền của Phật giáo phát triển từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông.
Thầy xin có lời khuyên nhắc các con: tu hành theo Phật giáo chỉ có xả tâm bằng tri kiến, vì thế, phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì xả tâm mới không bị ức chế. Các con đừng xem thường giới luật mà hãy xem giới luật là mạng sống của các con thì sư tu tập mới dễ dàng chứng đạo.
Như các con đã hiểu, muốn chứng đạo tức là chứng đạt chân lí thì phải giác ngộ chân lí, giác ngộ chân lí là phải hiểu biết rõ chân lí. Có hiểu biết rõ chân lí mới hộ trì và bảo vệ được chân lí; có hộ trì và bảo vệ được chân lí mới chứng nhập vào chân lí tức là chứng đạo.
Vậy, hiện giờ các con có ngộ được chân lí hay chưa ?
Chân lí là một trạng thái tâm bất động, là tâm thanh thản, an lạc và vô sự, là tâm ly dục li ác pháp, là tâm không phóng dật, là tâm không có ba lậu hoặc: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, là tri kiến giải thoát, là tâm định trên thân, là tâm trên thân quán thân v.v… trong những tên gọi trên đây là chỉ cho trạng thái chân lí. Vậy trong các danh từ này các con có nhận tâm mình ở trạng thái chân lí này chưa? Nếu chưa thì phải thân cận bậc thiện hữu tri thức, những người chứng đạo họ sẽ chỉ và sẽ khai ngộ cho.
Nếu nhận được rồi thì sự tu tập của các con không còn khó khăn, mệt nhọc, chỉ ngồi chơi mà đuổi các chướng ngại pháp; chỉ ngồi chơi mà bảo vệ và hộ trì chân lí, khi nào chướng ngại pháp không còn tác động vào thân tâm thì chân lí hiện tiền trong cuộc sống của các con hằng ngày. Lúc bấy giờ là các con đã chứng đạo.
Đây, các con hãy đọc lại đoạn kinh này trong kinh Trường Bộ thì sẽ rõ sự chứng đạo của Phật giáo không phải khó khăn, mà mọi người ai cũng có thể nhận thấy sự chứng đạo rõ ràng qua tri kiến của mình. Đoạn kinh dạy:
“Tôn giả Xá Lợi Phất đến tại chỗ Thế Tôn, đãnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng: “Ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa Môn, một Bà La Môn nào có thể vĩđại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện Chánh Giác.
Do lời tuyên bố đức Phật vĩ đại mạnh mẽ như vậy nên đức Phật gạn hỏi:
- Có phải ông dùng THA TÂM THÔNG để biết về quá khứ, vị lai và hiện tại của tất cả các bậc tu hành có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh túc như vậy và có giải thoát như vậy mà cả gan rống lên tiếng rống sư tử như vậy không ?
Ông Xá Lợi Phất nói : Bạch Thế Tôn, không ?
Do đó đức Phật bảo: “Này Xá Lợi Phất như vậy Ngươi không có tha tâm thông đối với các vị ỨngCúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, vị lai và hiện tại. Như vậy, này Xá Lợi Phất, vì sao Ngươi lại thốt ra những lời đại ngôn, lời nói gan dạ, rống lên tiếng rống của con sư tử?
Khi được hỏi như vậy, ông Xá Lợi Phất trả lời: “Bạch Thế Tôn, con không có tha tâm thông... Chỉ vì, con biết truyền thống về chánh pháp. Bạch Thế Tôn tất cả các vị A La Hán Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, tương lai và hiện tại đã diệt trừ Năm Triền Cái, những nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yếu ớt không còn dục, đã an trú tâm vàoBốn Niệm Xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác Chi, đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác” (kinh Đại Bát Niết Bàn trang 558 thuộc kinh Trường Bộ tập I )
Đọc đoạn kinh này các con lưu ý: ông Xá Lợi Phất nhận xét thấy sự chứng đạo của đức Phật bằng ý thức tri kiến của mình, của một người bình thường. Ông hiểu biết Phật qua ý thức sự nhận xét, nên tin tưởng đức Phật là một người sáng suốt về phương diện chánh giác vĩ đại hơn bất cứ một Sa Môn nào, Bà La Môn nào ở mọi thời quá khứ, vị lai và hiện tại, nghĩa là suốt thời gian quá khứ, vị lai và hiện tại từ khi có Trời đất và loài người thì không có một người nào tu chứng trí tuệ hiểu biết vĩ đại như đức Phật.
Cũng đoạn kinh trên đây chúng ta nhận thấy một người tu chứng không phải căn cứ vào thần thông mà căn cứ vào chỗ Năm Triền Cái tham, sân, si, mạn, nghi và tâm không còn dục nhiễm (giới), kế đó tâm đã an trú vào Bốn Niệm Xứ, đã chân chánh có Bảy Giác Chi (định), đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác (tuệ). Đây là giới, đây là định, đây là tuệ rõ ràng cụ thể không có một người nào dám phủ nhận nói sai được.
Nhưng đoạn kinh dưới đây cũng trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc kinh Trường Bộ tập I trang 559 kết tập sai do tri kiến học giả của các Tổ không có công phu tu chứng đạt chân lí nên kết tập không đúng. Các con đọc mà suy ngẫm.
“Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu vô minh lậu(kinh đại Bát Niết Bàn trang 559 thuộc kinh Trường Bộ tập 1). Đoạn kinh có 2 chỗ sai:
Câu thứ nhất “ĐỊNH cùng tu với GIỚI” là sai, thường kinh dạy Giới sanh Định thế mà đoạn kinh này dạy Định cùng tu với Giới. Vậy Định chưa có lấy gì cùng tu với Giới. Vậy xin các bạn suy ngẫm lại đoạn kinh này đúng hay sai? Cho nên đức Phật bảo: “Đừng tin vào kinh tạng” là vậy.
Câu thứ hai TUỆ cùng tu với ĐỊNH câu này cũng sai, Theo Phật dạy thì ĐỊNH sanh TUỆ. Vậy chưa có tuệ, mà lấy tuệ tu định. Vậy xin các bạn cũng suy ngẫm câu kinh này có phải Phật thuyết không hay các Tổ thuyết? Điều này để cho người tu chứng sẽ trả lời. Phải không các con?
Theo kinh nghiệm tu hành của Thầy, ở câu kinh này phải hiểu cho rõ ràng là lấy TÂM tu GIỚI, là lấy TÂM tu ĐỊNH, là lấy TÂM tu TUỆ. Đó là đúng nghĩa theo lời Phật dạy. Vì Phật dạy: “Hãy tin những gì là thiện mang đến kết quả giải thoát cho mình cho người”.
Cho nên, khi lấy tâm tu giới là có kết quả ngay liền. Kết quả ngay liền tức là giới luật nghiêm túc không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật. Không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật tức là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là tâm an trú trên Tứ Niệm Xứ, Tâm an trú trên Tứ Niệm Xứ là định, khi tâm an trú trong định là tâm có tri kiến giải thoát và tuệ Tam Minh.
Cho nên muốn xét người tu chứng là nên xét ở GIỚI LUẬT, ở sự an trú trên TỨ NIỆM XỨ và ở TRÍ TUỆ TRI KIẾN GIẢI THOÁT chứ không nên xét qua THẦN THÔNG hay ngồi thiền năm, bảy ngày, một tháng hoặc hai, ba tháng.
Cho nên trong khi tu tập phải giữ trọn vẹn giới ăn, ngủ, độc cư cho nghiêm chỉnh và những giới nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, nhờ giữ gìn những giới luật đó nên mới xả tâm được rất ráo. Các con hãy đọc kỹ những lời dạy trên đây để tu tập không bị ức chế tâm khi Thầy vắng mặt tại Tu Viện. Thầy đang lo cho các con có một cơ sở mới nữa, nếu đủ duyên.
Hiện nay các con tu tập có ba phần:
1- Giữ gìn nghiêm chỉnh hạnh ĐỘC CƯ, không được vi phạm những lỗi nhỏ nhặt trong đó.
2- Ngồi chơi xả chướng ngại của tâm, của thân, bằng pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý, bằng TRI KIẾN, bằng ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ, bằng THÂN HÀNH NIỆM.
3- Phải để tự nhiên tâm AN TRÚ TRÊN TỨ NIỆM XỨ.
Các con hãy cứ tu tập như vậy khi nào BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI xuất hiện đủ là tu tập xong.
Tu hành theo Phật giáo các con đừng nghĩ đến và cầu mong TAM MINH, LỤC THÔNG mà chỉ ước nguyện tu hành sao có được sức làm chủ bốn chỗ đau khổ: sinh, già, bệnh, chết và biết nơi chốn sau khi chết các con sẽ về đó.
Trong cuộc sống hằng ngày mà các con đã làm chủ được bốn sự đau khổ, nhất là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm tạo thì hạnh phúc biết baọ. Phải không các con?
Nếu các con đủ lòng tin nơi Phật, nơi Thầy thì sự chứng đạo không còn bao lâu nữa. Vì những pháp hành trên đây là những pháp gạn lọc tâm rốt ráo để sớm đạt được tâm thanh tịnh chân thật để nhập vào chân lí mà những người tu chứng đều phải trải qua.
Thăm và chúc các con tu tập tốt, nhớ đừng tu tập ức chế tâm bằng mọi hình thức, bằng mọi pháp môn ức chế thân tâm rất nguy hiểm cho cuộc đời tu hành.
Thân thương chào các con
(Ngày 11-11-2007)
Kính gửi: Tuệ Hạnh
Con hãy lắng nghe cho kỹ Thầy sẽ trả lời những câu hỏi của con. Những kiến giải con viết ra chỉ là lý thuyết suông không có kinh nghiệm của sự thực tu, thực chứng, cho nên nó làm lệch nghĩa lý của Phật. Vì thế con đừng viết nữa, hằng ngày hãy lo xả các ác pháp, giữ tâm bất động thanh thản an vui và vô sự, đừng nên đem vào …mà phí thời gian vô ích. Hãy lo cứu mình đừng lo chuyện người; hãy thấy lỗi mình đừng nên thấy lỗi người …
I-Hỏi: Hòa Thượng Minh Châu dịch giảng: “Người chứng quả A La Hán, nếu vì bất cứ một lý do nào là lập tức quả vị A La Hán mất đi, không thể nào thực hiện được Tam Minh.” Điều này đúng hay sai? Con không hiểu tại sao chứng quả rồi lại mất?
- Đáp: A La Hán nghĩa là gì? Con có biết không? A La Hán là VÔ LẬU có nghĩa là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, như vậy còn có một pháp gì, mộtlý do gì làm mất quả A La Hán (Vô lậu) được. Người tu chưa chứng quả A La hán làm sao hiểu quả A La Hán mà dịch giảng làm sao đúng được. Hòa Thượng Minh Châu chỉ dựa vào kinh Trung A Hàm Hán tạng do các tổ Đại thừa thuộc hệ phái Bà La Môn tìm cách diệt giáo lý Phật giáo tức là chia quả A La Hán thành nhiều quả A La Hán để hạ giáo pháp chân chánh của Phật xuống hàng Tiểu thừa. Con có biết không? Một người đã tu chứng quả A La Hán thì không bao giờ mất. Vì quả đó gọi là quả BẤT LAI
Con có nghe bốn quả Thánh của Phật giáo không?
1- Quả TU ĐÀ HOÀN tức là Nhập Lưu Thánh quả.
2- Quả TƯ ĐÀ HÀM tức là Nhất Lai Thánh Quả.
3- Quả A NA HÀM tức làThất Lai Thánh Quả.
4- Quả A LA HÁN tức là Bất Lai Thánh Quả.
Người tu chứng quả A La Hán thì không còn bất cứ một lý do gì làm mất quả A La Hán được. Cho nên kinh Trung A Hàm là kinh nguyên thủy do các tổ Đại thừa biên soạn với mục đích là loại bỏ giáo lý của Phật, để biến những lời dạy nguyên thủy của Phật trở thành những lời dạy của ngoại đạo.
II-Hỏi: Cũng trong quyển sách này có phân chia ra làm 9 loại A La Hán. Trong đó có vị A La Hán “lợi căn” và vị A La Hán “độn căn”
- Điều này đúng hay sai thưa Thầy?
- Có mấy loại A La Hán?
- Thế nào là A La Hán lợi căn và thế nào là Ala Hán độn căn?
Xin Thầy giảng rõ để con khỏi hoang mang tư tưởng.
- Đáp: 1- Điều này không đúng, vì A La Hán là người đã bất động tâm nên thân tâm thanh tịnh, làm chủ sự sống chết, chấm dứt sinh tử luân hồi, đầy đủ Tứ Thần Túc, Tam Minh Lục Thông thì không thể nào gọi là độn căn, lợi căn mà gọi họ là siêu căn, vì họ thông suốt tam giới, không có điều gì họ không hiểu. Phật hiểu như thế nào thì họ hiểu như thế nấy.
2- Ở đây không có 9 loại A La Hán mà chỉ có hai loại A La Hán:
a- A La Hán ĐỘC GIÁC như đức Phật
b- A La Hán THANH VĂN như các đệ tử của đức Phật.
3- A La Hán lợi căn có nghĩa là A La Hán LANH LỢI; A La Hán độn căn có nghĩa là A La Hán NGU NGỐC. Hai quả A La Hán này do các nhà Đại Thừa bịa đặt ra để lừa gạt Phật tử.
III-Hỏi: Có trường hợp nào một người chứng quả A La Hán đắc thần thông mà không thực hiện Tam Minh không?
- Đáp: Chỉ có ngoại đạo đắc thần thông tưởng mới không thực hiện được Tam Minh, chứ người chứng quả A La Hán đều có đủ Tam Minh Lục Thông thì làm sao bảo rằng không thực hiện được Tam Minh?
IV- Hỏi: Trong sách “Diễn Đàn Chơn Như 5” có bài viết của Nguyên Thanh cô tự xưng mình là “Diệt Đế” và đã chứng đạo. Điều này không đúng. Tại sao Thầy lại cho đăng lên sách vỡ?
- Đáp: Diễn Đàn Chơn Như tập 5 không có đoạn nào Nguyên Thanh tự xưng mình “Diệt Đế” đã chứng đạo mà chỉ thưa hỏi Thầy tu tập Thất Giác Chi trên Tứ Niệm Xứ để phá các loại tưởng. Như vậy câu nói này ở đâu con lấy ra. Vì Diễn Đàn Chơn Như tập 5 còn lưu lại trong máy vi tính của Thầy không có đoạn này, nếu có ai thêm vào trong bài của Nguyên Thanh ở tập DĐCN tập 5 thì con hãy gửi tập sách đó về cho Thầy để xét ai là thủ phạm phá hoại Phật pháp dám thêm thắt vào sách của Chơn Như. Nếu như trong sách của Thầy có những câu nói sai về Phật pháp nguyên thủy rồi cũng cho đó là Thầy viết sao? Cho nên sách của tu viện Chơn Như đều lưu lại trong máy tính, nếu có một câu nào sai trong sách là biết ngay có người thêm vào, đó là mục đích phá hoại sách của tu viện Chơn Như.
Một lần nữa con nhớ hãy gửi DĐCN tập 5 cho Thầy. Sách này của con hay của ai? Cho Thầy biết tên họ của người có tập sách này.
V-Hỏi: Trên bước đường Thầy đào tạo A La Hán, nếu trong đời này không có người nào tu chứng quả A La Hán thì chánh pháp sẽ ra sao, khi Thầy viên tịch? Chẳng lẽ bộ sách “Giới luật” Thầy viết hoàn tất, bộ sách đó chính là A La Hán?
- Đáp: Thầy ra công dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo nguyên thủy để giúp cho loài người sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người, nhờ đó con người mới được bình an sống trên hành tinh này. Còn nếu mọi người sống được đạo đức hay không là còn tùy ở sự quyết tâm của họ, chứ Thầy không có quyền bắt buộc ai cả. Chỉ ai muốn an vui hạnh phúc thân tâm được giải thoát thì phải sống đúng đạo đức mà Thầy đã dựng lại.
Còn về phần tu tập chứng quả A La Hán Thầy cũng vạch cho họ đường đi nước bước rất rõ ràng, qua những kinh sách Thầy đã viết và những bức tâm thư Thầy gửi cho mọi người trong nước cũng như ở nước ngoài là đủ sức cho họ tu tập chứng quả A La Hán. Tóm lại muốn chứng quả A La Hán làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi và có đầy đủ Tam Minh, Lục Thông thì tu tập không được nhiếp tâm ỨC CHẾ Ý THỨC diệt trừ vọng tưởng. Vì ức chế ý thức là tu tập sai pháp thiền định của Phật giáo. Hiểu rõ được điều này thì người nào tu tập cũng đều chứng quả A La Hán dễ dàng, chứ không phải chỉ những người có thượng căn, lợi căn mới tu tập được, còn những người trung, hạ và độn căn thì tu tập chẳng được. Ở đây không cần thượng, lợi, trung, hạ và độn căn mà chỉ có NHIỆT TÂM biết sống đúng giới luật đức hạnh, biết xả sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì người nào cũng luyện tập Tứ Thần Túc được dễ dàng. Cho nên chứng quả A La Hán là do các con, do phước báu của chúng sinh, chứ không phải do Thầy. Phật giáo còn hay mất không phải Thầy, Thầy không có trách nhiệm bảo vệ nó mà trách nhiệm bảo vệ nó là các con và chúng sinh. Vì đó là quyền lợi của các con, của chúng sinh, chứ Thầy chẳng có quyền lợi gì trong đó nữa vì Thầy đã tu xong. Chỉ vì thương xót các con và chúng sinh mà Thầy ra công dựng lại giáo pháp chân chánh của Phật để giúp cho các con và chúng sinh mà thôi, còn chánh pháp này mất hay còn là do các con và chúng sinh.
Tu hành theo Phật giáo mà còn nói xấu người, thậm chí nói xấu Thầy dạy mình thì còn đạo lý gì mà tu tập chứng quả A La Hán. Rất đáng trách cho những người học trò vong ân bạc nghĩa. Vì thế mà Thầy đã từng nhắc nhở đệ tử của mình:
“Những buổi chiều tà mưa phủ trắng
Thầy cười tha thứ kẽ vong ân…”
Đúng vậy, bộ sách “GIỚI LUẬT” đó chính là A La Hán. Nếu không có bộ kinh Nikaya của Phật là A La Hán thì ngày nay sẽ có Thầy chứng quả làm chủ sinh tử luân hồi được không?
VI- Hỏi: Người đã chứng quả ALAHán còn nhân quả với chúng sanh không? Xin Thầy giảng cho con rõ vấn đề này.
- Đáp: Người tu chứng quả A La Hán còn nhân quả với chúng sanh trong hiện tại, chứ tương lai thì chấm dứt.
Người đã chứng quả A La Hán cũng do cha mẹ sinh ra, cũng có dòng họ anh em chị em ruột thịt, cũng có cô bác ông bà tổ tiên nhiều đời chứ không phải một đời này, cho nên họ ghi lại những kinh nghiệm tu tập của họ thành sách để lại cho đời là vì họ đền đáp công ơn của những người này, vì thế họ còn nhân quả trong một kiếp hiện tại này mà thôi. Khi trả nhân quả xong là họ ra đi vĩnh viễn không trở lui trạng thái này nữa. Cũng như Phật khi dạy hết pháp thì nhập Niết bàn, Thầy cũng vậy khi biên soạn bộ sách GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH xong thì Thầy xin vĩnh biệt từ giả các con.
VII- Hỏi: Có lần con nghe một vị sư bên Nam tông nói: người tu lọt vô trạng thái tưởng tức là lọt vô bát quái trận đồ. Không thể nào thóat ra để hướng tới Tam Minh được. Điều này đúng hay sai thưa Thầy? Mong Thầy giải để con rõ chỗ này. Bát quái trận đồ nghĩa là gì ?
- Đáp: Bát quái đồ trận là một trận đồ do các tướng của Trung Quốc ngày xưa lập ra để ngăn ngừa giặc xâm chiếm thành trì. Bát quái trận gồm có tám cửa vào: 1 Càn; 2- Khảm; 3- Cấn; 4- Chấn; 5- Tốn; 6- Ly; 7- Khôn; 8- Đoài.
Người tu tập thiền định sai pháp lọt vào thiền tưởng thì không thực hiện được Tam Minh đúng vậy. Cho nên người tu theo Đại thừa, Thiền tông Mật tông, Tịnh độ tông, thiền yoga, thiền vô vi, thiền xuất hồn v.v… không thể nào chứng quả A La Hán và thực hiện được Tam Minh.
VIII- Hỏi: Con muốn quay về tu học nhưng tu viện cứ gặp sóng gió hoài, huynh đệ chống trái nhau mãi. Muốn nhập thất độc cư cũng không yên ổn. Thầy phải đi ẩn bóng vậy con phải làm sao đây ? chẳng lẽ trong kiếp này con khôngđủ phước duyên tu xuất gia với Thầy. Kính xin Thầy hãy trợ duyên giúp con để con sớm quay về với đạo. Vì hiện nay con thấy Từ Chơn sắp lập gia đình, Nguyệt Cảo và Diệu Hiền thì không còn ý chí tu nữa. Nếu quay về với đạo con nhập thất tu chứ không thể nào mặt áo tu mà ra vô mãi thế này được, mất uy tín với Phật tử thành phố xin Thầy độ con .
- Đáp: Tu viện hôm nay không còn sóng gió, những huynh đệ chống đối nói xấu nhau đã đi sạch hết rồi, chỉ còn lại những tu sinh đều xin gia nhập vào Giáo Đoàn Chơn Như, tu học xả tâm rất tốt. Cho nên các lớp học đạo đức xả tâm ly dục ly ác pháp đang tiếp tục học đều đều, Tu Viện hiện nay không có lớp nhập thất tu tập thiền định như xưa nữa.
Từ Chơn, Nguyệt Cảo, Diệu Hiền v.v…đó là những người không có duyên với chánh pháp của Phật, họ tu là họ nhờ, không tu lập gia đình thì mới biết đời là khổ, là nước mắt nhiều hơn nước biển. Thầy không giúp gì cho các con được. Con đường giải thoát đó các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Thầy chỉ mở các lớp học giới luật đức hạnh để giúp cho các con tu học xả tâm ly dục ly ác pháp, còn các con không học thì đành chịu. Việc thành lập khu an dưỡng là giúp cho mọi người có duyên theo tu học đạo đức để sống không làm khổ mình khổ người, để gia đình được bình an và xã hội có trật tự an ninh.
Các con học giới luật đức hạnh xong, sau này Thầy chọn những người tâm thanh tịnh giới luật hướng dẫn họ tu tập Tứ Thần Túc để họ làm chủ sinh, tử và chấm dứt tái sinh luân hồi.
IX- Hỏi: Con nghe mấy sư bên Đại thừa nói: “Có thực mới vực được đạo” câu này có nghĩa là gì ?
- Đáp: Câu này là lời nói che đậy sự ăn uống phi thời của các nhà sư phá giới, các con không nên bàn đến họ, không nên đụng chạm đến các nhà sư này, vì họ là những người đáng thương, đi tu không có duyên với chánh pháp của Phật nên mới nói ra những lời đầy THAM DỤC như vậy.
Đời là biển khổ, là lưới rọ, là cạm bẫy v.v… nếu ai khôn ngoan thì hãy tìm đường thoát ra, còn ai ngu si dại khờ đắm đuối ham mê thì trôi lăn theo dòng nước đục nhân quả nghiệp báo muôn đời muôn kiếp gánh chịu khổ đau đừng than thân, đừng trách phận, đừng kêu trời, kêu đất. Chúc con sớm thức tỉnh quay về đường giải thoát.
Thân thương chào con
(Ngày 22 tháng 8 năm 2007)
Kính gửi: Linh Mục Nguyễn Văn Thiện
Kính thưa Linh Mục! Tệ nạn xã hội là một nỗi đau đầu của các cấp lãnh đạo mà cũng là một nỗi đau thương của toàn dân trong nước. Trong những buổi họp Mặt Trận Tổ Quốc xã, huyện, tỉnh chúng tôi đều được nghe Chánh quyền các cấp báo cáo nhắc đi nhắc lại nhiều lần ba giảm, bốn giảm những tệ nạn xã hội, nhưng nào có thấy giảm những gì? Vì tin tức điện đài và báo chí loan tin hằng ngày: Tai nạn giao thông đã cướp đi bao nhiêu sinh mạnh con người, tài sản và của cải hư hao; tệ nạn mãi dâm đã làm mất giá trị danh dự của người phụ nữ Việt Nam; tệ nạn hiếp dâm trẻ em để lại một hậu quả rất đau lòng cho các cháu tuổi còn thơ ngây; tệ nạn bạo lực gia đình đã gây thương tích sống dở chết dở cho biết bao chị em phụ nữ, làm cho biết bao gia đình tan nát, vợ chồng li dị, con theo cha mất mẹ, con theo mẹ mất cha, thật là đau lòng, xót dạ; tệ nạn trộm cắp, cướp của, cướp xe, giết người, nhất là giữa ban ngày bọn cướp dùng súng uy hiếp cướp các tiệm vàng gây bao hoang mang, dao động, lo sợ bất an cho nhân dân; tệ nạn rượu chè say xỉn chửi mắng đánh nhau gây rối trật tự thôn xóm; tệ nạn xì ke ma tuý và mãi dâm đã đem đến cho tuổi thanh niên và thanh thiếu niên nam nữ những bệnh thời đại nan y, đó là một hiểm họa cho mầm non của Tổ quốc…..
Theo tin tức điện đài báo chí phần đông những người gây ra tệ nạn xã hội đều là những người mất nhân tính, có tiền án, tiền sự và dẫn theo một số thanh niên và thanh thiếu niên nam nữ bê tha trụy lạc.
Muốn chấm dứt những tệ nạn này thì vấn đề giáo dục đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người thì phải được áp dụng ngay liền khắp nơi trong nước, nhất làtrong các trường học: Tiểu học, Trung học, Đại học và trong các trại giam. Nhờ có giáo dục đào tạo đạo đức thì mọi người mới thấy trách nhiệm và bổn phận đạo đức là quan trọng đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người gồm có:
1- Đạo đức hiếu sinh tức là lòng yêu thương và tha thứ mọi lỗi lầm của người khác.
2- Đạo đức ly tham, tức là tránh xa sự tham lam, gian lận, lừa gạt, lừa đảo, trộm cắp, cướp của giết người.
3- Đạo đức chung thủy, tức là tránh xa những tệ nạn mãi dâm, hiếp dâm trẻ em và bạo lực gia đình….
4- Đạo đức thành thật, tức là tránh xa những sự dối trá gian xảo, gây chia rẻ, li gián, nói xấu người, vu khống v.v…
5- Đạo đức minh mẫn, tức là tránh xa rượu chè, bài bạc, hút chích, xì ke, ma túy và cẩn thận trong khi lái xe giữ gìn đúng luật lệ giao thông.
Với điều kiện thuận lợi của Linh Mụcđang có,chúng tôi ngưỡng mong Linh Mục nghĩ đến quê hương mình, dân tộc mình và các cháu thanh niên và thanh thiếu niên nam nữ là mầm non của Tổ quốc đang bị ảnh hưởng những văn hóa đồi trụy, tệ hại, thật đáng lo ngại . Xin Linh Mụcnên đề nghị ý kiến này đến các cấp có thẩm quyền để nghiên cứu và giải quyết dứt điểm những tệ nạn xã hội trong nước. Nhất là ngành giáo dục đào tạo phải soạn thảo đạo đức nhân bản - nhân quả để áp dụng vào các trường học và các trại giam. Đó là một điều quan trọng cho một Đất nước đang mở cửa đón nhận những luồng văn hóa của các nước trên thế giới.
Cuối thư Thầy xin có lời thăm và chúc Linh Mục dồi dào sức khỏe.
Kính thư
(Ngày 27–1–2008)
Câu hỏi 1: Mong Thầy cứu giúp chúng con trong kiếp này. Thời gian đi quá nhanh, hết tối rồi lại sáng. Khi vô thường đến rồi phải xuôi tay, nhắm mắt không làm chủ được sinh, già, bệnh, chết, thật là uổng một đời tu hành chẳng đi tới đâu cả, cứ quanh quẩn mãi trong sáu nẻo luân hồi, không thoát khỏi cảnh địa ngục trần gian. Nếu tu không xong kiếp này, kiếp sau biết có gặp được Thầy nữa hay không?
Chúng con quyết chí tu hành giai đoạn đầu giới luật đức hạnh cho nghiêm chỉnh đến hơi thở cuối cùng như lời bác Hồ dạy: “Không có gì khó, chỉ sợ lòng không bền”, chúng con cố gắng quyết chí ắt làm nên.
Con xin Thầy chỉ dạy chúng con cách làm giáo án cho rõ ràng hơn. Xin chân thành cảm tạ ơn Thầy.
Đáp 1: Thầy chỉ mong sao các con tu học GIỚI LUẬT thông suốt những ĐỨC HẠNH để áp dụng vào đời sống hằng ngày, nhờ đó tâm các con mới LY DỤC LY ÁC PHÁP; nhờ đó tâm các con mới BẤT ĐỘNG TRƯỚC CÁC ÁC PHÁP VÀ CÁC CẢM THỌ; nhờ đó tâm các con mới THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ; nhờ đó tâm các con mới ở trên TỨ NIỆM XỨ tu tập luyện TỨ THẦN TÚC. Nếu các con sống GIỚI LUẬT CHƯA NGHIÊM CHỈNH; thân, khẩu, ý chưa thực hiện ĐỨC HẠNH thì dù Thầy có muốn chỉ dạy các con tu tập “ĐỊNH LỰC” thì cũng chẳng bao giờ có định lực.
Điều cần thiết để tiến lên lớp tu tập ĐỊNH LỰC là tâm các con phải thật THANH TỊNH, nếu tâm chưa thật thanh tịnh mà tu tập ĐỊNH LỰC sẽ mất thì gian và hoài công vô ích. Các con có hiểu chưa?
Nhờ có ĐỊNH LỰC các con mới làm chủ sinh, già, bệnh, chết; nhờ có ĐỊNH LỰC khi gặp ác pháp tâm các con mới bình tĩnh mà không bị nghiệp ác lôi cuốn; nhờ có ĐỊNH LỰC tâm các con mới thản nhiên trước giặc tham, sân, si.
Một lần nữa Thầy xin nhắc lại: Muốn tu tập “ĐỊNH LỰC” có kết quả thì các con chỉ cần giữ gìn GIỚI LUẬT nghiêm chỉnh và luôn luôn thể hiện ĐỨC HẠNH để xả tâm ly dục ly ác pháp. Vì thế khi nào tâm đã bất động thì tu tập ĐỊNH LỰC mới có kết quả.
Các con nên nhớ lời dạy này để xả tâm cho tận gốc: “CÁC PHÁP VÔ THƯỜNG, KHÔNG CÓ PHÁP NÀO LÀ TA, LÀ CỦA TA, LÀ BẢN NGÃ CỦA TA CẢ”.
Đáp 2: Muốn làm bài trong giáo án không sai thì các con nên lưu ý: Phân đoạn phải đọc kỹ bài khi thấy những từ nào hoặc cụm từ nào chỉ về NHÂN QUẢ gì? ĐỨC gì? HẠNH gì? Rồi mới chia ra khi Đức và Hạnh độc lập riêng rẻ, còn ngược lại là có sự liên kết gồm chung một Hạnh (hành động) mà có nhiều Đức thì lấy đức chánh làm chủ đề mà đáp án.
Ví dụ: Đoạn 1: Bécly là vua trộm báu vật mà mọi người đều biết ở thập kỷ 20 của thế kỷ XX, đối tượng mà ông ta đến ăn trộm, đều là các thân sỹ trong giới thượng lưu có nhiều tiền, có địa vị. Ông ta còn là một nhà biết thưởng thức tác phẩm nghệ thuật, cho nên mới có tên là “Thân sỹ vua trộm”. Khi gạch đít những chữ Trộm, Ăn trộm, Thân sỹ vua trộm thì các con biết là THIẾU ĐỨC LY THAM và ăn trộm thì ý suy nghĩ rồi thân lấy đồ vật thì các con biết ngay là Ý HÀNH, THÂN HÀNH. Như vậy đáp án sẽ là THIẾU ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH
Đoạn2:- Cuối cùng Bécly cũng bị bắt về tội ăn trộm, và bị kết án 18 năm tù giam”. Con sẽ gạch đít những chữ bị bắt về tội ăn trộm, 18 năm tù giam thì con biết ngay nhân ăn trộm thì quả 18 năm tù giam. Vậy đáp án sẽ là NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO DO THIẾU ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH
Đoạn3:- Sau khi ra tù, các phóng viên ở mọi vùng trong cả nước đã dồn dập tới phỏng vấn, trong đó có một phóng viên đã hỏi một điều rất thú vị: “Thưa ngài Bécly, Ngài đã từng ăn cắp của rất nhiều người giàu có, tôi muốn biết, người mà Ngài gây tổn thất lớn nhất là ai?”. Bécly đã không hề đắn đo suy nghĩ mà nói ngay: “Là tôi”. Khi con gạch đít những chữ không hề đắn đo suy nghĩ là biết THÀNH THẬT khi gạch tiếp hai chữ Là tôi thì các con biết ngay THẲNG THẮN. Vậy đáp án sẽ là ĐỨC THÀNH THẬT THẲNG THẮN KHẨU HÀNH, trong chữ THẲNG THẮN CÓ THÀNH THẬT nên bỏ chữ THÀNH THẬT mà chỉ dùng chữ THẲNG THẮN
Đoạn4:- Các phóng viên ồn ào hẳn lên, Bécly giải thích nói tiếp: “Với tài năng của mình, tôi nhẽ ra phải trở thành một thương nhân nổi tiếng có nhiều thành công, hoặc trở thành một nhân vật có rất nhiều đóng góp cho xã hội; song quả không may tôi đã chọn cái nghề ăn trộm này, và đã trở thành người ăn trộm của mình nhiều nhất – Các vị đều biết, trong đời tôi đã tiêu hao ¼ thời gian sống trong nhà tù”. Khi con gạch đít những chữ: tài năng, thương nhân nổi tiếng,nhân vật có rất nhiều đóng góp cho xã hội, đã tiêu hao ¼ thời gian sống trong nhà tù thì các con biết ngay Bécly đã tự giác ngộ, đã tự hiểu những sự sai lầm của mình đã đánh mất thời gian quý báu của kiếp người và bây giờ ông mới chính thương mình. Vậy đáp án sẽ là ĐỨC HIẾU SINH TỰ GIÁC THÀNH THẬT GIẢI BÀI KHẨU HÀNH.
Đến đây chắc các con đã hiểu cách phân đoạn và đáp án rồi phải không?
Thăm và chúc các con tu tập sống đúng đức hạnh không làm khổ mình khổ người để đem lại một sự sống bình an cho nhau.
Thầy của các con
(Ngày 29 tháng 01 năm 2008)
Con Thiên tâm xin kính lễ Thầy! Trong quá trình đứng lớp và tu học vừa qua con có vài điều còn băn khoăn, chưa được tự nhiên và thông suốt lắm, nên hôm nay con xin được trình bày lên đây kính mong Thầy từ bi chỉ dạy để giúp đỡ con thông tỏ và thực hiện tốt vai trò cùng tư cách của mình.
Hỏi1:Kính thưa Thầy: trong 100 giới chúng học mà Thầy đã giảng giải trong cuốn đường về xứ Phật, bìa đỏ Tập IV có giới thứ 86 chỉ dạy về tư cách của một vị giảng sư dạy đạo đức cho người khác. Trong giới này Thầy dạy rằng người giảng sư nên ngồi trên ghế cao, chứ không được đứng mà giảng. Như vậy vị giảng sư ở đây có phải là những vị đã chứng đạo rồi phải không thưa Thầy?
Đáp:Đúng vậy, vị giảng sư ở đây là người đã tu chứng đạo và ít nhất vị này cũng phải là người giới luật nghiêm túc không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Còn các con ở đây đang tu tập đức lễ khiêm hạ cung kính và tôn trọng mọi người để diệt ngã xả tâm. Vì vậy các con giới luật chưa nghiêm chỉnh; các con tu hành chưa làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Nên khi ngồi nghỉ chân thì nên ngồi chiếc ghế ngang bằng với các tu sinh thì tốt nhất. Đó là đức khiêm hạ mà các con cần thực hiện, nếu không vậy thì bản ngã con sẽ tăng theo kiến thức hiểu biết và cản nhận vị trí đứng của mình là giảng sư thì rất nguy to cho con đường tu tập của các con.
Hỏi2:Còn như những người đứng lớp để thảo luận bài học như chúng con hiện nay thì có nên ngồi hay nên đứng? và trong các tình huống sau đây trong lớp học thì người đứng lớp nên ngồi hay đứng dậy thì sẽ phù hợp hơn. Thưa Thầy.
1, khi đọc thư Thầy gởi về cho tu sinh: đọc bài học trong giáo án, đọc câu hỏi để tu sinh thảo luận, thì người đứng lớp nên ngồi đọc hay đứng lên đọc thưa Thầy?
Đáp:Người giảng viên khiêm hạ thì nên đứng đọc, đó là ĐỨC LỄ. khi học viên đứng trả lời câu hỏi hay đọc bài giải trình thì giảng viên được phép ngồi nghỉ chân.
Hỏi 3: Sau khi học viên trả lời câu hỏi người đứng lớp muốn nói lời cám ơn, lời khích lệ hoặc lời nhận xét .. thì nên ngồi nói hay đứng dậy thì hay hơn thưa Thầy?
Đáp:Khi học viên đứng dậy trả lời câu hỏi hay đọc bài giải trình xong thì giảng viên đứng dậy nói lời cảm ơn, lời khích lệ hoặc lời nhận xét…chứ không nên ngồi. Trong các buổi họp Quốc Hội dù Chủ Tịch nước, Chánh Phủ, Thủ Tướng hay Tổng Thống đều đứng dậy phát biểu ý kiến của mình và nói lời cảm ơn chứ không có vị nào ngồi. Đó là mọi người đều đang giữ đức lễ cung kính và tôn trọng sự sống bình đẳng của mọi người, của các đại biểu đại diện toàn dân trong tỉnh của họ.
Hỏi 4: Khi người đứng lớp phát biểu ý kiến hoặc trình bày cảm tưởng, đọc bài viết của mình … thì nên ngồi đọc hay đứng dậy thưa Thầy ?
Đáp: Nên đứng. Đứng là một hành động của ĐỨC LỄ rất tuyệt đẹp, nó nói lên được đức khiêm hạ bình đẳng trong sự sống của mình và của mọi người rất cụ thể rõ ràng.
Hỏi 5, Khi người đứng lớp đọc một câu chuyện để minh họa cho bài học thì nên ngồi đọc hay đứng dậy Thưa Thầy?
Đáp:Nên đứng. Dù bất cứ muốn minh hoạ hay muốn phát biểu những ý kiến gì đều phải đứng không nên ngồi, vì ngồi tức là thiếu đức lễ, thiếu đức lễ tức là lại nuôi thêm ngã mạn.
Hỏi 6, trong trường hợp có tu sinh phát biểu trình bày sự giải trình về bài học của mình mà bị lạc đề, nói không đúng trọng tâm … thì người đứng lớp nên xử sự như thế nào cho hay, thưa Thầy? có thể chọn cách thức nào trong các cách sau đây:
a) - nói lời xin cám ơn! thôi không góp ý .
b) - Góp ý nhẹ nhàng, chỉ chỗ bị lạc đề cho tu sinh để rút kinh nghiệm .
c) - Nói khéo léo nếu như bài này tu sinh phát triển theo hướng đó thì sẽ đúng trọng tâm hơn, sâu sắc hơn, hoặc sẽ rõ nghĩa hơn …
d) - Có cách thức nào hay hơn 3 cách trên đây ?
Đáp:Nên dùng cách (b) góp ý nhẹ nhàng, chỉ chỗ bị lạc đề cho học viên rút kinh nghiệm. Đó là cách hay nhất thẳng thắn nhưng khéo léo dùng lời không chạm tự ái người làm sai đề, bởi học viên đều là người lớn tuổi.
Hỏi 7: Khi tu sinh phát biểu trình bày bài làm của mình xong, người đứng lớp có nên nói một vài lời nhận xét, lời khích lệ khen tặng không? Hay chỉ nên nói lời “xin cảm ơn” Thôi thì hay hơn thưa Thầy?
Đáp: Chỉ nên nói lời “CẢM ƠN THẦY hay SƯ” là hay nhất. Nhưng lời phát biểu trình bày mang ý nghĩa đạo đức rất hay thì nên nói lời khen tặng để gợi ý cho các học viên khác hiểu rõ bài học hơn.
Hỏi 8: Thưa Thầy đối với những bài thi Thầy gởi về gần đây, con thấy không có phần ghi điểm, Ví dụ như phân đoạn (10 điểm) Đại ý (10 điểm) vv.. thì người đứng lớp có nên chấm bài làm cho tu sinh không, hay nên để tu sinh tự làm bài đấy thôi?
Đáp: Ở giai đoạn này tu sinh đã thấm nhuần đạo đức và biết cách làm bài nên tu tập dùng đức hạnh xả tâm ly dục ly ác pháp, vì thế điểm không còn quan trọng và không dùng nữa. Người đứng lớp (giảng viên) hiện giờ luôn luôn chỉ dẫn phương pháp áp dụng bài học vào việc thực hành xả tâm ngăn ác diệt ác pháp. Xả tâm ngăn ác diệt ác pháp là mục đích tu hành của tu sinh, vì thế nên xem xét bài làm của học viên về KẾT LUẬN VÀ ÁP DỤNG. Đó là những bài học rất quan trọng.
Ngoài những điều con đã nêu ra trên đây, thì trong quá trình đứng lớp người giảng viên có cần lưu ý thêm những điều nào nữa không để rèn luyện nhân cách của mình ngày càng tốt hơn, cũng như sẽ phát huy hết mức khả năng vai trò đứng lớp của mình ?
Con xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy giúp con nhé!
Hiện tại con phân vân việc ngồi và đấy dậy khi nào cho phù hợp đối với người đứng lớp. Cũng như việc nên nói những lời gì, như thế nào đối với tu sinh khi học phát biểu xong … để giúp cho tu sinh có được trạng thái nội tâm tốt đẹp nhất, không khí lớp học nhẹ nhàng thoải mái nhất và không bị phóng túng hay phạm phải lỗi lầm vi phạm đạo đức vv.
Trên đây là tất cả những băn khoăn và thắc mắc con gặp phải trong quá trình đứng lớp vừa qua kính xin Thầy chỉ dạy và hướng dẫn thêm để giúp con có sự hoàn thiện hơn trong việc rèn luyện nhân cách và vai trò đứng lớp của mình.
Được sự chỉ dạy của Thầy, con rất biết ơn!
Con xin cảm ơn và kính lễ Thầy!- Kính thư - Con Thiện tâm
Đáp: Cái hay cái đẹp cũa nhân loại trong đó vai trò của ông thầy rất quan trọng.Thời nào cũng vậy, trò có “tôn sư trọng đạo” hay không thông qua bài giảng lối sống đạo đức của thầy. Trò có thể quên học bài nhưng không bao giờ quên hình ảnh ông thầy dạy cho chúng nhân cách kiến thức vào đời. Người thầy đừng bao giờ nghĩ mình có thể đánh lừa học trò bằng những lời giảng đạo đức, khi có hành động cử chỉ, thái độ kém văn hóa. Gương mẩu bao giờ cũng có giá trị hơn lời nói.
(Ngày 30 tháng 01 năm 2008)
KẾT LUẬN VÀ ÁP DỤNG BÀI “ĐÁNH CẮP CHÍNH MÌNH”
Hỏi:Bài này cho con thấy rõ nếu sống không đúng đạo đức là người đang đánh cắp chính mình.
Đáp: Đúng vậy, con nghĩ rất đúng. Chính mọi người đang ăn cắp chính mình mà không biết, người sống không đạo đức là người ăn cắp lại chính mình, các con nên nhớ điều này.
Hỏi: Hôm nay con được học được hiểu giá trị cao quý của nền đạo đức nhân bản nhân quả rồi . Vậy thì không vì bất kỳ lý do nào con bỏ nó. Cuộc sống của con sẽ là đạo đức nhân bản nhân quả. Đạo đức nhân bản nhân quả là một vật vô giá. Biết là vô giá thì sao con lại bỏ đi. Không bao giờ, từ đây và đến suốt đời con sẽ sống với nền đạo đức này.
Đáp: Đúng vậy, trên đời này không có một vật gì vô giá như đạo đức nhân bản – nhân quả, vì thế người có trí không thể xem thường, bỏ qua, chỉ có những người không hiểu biết, đáng thương mới không chấp nhận nền đạo đức nhân bản - nhân quả vô giá này. Bởi vậy người sống với đạo đức nhân bản – nhân quả là người biết sống với chính mình; là người không ăn cắp chính mình mà bài học đạo đức trên đây đã xác chứng cho mọi người thấy. Vì thế không ai dám phủ nhận nền đạo đức này.
Kính thưa Thầy! Con chỉ là một kẻ phàm phu không có mắt tam minh như Thầy để hiểu được lòng người, thấy đựơc tâm người cho nên trong quá trình đứng lớp, con không biết những việc làm sao đây của con có sai với đường hướng giáo dục của Thầy hay không. Xin Thầy chỉ dạy:
Hỏi1: Con hay gợi câu hỏi, gợi ý để các tu sinh đi sâu và khai thác mọi vấn đề. Ví dụ: Cùng tìm ra phương pháp chọn chủ đề. Phân đoạn và đáp án.
Con biết là mất thời gian và có thể làm hỏng kt hoạch của Thầy. Nhưng con nghĩ chắc là chỉ trong giai đoạn đầu thôi, vì khi mọi người hiểu rồi thì đâu còn tìm hiểu làm chi nữa.
Đáp: Người giảng viên đứng lớp là trách nhiệm phải truyền đạt cho học viên hiểu đạo đức trong bài học từng câu, từng đoạn, từng chữ, tức là các con phải gợi câu hỏi đạo đức, gợi ý đạo đức, gợi những từ đạo đức để các học viên đi sâu vào và khai thác mọi vấn đề tìm ra phương pháp chọn chủ đề, phân đoạn, đáp án, giải trình án, kết luận và áp dụng vào đời sống.
Dù có mất thời gian nhưng kết quả thật vĩ đại, đem lại sự lợi ích rất lớn cho các tu sinh để có một cuộc sống bình an, yên vui……, đó là đạt được sự mong ước của Thầy. Còn ngược lại học cho nhiều mà kết quả chẳng ra gì thì uổng phí công lao và thời gian tu tập. Cho nên đứng lớp con dạy như vậy là đúng, rất đáng khen. Vừa dạy cho tu sinh học tập cũng chính mình đang học tập đạo đức. Nhưng khi đã xả tâm ly dục ly ác pháp xong rồi thì đâu còn học đạo đức làm gì? Chỉ có những người tâm chưa ly dục ly ác pháp thì mới học đạo đức.
Hỏi 2:Theo như con thấy, nếu cứ sau mỗi bài kiểm tra dành thời gian để thảo luận về việc chọn chủ đề, phân đoạn, đáp án, kết luận và ứng dụng thì cũng mất hai buổi sau đó còn phần giải trình từng đáp án trên lớp thì mất thêm ít nhất hai buổi nữa. Có khi chưa xong bài này thì Thầy đã gởi bài khác về. Vậy thời gian học giáo án rất ít .
Đáp:Học một bài trong giáo án kỹ lưỡng hiểu rõ từng hành động có đạo đức, và từng hành động thiếu đạo đức để khi ứng dụng vào đời sống đều đạt được kết quả tốt đẹp, thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự, còn học nhiều bài để có số lượng mà chỗ hiểu, chỗ không hiểu thì chẳng có ích lợi gì, chỉ học để nói như con chim học tiếng người mà thôi. Học đạo đức để mình không ăn cắp lại chính mình; để mình không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Như trên đã nói học đạo đức là vì tâm chưa ly dục ly ác pháp, chứ tâm đã ly dục ly ác pháp thì học đạo đức chỉ bằng thừa. Có đúng như vậy không các con?
Hỏi: Con phân tích trên thì con thấy việc làm trên không đúng như ý của Thầy. Xin Thầy chỉ dạy cho con rõ đối với các bài kiểm tra gởi về các con phải làm gì? Trình độ ra sao? Và giáo án Thầy gởi về con phải làm gì để đi đúng hướng của Thầy kính xin Thầy chỉ dạy .
Đáp:Con đã không hiểu ý Thầy, từ xưa Thầy đã dạy các con: Thà tu tập một hơi thở có chất lượng còn hơn tu tập nhiều hơi thở mà không chất lượng. Tu tập nhiều hơi thở mà không đạt được kết quả thì chẳng có ích lợi gì, phí thì giờ, mất công tu tập vô ích.
Học một bài, hiểu rõ một bài, ứng dụng một bài, có lợi ích một bài, sống đạo đức một bài, còn hơn học nhiều mà chẳng hiểu, chẳng có lợi ích gì thì rất uổng công học tập. Đừng sợ mất thì giờ học tập, mà chỉ sợ học tập không hiểu, không thấm nhuần và không ứng dụng được đạo đức vào đời sống.
Bài vỡ Thầy gửi về, khi nào học viên làm xong bài cũ, có thông suốt thấm nhuần, ý hành, thân hành, khẩu hành đạo đức thì mới cho làm bài mới, còn không thì thôi. Nếu chưa học xong; chưa làm bài xong; chưa ứng dụng được đạo đức thì giảng viên không cho làm bài mới, mà ôn lại bài cũ. Nhất là cho học viên phải hiểu rõ từng đáp án, phải thấm nhuần mỗi đề án bằng cách giảng viên hay học viên đưa ra những mẩu chuyện nói về đạo đức để học viên và giảng viên trao đổi giao lưu những sự hiểu biết về đạo đức khiến cho những học viên càng lúc càng thấm nhuần hơn. Sau khi học viên thấm nhuần đạo đức trong bài cũ thì giảng viên cho làm bài mới. Dù Thầy có gửi bài về rất nhiều, nhưng không phải cho học viên làm một lần mà chia ra cho học viên làm nhiều. Có tài liệu sẵn lần lược giảng viên cho làm từng bài, trong khi Thầy bận làm việc khác.
Hỏi 3: Nếu gọi là bài kiểm tra thì dĩ nhiên dùng để kiểm tra sự hiểu biết của sinh tu .. Vậy thì cách làm ở câu hai và không đúng với nghĩa kiểm tra hay là bài thi. Phải không thưa Thầy.
Đáp: Dĩ nhiên bài kiểm tra là kiểm tra sự hiểu biết của học viên, nhưng ở đây, không phải là bài kiểm tra theo kiến thức văn hóa, mà kiểm tra bài làm của của học viên là để biết kiến thức đạo đức trong bài làm của học viên có nói lên sự ứng dụng đạo đức vào thân tâm hay không?
Thầy phân đoạn, đáp án là để trợ giúp đầu đề cho học viên, còn giải trình, kết luận và áp dụng là để học viên tự làm, đó là giúp cho học viên triển khai tri kiến đạo đức. Cho nên bài kiểm tra không có nghĩa là kiểm tra kiến thức văn hóa mà kiểm tra bài làm có ứng dụng theo bài học trong sách RÈN NHÂN CÁCH để nâng cao trình độ hiểu biết và thấm nhuần đạo đức. Bài làm này tương tự giống như bài luận văn của giáo viên cho học sinh làm, nhưng có khác hơn là kiểm tra để được biết đức hạnh của học viên có hay không. Thứ nhất là để biết đức tinh cần siêng năng của học viên; thứ hai là để biết đức tin vào sự tu học giới luật đức hạnh. Và cũng từ những bài học đạo đức kiểm tra này sẽ nhận ra được người học viên nào có áp dụng hay không áp dụng. Cho nên gọi là bài thi hay bài kiểm tra là vậy, chứ nó chỉ là bài luận văn ứng dụng trong bài học mà thôi.
Hỏi 4: Chính vì trong bài Tâm Hồn Cao Thượng có câu: “ Các con hãy cùng làm bài Thầy sẽ chấm cho” cho nên con mới tự ý viết thư nói là các giải trình của các bài thi sẽ gởi cho Thầy. Bây giờ con nghĩ lại chắc là chỉ có bài “Tâm Hồn Cao Thượng” thôi. Vì những bài sau này con thấy trong phần giải trình án có câu: “Các con tự làm lấy” Vậy thì khi thấy trong bài nào, có câu nào thì nên hiểu chỉ áp dụng cho bài đó thôi, phải không thưa Thầy ?
Đáp: Sợ các con phân đoạn và đáp án sai, thì giải trình án sẽ không đúng, nên Thầy phân đoạn và đáp án làm bài mẩu để giúp các con xem xét và sửa lại bài làm của mình cho đúng. Còn giải trình án Thầy không làm bài mẩu mà để các con tự làm lấy là muốn cho các con triển khai tri kiến đa dạng tài năng của mình không theo khuôn mẩu, nhằm để giúp các con phát triển pháp quán để thấm nhuần môn học đạo đức. Cho nên mới có câu: “Các con tự làm lấy”.
Còn tất cả những bài thi hay bài kiểm tra đều do Thầy chấm để xét về đạo đức giới luật của các con mới cho lên lớp hay ở lại. Vì thế trong bài Tâm Hồn Cao Thượng có câu: “Các con hãy làm bài Thầy sẽ chấm cho”. Thầy chấm cho tất cả bài thi chứ không riêng bài Tâm Hồn Cao Thượng. Mục đích chấm bài là chọn các con lên tu tập lớp Thiền định, ngoài Thầy ra thì không có ai làm thay cho Thầy được.
Hỏi 5: Gọi là bài thi hay bài kiểm tra. Vậy thì ai là người kiểm tra thưa Thầy?
Lúc xưa con nghĩ rằng, lúc đầu Thầy chỉ gởi đề tài về để kiểm tra. Kiểm tra xong thì nộp đưa cho cô Út, mang qua cho thầy sau đó Thầy gởi đáp án bài làm đúng về để cho tu sinh đối chiếu với bài mình làm và làm lại.
Nhưng hôm nay con thấy cũng không phải vì mỗi lần côÚt có đề thi thì có luôn bài làm.
Do vậy ý của con cũng muốn hỏi giống như câu hai là mục đích của bài kiểm tra hay bài thi là để làm gì thưa Thầy? Và trình tự ra sao?
Vài dòng thăm thầy con kính mong sự chỉ dạy của Thầy, con kính mong sự chỉ dạy của Thầy.
Đáp: Như trên Thầy đã nói: “Thầy là người kiểm tra bài làm của các học viên để cho lên lớp hay ở lại”.
Trước kia bài kiểm tra gửi riêng, còn hôm nay bài kiểm tra có kèm luôn bài làm. Như vậy giảng viên phải hiểu và cho học viên chỉ chép bài kiểm tra về làm, khi nào học viên làm bài xong mới đưa bài làm của Thầy ra đối chiếu. Làm như vậy tiết kiệm được thời gian của Thầy, khi pho to máy sẽ pho to hai mặt mà Thầy đỡ mất thời gian lật qua trở lại và cũng tiết kiệm được giấy khỏi phải bỏ giấy trống quá nhiều. Chỉ người giảng viên chịu khó một chút mà tiết kiệm được nhiều công sức của Thầy và đàn na thí chủ. Thầy xin cảm ơn người giảng viên, chỉ chịu khó giúp Thầy một chút mà Thầy giữ được đức hạnh tiết kiệm trọn vẹn.
Hỏi 6: Con là một kẻ đã từng phạm nhiều sai lầm và tội lỗi trong quá khứ khi nhận trách nhiệm lớn. Cho con biết con chưa hiểu biết con, chưa thấy hết được cái sai của con .
Hôm nay được Thầy giao cho làm người đứng lớp con hơi hoang mang và không biết sẽ phạm những lỗi lầm nào đây?
Con nhận ra rằng tính cách năm xưa bắt đầu xuất hiện tại trong các biểu học gần đây. Và có khi con sợ sẽ làm một điều gì, nhất là nói một lời nào xúc phạm đến Thầy, đến các tu sinh hay là một cái gì đó nghiêm trọng.
Như hôm nay con có phân tích rằng nếu một tu sinh với khối lượng bài học nhiều, dồn dập như thế, mà không áp dụng được thì việc học là vô ích, thay vì chỉ cần nắm rõ một đức mà thông hiểu rõ, áp dụng được vào đời sống thì còn có giá trị hơn.
Câu nói này theo con biết được nhiều người hiểu rằng tất cả những gì Thầy lo cho chúng con như gởi bài về học đều là vô bổ.
Con không dám có ý như vậy. Mà nếu đã có người hiểu như vậy thì con xin sám hối với Thầy, con sẽ cẩn thận hơn với lời nói của mình.
Đáp:Dù những bài học của Thầy gửi về cho các con học tập là “vô bổ” (theo suy nghĩ của các con), nhưng Thầy cảm thấy mình làm hết bổn phận của một vị thầy đối với học trò và tự tin rằng những bài học này sẽ mang nhiều lợi ích cho loài người sau khi Thầy tịch.
Các con đã bỏ hết cuộc đời theo Thầy tu hành, chỉ một lòng mong cầu giải thoát. Thầy là người đã thông suốt con đường giải thoát ấy mà không hướng dẫn các con thì còn trông cậy vào ai nữa. Phải không các con? Nhưng các con đã biết: “Các pháp đều vô thường” vì thế thời gian sẽ không chờ đợi một ai. Thầy sẽ làm hết bổn phận dẫn dắt, chỉ đường của mình cho học viên, còn đi hay không đi là quyền ở các học viên, chứ Thầy nào có quyền bắt ép ai. Vì Thầy biết các con còn phải tu học nhiều hơn nữa, đối với những bài học đức hạnh giới luật của Thầy gửi về so với số còn lại thì quá ít các con ạ! Các con còn phải trải qua nhiều sự rèn luyện tu tập thân và tâm để vượt qua chặng đường quanh co, gian nan đầy thử thách mới đạt được cứu cánh giải thoát. Nói như vậy không có nghĩa làm cho các học viên nản chí mà thúc dục các học viên học tập thì phải cho ra học tập, còn tu tập thì phải cho ra tu tập chứ không đứng lớp này trông lớp khác khi khả năng của mình chỉ ở lớp thấp mà muốn tu học ở lớp cao. Kết quả sẽ là số “không” các con ạ!
Hỏi7:Con chỉ ghi đơn giản rằng khi đứng lớp thì phải cố gắng làm sao giúp cho người học viên nắm rõ các đức hạnh để mà có thể áp dụng vào đời sống, do vậy con hay hỏi tại sao ? Và đề nghị các tu sinh giải thích rõ tại sao phân đoạn như vậy ? Tại sao lại chọn câu đáp án như vậy ?
Có một lần con có nghe nói muốn hỏi lịch sự thì đừng bao giờ hỏi chữ “tại sao” con không biết là có đúng không thưa Thầy ? Con chưa hình dung được tai hại của nó . Con sẽ cố gắng hỏi lại cách hỏi này?
Có tu sinh đứng lên phát biểu. Con không hiểu được ý sư muốn nói gì nữa. Mặc dù lời nói rất văn hoa. Con thấy con còn yếu nhiều mọi mặc lắm thưa Thầy. Lúc đó con như người ngu vậy đó.
Đáp: Không phải là một giảng viên đứng lớp mà đặt câu hỏi “tại sao” với mọi người thì hai chữ “tại sao” có vẻ ngã mạn thiếu đức lễ khiêm hạ, còn đối với học viên trong lớp thì đó là một câu hỏi thẳng thắn, mạnh mẽ để gợi ý cho học viên tập trung vào đề bài, để triển khai tri kiến sáng tạo của học viên, chứ không theo lối học tứ chương.
Như các con đã biết: Giảng viên là người chủ đạo, khơi dậy kiến thức cho học viên sáng tạo. Riêng giảng viên phải bảo vệ quan điểm của giảng viên, nhưng áp dụng phương pháp giảng dạy rất dân chủ, không áp đặt. Làm được điều này sẽ khắc trong sâu thẳm tâm hồn của học viên, người giảng viên là người chỉ đường, người dìu dắt đường đến thành công vinh quang.
Người đứng lớp phải làm được ba điều:
- Thứ nhất, trước một vấn đề phải gợi cho học viên nói lên được sự suy nghĩ của mình và người giảng viên cũng phải bày tỏ quan điểm suy nghĩ của mình, rồi đưa ra quan điểm của sách giáo khoa, nếu ba quan điểm giống nhau thì tuyệt vời.
- Thứ hai, nếu quan điểm của học viên khác giảng viên thì giảng viên chỉ hướng, chỉ cách cho học viên tìm hiểu. Sự trưởng thành và kết quả nhận thức của học viên là câu trả lời và phương pháp của thầy. Nhờ đó học viên cảm thấy giảng viên tuyệt vời.
- Thứ ba, trong trường hợp nào đó giảng viên sai thì xin lỗi học viên một cách thiện chí và bình đẳng.
Trên đây là ba điều kiện cần thiết cho giàng viên đứng lớp truyền đạt đạo đức cho học viên, nếu giảng viên thiếu ba điều kiện này thì rất khó truyền đạt tư tưởng đạo đức, và trong việc giảng dạy giảng viên càng gặp nhiều khó khăn hơn.
Hỏi8: Con thấy các sư buổi sáng khi đứng lớp thường hay đứng lên nói. Con biết đó là đức khiêm hạ nhưng đối với con khi ngồi ở vị trí người đứng lớp, ngồi nói thì tự nhiên hơn. Do vậy xin Thầy cho con ngồi nói có phải là người mất đạo đức hay không có đạo đức không thưa Thầy ? Trong lòng con vẫn tôn trọng các tu sinh chứ con đâu có dám không tôn trọng. Kính xin Thầy chỉ dạy - Cám ơn Thầy-Kim Quang.
Đáp: Về đức lễ người giảng viên đứng giảng hay ngồi Thầy đã trả lời trong bức thư cho Thiện Tâm. Đức lễ tôn trọng và cung kính người phải bằng hai cách: một là tâm cung kính; hai là hành động cung kính, trong hai hành động này nếu thiếu một hành động nào thì sẽ không thành đức lễ. Như con trình bày trong câu hỏi tâm cung kính nhưng thiếu hành động cung kính, như vậy chưa trọn đức lễ. Thiếu hành động cung kính thì không thể chứng minh được đức lễ, vì chính điều đó chứng tỏ con chưa hiểu rõ đức lễ.
Cho nên đức lễ phải thực hiện bằng tâm và bằng hành động thân tôn trọng và cung kính thì mới trọn vẹn.
Thăm và chúc các con học tập đạo đức xả tâm càng ngày càng tốt hơn.
Thầy của các con
(Ngày 1-2-2008)
1- Ngày 14 và ngày 30 trong mỗi tháng chúng con có phải đọc giới bổn 10 giới Sa Di và 348 giới Tỳ kheo ni không? Hoặc đến những ngày ấy chúng con phải sám hối ăn năn trước tượng đức Phật hình ảnh Thầy. Có sư cô trưởng đoàn cùng quý sư cô trong đoàn chứng minh.
Đáp:Theo Đại thừa vào ngày 14 và 30 thì tụng 10 giới SA DI và 348 giới tỳ kheo ni, nhưng với tu viện Chơn Như không tụng giới mà chỉ vào 2 ngày đó mỗi người đều tự quỳ trước tượng Phật và đại chúng phát lồ những điều vi phạm đã biết và những điều vi phạm mà chưa biết cầu xin đại chúng chỉ cho để sám hối ăn năng quyết chừa bỏ không còn tái phạm. Bắt đầu từ sư cô Trưởng đoàn và kế tiếp đến sư cô cuối cùng.
2- Khi có việc cần gia đình mong người tu sĩ nên về giải quyết thì người tu sĩ đó về nhưng người tu sĩ có đựơc phép ở lại gia đình sinh hoạt ăn ngủ nghỉ và tu tập không?
Đáp:Nếu gia đình có việc cần thì người tu sĩ được phép về thăm gia đình và giải quyết công việc. Trong thời gian ở lại gia đình người tu sĩ phải giữ gìn oai nghi tế hạnh và giới luật trong ăn uống và nói chuyện, ngủ nghỉ phải biết chỗ nào được ngồi nằm, chứ không được đụng đâu ngồi nằm. Ngồi nằm phải nghiêm chỉnh, nhất là không được nói chuyện tào lao, chuyện đời thường tình thế gian v.v…Sau khi giải quyết mọi việc xong hãy mau trở về tu viện để tu tập. Ngoài đời là nơi không thanh tịnh ở lâu sẽ bị ô nhiểm.
3- Nếu gia đình có thất giành riêng cho người tu sĩ không có liên hoan đung chạm đến gia đình, và tu tập của người tu sĩ không có liên quan động chạm đến gia đình, và tu tập của người tu sĩ riên biệt cách xa. Thì người tu sỉ đó nếu ở nơi ấy tu tập thì có được không?
Đáp:Dù ở gia đình có thất riêng nhưng người đi tu không nên ở lâu trong gia đình, vì ở lâu trong gia đình sẽ làm bận những người thân, vì họ còn lo cho gia đình riêng tư con cái, nếu không khéo sẽ làm gánh nặng cho cha mẹ, anh chị em, con cháu v.v…Tuy có thất riêng nhưng không thanh tịnh bằng trong tu viện.
4- Phong cách và lời nói người tu sĩ xưng hô với gia đình từ lớn cho đến nhỏ tuổi. phải như thế nào? Quyết thuộc bạn bè ngoài xã hội. người tu sĩ khi giao tiếp thì cách xưng danh như thế nào cho đúng pháp đúng giới luật con kính mong Thầy chỉ dạy?
Đáp: Cách xưng hô với những người thân trong gia đình từ người lớn tuổi đến người nhỏ tuổi đếu xưng là SƯ CÔ
Ví dụ: - Thưa mẹ, SƯ CÔ muốn hỏi mẹ điều này.
- Lại đây cháu! SƯ CÔ cho cháu cái này.
Đối với người lớn tuổi như cha mẹ, cô, bác, chú, cậu, dì, mợ, anh chị đều dùng từ THƯA đứng trước.
Đối với người nhỏ tuổi hơn như con cháu thì gọi tên
Ví dụ: - CHÁU TUẤN lại SƯ CÔ bảo:
- CHÁU NGỌC lại đây SƯ CÔ cho cháu cái này.
Đối với những bạn bè thân thuộc mọi người trong xã hội và phật tử, đàn na thí chủ đều xưng là SƯ CÔ và gọi họ bằng chú bác cô anh chị nếu biết tên hay pháp danh thì nên gọi tên hay pháp danh.
Ví dụ: - Thưa bác NHƯ THÔNG, NHƯ LIÊN muốn nhờ bác giúp cho một việc.
- Thưa cô LIỄU TÂM, cô làm giúp NHƯ LIÊN việc này
Tất cả những sự xưng hô đều theo sự hướng dẫn trên đây sẽ đúng oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật Giáo Việt Nam mà không bị ảnh hưởng Hán ngữ Trung Hoa.
5- Người tu sĩ khi có duyên gặp người cư sĩ thành tâm cúng dường, xuất bản phát hành pháp bảo và ấn tống kinh luật, và cúng dường thực vật cho các tu sinh ăn học, thì người tu sĩ ấy có được phép cần giúp người tu sĩ không?
Đáp: Khi có người cư sĩ thành tâm cúng dường in kinh hoặc thực phẩm cũng như những vật dụng cần thiết cho những tu sĩ khác đồng tu tại tu viện thì nên nhận và mang về và trao tận tay cho những tu sĩ được cư sĩ khác gửi cúng dường thì không có phạm giới gì cả.
6- Cách xưng hô gia đình bố mẹ chồng con cháu, quyết thuộc, bạn bè, đối với người tu sĩ thư thế nào?
7- người tu sĩ có tâm mời người tu sĩ đến nhà thọ thực cùng cư sĩ có đựơc không ?
Đáp: Như trên đã dạy.
8- Nếu người tu sĩ không đến nhà người cư sĩ thọ thực mà xin cư sĩ về thất thọ. Nhưng trên đường về thất còn xa. thời gian đến giờ thọ thực đã tới ngừơi tu sĩ mới tu được nửa chặng đường. Lúc đó nên tìm một nơi vắng vẻ yên tỉnh thoáng mát như: ở gốc cây, vườn cây quãng đường vắng người xe cộ qua lại ít. để tu sĩ thọ thực cho đúng thời gian quy định. người tu sĩ đó nếu thực hiện như vậy thì có được không ?
Đáp: Được, đó là đúng oai nghi của người tu sĩ khi đi đường, nhưng người tu sĩ không được vào quán lều ăn uống mà chỉ có ở dưới gốc cây mà thôi.
9- Trong cuộc sống hằng ngày ngoài lúc tu tập trong thất ra. Những lúc lên lớp học, giờ lao tác có lúc tập trung dọn dẹp một nơi, với nhau thì cách xưng danh với nhau của người tu sĩ như thế nào cho đúng.
Thí dụ: Con kính thưa sư cô Huệ Ân. Sư cô Liễu Châu. Sư cô Hạnh Từ. ( hoặc chúng con thưa hỏi với nhau bằng lời nói ngắn gọn sau:
Con thưa cô Liên Châu, thưa cô Liễu Huệ, thưa cô Huệ Ân, thưa cô Liễu Châu, thưa cô Hạnh Từ vv..
Trong hai cách chúng con xưng hô ở trên cách nào được nên dùng, còn cách nào nên bỏ?
Đáp: Nên bỏ cách xưng hô ở trên, nên dùng cách xưng hô ở dưới gọn hơn và thân thiện hơn.
10, Mỗi tuần chỉ có một ngày thọ bát tập trung trong ni chúng. Chẳng hay ngày đó bị ốm yếu hoặc có công việc đột xuất của chung thì người tu sĩ đó được phép mang vật thực về thất riêng để thọ được không ?
Đáp: Được, trường hợp đau bệnh, trường hợp bận công việc chung trong tu viện, nên không thọ thực chung với các bạn đồng tu đều không có lỗi, như báo cho người Trưởng đoàn biết.
11, Nếu tu sĩ nào có bệnh, thường có phần, có lúc làm động đến chúng trong giờ đang thọ thực. như vậy nên có cách nào để khắc phục?
Đáp: Nếu tu sĩ nào có bệnh nên mang cơm về thất thọ thực không có lỗi gì cả, vì bệnh ăn uống rất khó khăn, nhưng phải báo cho người Trưởng đoàn biết.
12. Tu sĩ có lúc lời nói hơi nhiều. hành động của thân, lời nói của miệng còn thô kệch, có lúc còn cực đoan sống trong tưởng tượng và nghi ngờ người khác, chẳng khác gì sống như ngoài thế gian. Hành động của tu sĩ đó được thể hiện ra như vậy, thì nên sửa đổi và phương pháp khắc phục như thế nào?
Đáp: Bằng phương pháp như lý tác ý. Biết tật mình xấu như vậy thì nên siêng năng tác ý hằng ngày để tự nó nhiếp phục những tật không tốt ấy. Nhất là nói nhiều thì nên tác ý: “IM LẶNG NHƯ THÁNH”.
13. Người tu sĩ trên đường đang ôm bát đến nơi thường để khất thực. Nếu gặp người đi ngược lại chào họ không? Và người đang đi trên đường gặp đoàn tu sĩ đang đi khất thực họ chắp tay cúi đầu chào đoàn tu sĩ đang ôm bình bát trên đường thì đoàn tu sĩ đó có nên dừng lại đứng yên đáp lại lễ của người đi đường không ?
Đáp:Khi đi khất thực y áo trang nghiêm, mắt nhìn xuống với những oai nghi nghiêm nghị, không ngó qua ngó lại (đi như Phật đi) khi đó mọi người đảnh lễ, xá chào người tu sĩ đi khất thức nghiêm trang, thanh tịnh, lặng lẽ, ung dung bước đi như dáng con sư tử nhất là đi trong đoàn khất sĩ thì không nên cúi chào ai hết, chỉ có đi riêng một mình thì dừng lại cúi đầu chào lại rồi bước đi.
14, Vào lúc khất thực người tu sĩ nên chuẩn bị các thứ gia vị cần dùng thêm một lần tại nơi khất thực cho đủ. Nếu về đến thất còn quên các thức gia vị đó. người tu sĩ đó trở lại nơi khất thực, xin thêm thứ gia vị còn thiếu đó có được không?
Đáp:Khát thực chỉ xin một lần, khi về thất thấy thiếu thì không nên trở lại xin thêm, có gì ăn nấy không được đòi hỏi.
15, Người tu sĩ thừa tự thức ăn từ ngọ trước để sang ngọ ngày sau hoặc các thứ vật thực riêng của mình không để thất mang đến để ở nơi thường đến khất thực. đến giờ đi khất thực ngọ sau cùng xin luôn. Như vậy có phải pháp ly dục về ăn và đúng oai nghi tế hạnh của người tu sĩ không?
Đáp:Đem ra để nơi khất thực, không nên để trong thất, vì để trong thất phạm giới. Đó là tập theo pháp ly dục về ăn uống. Các con là khất sĩ phải giữ gìn đúng những oai nghi tế hạnh về ăn uống này.
16- Các thứ vật thực thường có mặt dự trữ để từ ngày này qua ngày khác ở nơi đến khất thực như nước tương, cam và chai ma di, muối trắng muối tiêu, ớt quả muối, chanh phơi khô, chanh muối nước để các thứ đó vào đa dạng lọ. Rồi để trưng bài ở nơi đến khất thực, thể hiện bằng các thứ vật thực như vậy có được không? Và có thanh tịnh không? Nếu được phép thường xuyên gia vị không thiếu được những thứ gì. Con xin Thầy chỉ dạy .
Đáp:Tất cả những thực phẩm này do Phật tử cúng dường cho tu sĩ đó là những thực phẩm là thanh tịnh. Các tu sĩ nào cần dùng thì cứ nhận về dùng trong bữa ăn đó mà thôi, chứ không được cất giữ trong thất.
Trong tất cả thực phẩm để nơi khất thực là cúng dường cho tu sĩ, Vậy các con cứ khất thực đủ ăn trong một bữa ngọ mà thôi, đừng lấy dư thừa về bỏ phí rất uổng.
17- Đã đến giờ vào nghi lễ hành thọ bát và đến khi gần thọ bát xong, thì người tu sĩ có được phép nói chuyện ngoài lề và phải nhìn ngang dọc nhiều hướng, nhìn sư cô trưởng đoàn không? Hay nên im lặng và tỉnh giác nhiếp tâm thanh tịnh?
Đáp: Giờ bắt đầu Thọ Bát cũng như giờ Thọ Bát gần xong đều phải giữ gìn im lặng trong oai nghi tĩnh giác nhiếp tâm, không được nói chuyện ồn náo trong bữa Thọ Bát và cũng không nhìn ngang nhìn dọc hay nhìn sư cô Trưởng đoàn mà phải nhìn xuống nơi bát của mình.
Con kính thưa Thầy. có lần con băn khoăn về giới luật và oai nghi tế hạnh của người tu sĩ nên con đã hỏi Thầy về giới luật đức hạnh cho con thêm rõ để con hiểu và biết cụ thể rồi con nghe lời Thầy dạy bảo: Cô Diệu Quang hàng ngày dạy trên lớp và thực hành trên hành động của thân miệng, ý con sẽ gắng nghiêm trì giữ gìn và bảo vệ giới luật đức hạnh. 20 chục câu hỏi về giới luật, con mong Thầy trả lời dạy bảo con nhưng con mong mãi không thấy:
Con Liễu Ngọc
(Ngày 5-2-2008)
Vừa qua, chúng con được đọc những bức tâm thư của Thầy trả lời và chỉ dạy cho sư cô Liên Châu và thầy Kim Quang về cách làm đáp án bài thi, cũng như ý nghĩa của bài thi trong bác bức tâm thư ngày 27- 1 và 30- 1 vừa rồi Qua những bức tâm thư ấy chúng con đã sáng tỏ ra rất nhiều điều về cách làm bài, cũng như sự nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của bài thi như thế nào .. cũng như cách vận dụng để học tập, tu tập đạt kết quả tốt nhất ..
Hỏi 1- Sau đây con xin được trình bài lên Thầy những sự nhận thức của con về những vấn đề nêu trên để xin Thầy xem xét và điều chỉnh, góp ý cho sự nhận thức của con được đầy đủ chính xác hơn.
Theo con nghĩ những bài thi Thầy gửi về, mục đích chính, ý nghĩa chính đó là giúp chúng con xả tâm những chướng ngại theo từng thời điểm và giai đoạn đó.
Vì vậy mà khi đọc những mẫu chuyện những bài thi ấy tâm hồn chúng con nhẹ nhỏm phất khởi cảm kích buông xả rất nhiều do đó từ bài học này tự nhiên chúng con rút ra cho mình những bài học áp dụng vào cuộc sống tu tập tức thì.
Bởi vậy mà theo con con nhận thấy phần kết luận và rút ra bài học cho bản thân là điểm cốt yếu từ những bài thi này. Mà điều này thì ai ai cũng cảm nhận được và làm được. Bên cạnh đó đại ý bài cũng giúp cho chúng con nắm được cốt lõi nội dung của bài một cách mau chống chính xác, đúng chủ đề .
Thưa Thầy con nhận thức như vậy có đúng không ?
Đáp1:- Đúng vậy! Những nhận thức của con không sai những điều Thầy dạy. Như vậy chỉ còn mong ước cho các con siêng năng làm bài đầy đủ để có những tri kiến đạo đức nhân bản - nhân quả, nhờ tri kiến ấy áp dụng vào thân tâm mới đạt được tâm bất động.
Khi những cuộc trắc nghiệm sắp tới sẽ chọn được những người tu tập tâm bất động mới cho vào tu học ở lớp cao hơn. Đó là những lớp rèn luyện định lực, nếu tâm chưa bất động các con buộc phải ở lại lớp để tu tập cho đến khi tâm bất động mới được lên lớp. Cho nên sự nhận thức của con rất đúng.
Hỏi 2- Phần giải trình chính là phần giúp chúng con triển khai tri kiến sâu hơn rộng hơn nữa để thấy rõ được ý nghĩa bài học qua nhiều góc độ thể hiện trong những đức hạnh và từ đó chúng con tự tìm ra cho mình các cách ứng dụng vào cuộc sống của mình những đức hạnh ấy .
Hay nói cách khác phần giải trình chính là sự tiêu hóa chuyển đổi từ nguồn thông tin của Thầy trở thành tri kiến cho chúng con.
Muốn cho sự triển khai tri kiến này được chính xác. Không bị lệch lạc sai ý thì đòi hỏi chúng con rất nhiều yếu tố, và trong đó yếu tố không thể thiếu được là đáp án phải chuẩn chính xác không bị lệch lạc. do đó mà đáp án chúng con tự làm và đáp án của Thầy gởi về là một sự triển khai tri kiến rất lớn, đầy hào hứng của tu sinh chúng con, qua đó chúng con thấy sự trưởng thành của mình lên từng bước theo thời gian. Do vậy con thấy sự phân đoạn và đáp án bài thi là một quá trình rèn luyện lâu dài để nâng dần khả năng nhận thức của tu sinh chúng con. Đây là một quá trình lâu dài từ từ phải vậy không thưa THầy ?
2- Đúng vậy! Giải trình án là phương pháp quán vô lậu để giúp cho tu sinh thông suốt nền đạo đức nhân bản – nhân quả, mà đức Phật thường dạy và nhắc nhở chúng ta khi mới bắt đầu học Phật: “Những gì thông suốt cần phải thông suốt”. Muốn thông suốt những gì cần thông suốt thì phải theo chương trình giáo dục lớp Ngũ Giới và Thập Thiện. Nếu chưa thông suốt những lớp học đạo đức này thì con đường tu tập sẽ mất căn bản thì Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định đừng mong nếm được mùi vị giải thoát của nó. Cho nên giải trình án là một điều rất quan trọng, nếu các con không chịu làm bài thì khó mà triển khai tri kiến giải thoát được và Thầy cũng đành chịu thua những người đệ tử không tinh tấn, thiếu ý chí tìm cầu sự giải thoát.
Hỏi 3- Theo con hiểu muốn phân đoạn và đáp án cho được chính xác thì cần phải có hai yếu tố là: vốn ngữ pháp và sự cảm nhận của tu sinh trong đó sự cảm nhận thể hiện tâm hồn trách nhiệm, thanh tịnh đến cỡ nào.
Con suy nghĩ như thế này: người nào mà nội tâm thanh tịnh nhiều thì sẽ dễ cảm nhận những đức hạnh và lột tả hết được những đức hạnh ấy càng nhiều. có phải như vậy không thưa Thầy?
Vì con căn cứ theo lời dạy của đức Phật giới luật làm thanh tịnh tri kiến cho nên con nghĩ rằng nếu tâm hồn của con mà thánh thiện thanh tịnh nhiều thì sự cảm nhận sự lột tả đạo đức trong bài học sẽ càng sâu sắc chính xác hơn. Đó chính là sự rung động của nội tâm . Có phải vậy không thưa Thầy?
Tóm lại theo suy nghĩ thì sự phân đoạn và đáp án của tu sinh chúng con là một quá trình còn dài và phải nương tựa theo đáp án chuẩn của Thầy để hoàn thiện dần, nâng dần tri kiến hiểu biết của mình. Còn điều quan trọng và thiết yếu nhất, là sự nhận thức ý nghĩa bài học rồi rút ra những ứng dụng cho bản thân mình. Càng giải trình chu đáo chúng con càng nhận ra nhiều bài học liên quan cho bản thân mình.
Thưa Thầy trên đây là sự nhận thức chủ quan của bản thân con là như vậy không biết có chính xác không? Nếu có điều chi thiếu sót, con kính xin Thầy điều chỉnh bổ xung giúp cho con hiểu chính xác hơn.
Đáp 3- Đúng vậy! Ngữ pháp rất cần nhưng cảm nhận đức hạnh còn cần nhiều hơn nữa, khi gạch đít những từ xác định đức hay hạnh xong thì sự cảm nhận đức hạnh có dễ dàng hơn nhiều, nhưng dù sao sự cảm nhận trong tâm thanh tịnh do đức hạnh lập thành thì không một đức hạnh nào mà không nhận ra được.
Càng áp dụng đức hạnh xả tâm thì tâm càng thanh tịnh. Tâm càng thanh tịnh thì cảm nhận đức hạnh về bài học rất dễ dàng, vì thế sự nhận xét của con rất đúng.
Hỏi 4- Thưa Thầy, có phải là trong một phân đoạn mà có nhiều câu thì có những câu phụ câu chính. Câu phụ như mang tính chất giới thiệu làm nền tảng tiền đề dẫn dắt còn câu chính là diễn tả kết quả, nội dung cần lột tả, dẫn đạt đến người nghe và như vậy đạo đức chính sẽ nằm trong những câu ấy phải không?
Đáp 4- Đúng vậy! Câu phụ mang tính chất giới thiệu còn câu chính mang tính chất đạo đức. Khi phân biệt được như vậy thì phân đoạn và đáp án rất dễ dàng không còn khó khăn với các con nữa. Bởi vậy càng học đạo đức thì trình độ văn hóa các con càng tiến xa trên đường kiến thức văn hóa nhận thức sâu sắc hơn.
Hỏi 5, Ngoài ra trong một câu thì động từ thường đóng vai trò chính để diễn đạt nội dung và ý nghĩ của câu đó. Cho nên căn cứ vào các động từ này sẽ giúp cho người đọc nhận ra ý nghĩa, nội dung muốn diễn đạt của câu ấy, đoạn văn ấy phải vậy không thưa Thầy ?
Ví dụ: như trong một đoạn của bài “Đánh cắp chính mình” thì những từ trộm là động từ ăn trộm cũng chứa động từ trộm trong này. Hoặc trong các đoạn khác thì những từ bị bắt kết án, đắn đo suy nghĩ đều là các động từ chỉ hành động diễn tả ý nghĩa nội dung cần diễn đạt cho nên nó chứa đựng sự thể hiện trong đó… có phải vậy không thưa Thầy ?
Đáp 5- Đúng vậy! Động từ, tỉnh từ, một cụm từ thường đóng vai trò chính để diễn đạt nội dung ý nghĩa đức hạnh. Cho nên khi gạch đít những từ này thì nhận thức đạo đức không sai chút nào cả. Vì thế sự phân đoạn và đáp án rất dễ dàng.
6, Thưa Thầy trong một đáp án mà có nhiều đức thì làm thế nào để nhận biết đức chính của đáp án đó để giải trình không bị lệch lạc ví dụ Như ở đoạn của bài “Đánh cắp chính mình”. Đáp án là đức ái ngữ ca ngợi khẩu hành. Như vậy có phải đức ca ngợi là chính, còn ái ngữ là bổ nghĩa cho sự ca ngợi đó có phải vậy không?
Có tu sinh cho rằng ở đây ái ngữ là đức chính vì nó đứng trước ca ngợi, nó để đựơc nhấn mạnh hơn. Thường thường thì như vậy nhưng trường hợp này có đúng thế không thưa Thầy? cũng tương tự như vậy trong đoạn 4 bài này đáp án là. Đức hiếu sinh tự giác thành thật giải bài khẩu hành. Theo con hiểu ở đáp án này thì đức chính ở đây là tự giác và thành thật còn đức hiếu sinh là bổ nghĩa cho câu đáp án này tức là thuộc đứa hiếu sinh (thiển hiện thương mình) vì vậy mà con sẽ giải trình về sự tự giác thành thật để dẫn đến kết quả là thương mình.
Hay là đức hiếu sinh chính ở trong câu này thưa Thầy?
Con thấy có một số đáp án như :
Đức ly tham hoán cải, Đức ly tham tàm quý .. thì cón ghĩa sự hoán cải sự tàm quý là ý nghĩa của đáp án này phải không thưa Thầy. Còn nói ly tham thì chỉ chung về lĩnh vực của đức ấy? Không biết những suy nghĩ của con như vậy có đúng không? Vì nếu hiểu sai chúng con sẽ căn cứ sai và giải trình sai Thầy ạ! Do vậy mà chúng con xin Thầy hướng dẫn thêm để chúng con có nhận thức chính xác.
Đáp 6- Muốn xác định đáp án không sai về đức hạnh thì các con phải học năm đức nhân bản:
1- Hiếu sinh
2- Đức ly tham
3- Đức chung thủy
4- Đức Thành thật
5- Đức minh mẫn.
Năm đức trên đây là năm đức gổc, đức chính, còn tất cả đức hạnh khác đều là những đức hạnh phụ.
Ví dụ: Như trong đáp án bài “Đánh cắp chính mình” có “ĐỨC ÁI NGỮ CA NGỢI KHẨU HÀNH”. Nếu trong đáp án này muốn làm rõ nghĩa đầy đủ dễ hiểu thì nên viết như sau: “ĐỨC HIẾU SINH, ÁI NGỮ, CA NGỢI KHẨU HÀNH”. Qua đáp án này các con gạch đít những từ này và xét thấy HIẾU SINH, ÁI NGỮ, CA NGỢI. Cho nên HIẾU SINH chỉ cho các con thấy nó là ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN nằm trong NGŨ ĐỨC hiện rõ, còn ÁI NGỮ, CA NGỢI thì nằm trong đức HIẾU SINH, chứ không nằm trong NGŨ ĐỨC, nhưng đức HIẾU SINH không nói ra tức là “ẩn” hình, nhưng chúng ta phải hiểu trong ÁI NGỮ, CA NGỢI là có đức HIẾU SINH. Vì thế chúng ta có thể viết như sau: “ĐỨC ÁI NGỮ, CA NGỢI”, vì trong “ÁI NGỮ, CA NGỢI” đã có đức “HIẾU SINH” hoặc viết ngắn gọn hơn nữa là “ĐỨC CA NGỢI” vì trong “CA NGỢI” đã có đức “HIẾU SINH” và “ÁI NGỮ”. Vậy trong đáp án này đức HIẾU SINH là chính, nhưng vì động từ “ẩn” núp phía sau trợ giúp chủ đề xác định CA NGỢI làm sáng tỏ ĐỨC CA NGỢI, như chúng ta đã biết, nếu không có đức HIẾU SINH làm gì chúng ta CA NGỢI. Phải không các con?
Ở đây vì muốn hướng dẫn các con phân đoạn đáp án không sai, cho nên Thầy khéo dụng, lúc thì có ĐỨC HIẾU SINH, lúc thì không có ĐỨC HIẾU SINH, nhờ đó lần lược hướng dẫn các con hiểu biết phân đoạn đáp án cho rõ ràng hơn mà không sợ sai nữa.
Đáp án 4 trong bài “Đánh Cắp Chính Mình” thì thêm “ĐỨC HIẾU SINH TỰ GIÁC THÀNH THẬT GIẢI BÀY KHẨU HÀNH để các con nhận xét ĐỨC HIẾU SINH là chính, mà ĐỨC TỰ GIÁC, THÀNH THẬT là phụ, nhưng TỰ GIÁC và THÀNH THẬT sẽ làm nổi bậc ĐỨC HIẾU SINH. Cho nên THƯƠNG MÌNH thì phải TỰ GIÁC và THÀNH THẬT, chứ không phải TỰ GIÁC và THÀNH THẬT rồi mới THƯƠNG MÌNH.
ĐỨC LY THAM HOÁN CẢI….; ĐỨC LY THAM TÀM QUÝ….Vì chính có LY THAM mới có HOÁN CẢI; vì có LY THAM mới có TÀM QUÝ như vậy LY THAM là chính còn HOÁN CẢI và TÀM QUÝ là phụ mà LY THAM là đạo đức nhân bản nằm trong NGŨ ĐỨC, còn HOÁN CẢI và TÀM QUÝ nằm trong đức LY THAM chứ không nằm trong NGŨ ĐỨC. Cho nên con hiểu như vậy là sai không đúng theo ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ của Phật giáo.
Hỏi 7- Thưa Thầy chúng con hay bị nhằm lẫn khó xác định ở phần khẩu hành với ý hành trong một số trường hợp .
Ví dụ: trong “Bài danh vọng và hạnh phúc” từ đoạn 4 cho đến đoạn 12 đều thuộc khẩu hành. vậy khẩu hành ở đây là sự thể hiện lời nói của ai vậy? Có phải của tác giả không? Làm sao để phân biệt và nhận ra khẩu hành ở những trường hợp như vậy thưa Thầy.
Thông thường chúng con hay căn cứ vào đâu nói nằm trong hoặc kép hoặc các động từ nói, kể rằng khen ngợi để kết luận đó là khẩu hành .
Còn như một đoạn văn kể chuyện như thế này con hay nghĩ đến tư tưởng nên hay cho rằng đó là ý hành. Những so sánh lại với đáp án của Thầy thì thấy khẩu hành con cảm thấy bối rối Thầy ạ !
Vì vậy mà con kính xin Thầy chỉ dạy giúp con thêm về cách nhận ra khẩu hành văn cho chính xác, thưa Thầy .
Thưa Thầy trên đây là những sự suy nghĩ, nhận thức nông cạn của bản thân con qua vấn đề triển khai tri kiến để trau dồi đức hạnh. Vậy xin Thầy điều chỉnh, bổ sung và chỉ dạy thêm để giúp con sự nhận thức của con được chính xác và hoàn thiện hơn con rất cảm ơn Thầy !
Ngoài ra con cũng nhận thức rằng dù sao thì những bài học, bài thi Thầy gửi về đều có ý nghĩa gíup tu sinh xả tâm trong giai đoạn đó nên con con thấy việc làm bài kịp thời vẫn là hay nhất vì nó sẽ phù hợp với giai đoạn đó, với tâm trạng của tu sinh ở giai đoạn đó. Cho nên tu sinh nếu làm bài chăm chỉ, chu đáo thì bài vỡ Thầy gửi về luôn phù hợp, không sợ bị khó khăn thường thì bài làm chúng con không tới một tuần là chu đáo . vì vậy mà mỗi tuần có một bài kiểm tra là rất hay. Và con tin rằng thầy biết lúc nào nên gửi bài về để giúp tu sinh chúng con đúng lú. Do đó việc làm bài hợp thời sẽ đem lại lợi ích xả tâm cho chúng con rất lớn. Còn việc phân đoạn và đáp án thì là việc lâu dài, sẽ hoàn thiện dần dần từ từ theo sự tu tập, học tập theo chúng con cùng với sự dìu dắt nâng cấp của Thầy. Bởi vì con nghĩa rằng Thầy có những phương pháp độc đáo để giúp chúng con triển khai tri kiến. còn việc triển khai được đến đâu là còn tuỳ thuộc vào sự nhiệt tâm khả năng của mỗi người tu sinh chúng con. Có phải như vậy không thưa Thầy ?
Cuối cùng con xin cảm ơn Thầy và trong sự trình bày của con có điều chi sơ sót xin kính mong Thầy tha thứ và chỉ dạy cho con.
Đáp 7:Trong bài “Danh vọng và hạnh phúc” đáp án 2: “ĐỨC KHEN THƯỞNG KHẨU HÀNH”, vì trong đoạn 2 có từ “Vua bảo” tức là nhân vật trong chuyện nói, do đó nên biết rõ là KHẨU HÀNH, còn đoạn 4 đến đoạn 12 là tác giả “ẩn” dùng lời nói khuyên mọi người nên phải dùng “KHẨU HÀNH”. Đúng là ở đây nên dùng Ý HÀNH là vì văn kể chuyện, nhưng bài này là bài học nhân quả về đức LY THAM quá tuyệt vời. Tám đoạn này dùng để chỉ Ý HÀNH của tác giả thì chưa thấy sâu xa. Nếu dùng Ý HÀNH đó mới chỉ là gieo “NHÂN” thì thiếu sức thuyết phục. Còn muốn 8 đoạn này có sức thuyết phục mạnh mẽ của tác giả đối với mọi người thì phải dùng “KHẨU HÀNH” mà “KHẨU HÀNH” thì mới chính là “QUẢ”
Cho nên, một đoạn văn kể chuyện hay một đoạn văn viết thư đều gọi là Ý HÀNH, nhưng nên lưu ý NHÂN QUẢ trong văn kể chuyện hay văn viết thư đều nhắm vào cá nhân hay chỉ chung cho tập thể hoặc chỉ cho cả nhân loại, như kinh Phật thì đó là lời nói của đức Phật dạy cho nhân loại, (Phật thuyết như thị ngã văn nhất thời…) Ở đây lời nói của tác giả có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với nhiều người thì nên dùng “KHẨU HÀNH” để thành quả ly tham.
MỤC LỤC
Lời nói đâù 7
Thiện thảo I 16
Tu sinh I (2-1- 2007) 26
Sư cô Liên Châu (6-2-2007) 30
Chơn Thành I (7-2-2007) 33
Chơn Thành II 40
Minh Hữu 43
Tu sinh II 45
Mỹ Tiên 47
Biên soạn giáo án 51
Chơn Niệm I 53
Giác Thường 56
Chơn Thành III (4-1-2007) 61
Mỹ Linh 67
Chơn Thành IV 70
Phước Tôn I 71
Chơn Niệm II 73
Từ Phước 78
Tu sinh III 79
Kim Quang I (6-2-227) 87
Phước Tồn II 92
Tâm Hương 95
Minh Nhân I 98
Tu sinh IV (24-12-2006) 104
Thanh Quang 105
Liễu Vân 108
Diệu Vân 115
Thanh Trí 118
Minh nhân II 126
Thiện Thảo II 128
Ngọc Trung 129
Nguyên Trí 133
Thiện Thảo III 140
Thanh Dung 141
Liên Châu TP HCM 146
Phật tử I (24-10-2006) 148
Phật tử II (24-11-2006) 152
Diệu Linh 158
Liễu Huệ 164
Liễu Ngọc I (30-10-2006) 170
Liễu Thiện I (30-10-2006) 174
Liễu Thiện II (19-10-2006) 178
Thiện Tâm I (27-3-2007) 182
Liễu Ngọc II (2-10-2006) 184
Diệu Minh 185
Hải Tâm 186
Chơn Thành V 188
Minh Nhân III 189
Thanh Quang I 192
Thanh Quang II 198
Từ Quang I 203
Từ Quang II 208
Thanh Quang III 210
Chơn Thành VI (26-11-2006) 212
Linh Mục I 213
Tịnh Quang 216
Tu sinh V 218
Buổi lễ thế phát 225
Buổi lễ ra mắt chùa Ngô 227
Phật tử III 232
Liễu Châu 234
Phật tử IV 235
Tu sinh VI 246
Tu sinh VII (9-9-2007) 254
Trả lời những thắc mắc 262
Phật tử IV 265
Chánh Kiến 268
Tuệ Hạnh 269
Linh Mục II 279
Sư cô Liên Châu II 282
Thiện Tâm II (29-1-2008) 287
Kim Quang II 293
Liễu Ngọc III 306
Thiện Tâm III (5-2-2008) 315
HẾT
ẤN TỐNG KINH RÈN NHÂN CÁCH HIẾU SINH VÀ LY THAM TẬP I, II
1- Gia đình sư cô Quảng Kính thành tâm cúng dường ấn tống in kinh RÈN NHÂN CÁCH ĐỨC HIẾU SINH tập I, II và ĐỨC LY THAM hồi hướng cho phụ thân là Nguyễn Rân chết vào ngày… tháng 12 năm 2007 được tái sinh làm người gặp được Chánh pháp của Phật để sớm tu hành giải thoát
2- Gia đình bà Lê Thị Hoa thành tâm cúng dường ấn tống in kinh RÈN NHÂN CÁCH ĐỨC HIẾU SINH tập I, II và ĐỨC LY THAM hồi hướng cho gia đình và bà con xóm làng được bình an và sớm hiểu ra đạo đức nhân bản - nhân quả.
3- Gia đình cô Diệu Linh ở Hà Nội thành tâm cúng dường ấn tống in kinh RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH tập I, II và ĐỨC LY THAM hồi hướng cho mọi người dân ở Nam Căn tỉnh Cà Mau gặp được những sách đạo đức này và thắm nhuần đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người.
vvvv
DANH SÁCH PHẬT TỬ ẤN TỐNG KINH ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT
1- Nguyện Thị Đoan ĐC: Nhà C9B ngõ 19 phòng 111, phố Hoàng Ngọc Phách - Đống Đa – Hà Nội.
2- Bùi Minh Tâm, nhà số 4, ngõ 319 đường Nguyễn Tam, Hoàng Mai, Hà Nội.
3- Nguyễn Minh Nguyệt. Ngõ 90, nhà C2, phòng 301, phố Võ Thị Sáu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Xin ấn tống kinh Đường Về Xứ Phật tập X hồi hướng cho chồng và hai con gái là:
1. Đinh Xuân Tính
2. Đinh Thiên Tú
3. Đinh Kim Cương
4- Nguyễn Thị Thế, nhà số 5 – 6 tập thể nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, phố Thọ Lão, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
DANH SÁCH
PHẬT TỬ ẤN TỐNG KINH
Gia đình cô DIỆU LÂM cúng dường in kinh
1- Chu thị Lâm Pd = Diệu Lâm
2- Nguyễn Hữu Thảo Pd= Thanh Thành
ĐC: nhà số 2, ngõ 129 đường La Thành
Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa – TP Hà Nội.
3- Nguyễn thị Trang Pd = Liễu Trang
4- Nguyễn Xuân Bình Pd = Thanh Bình
5- Nguyển Thanh Tùng Pd = Thanh Tùng
6- Nguyễn Huyền Anh Pd = Liễu Anh
ĐC: Nh A7 phịng 101- khu TTĐH Thủy Lợi, Quận Đống Đa, Hà Nội.
7- Nguyễn Thị Hòa Pd = Liễu Thu
8- Phạm Đình Chiến Pd = Thanh Đức
9- Phạm Thu Hương Pd – Liễu Thủy
10- Phạm Thu Hiền Pd = Liễu Hiền
ĐC: Dẫy nhà T4 phòng số 7 TTBô Y Tế 138 Giảng Vỏ quận Ba Đình, Hà Nội.
11- Nguyễn Thị Kim Thanh Pd = Liễu Thanh
12- Nguyễn Quốc Minh Pd = Thanh Minh
13- Nguyễn Thị Thanh Hải Pd = Liễu Hải
14- Nguyễn Quốc DươngPd = Thanh Tâm
ĐC: Nhà số 7, ngõ 19 đường Giải Phóng Tổ 2 Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
15- Nguyễn Mạnh HùngPd = Thanh Hùng
16- Nguyễn Mai Lan Pd = Liễu Lan
17- Nguyễn Lan PhươngPd = Liễu Phương
18- Nguyễn Mai Anh Pd = Liễu Mai
19- Nguyễn Ngọc Anh Pd = Liễu Ngọc
ĐC: Số nhà 93 Hồ Văn Thuê- Phường 9 Quận Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh.
20- Nguyễn Mạnh Hưng Pd = Thanh Trúc
21- Lê Quỳnh Mai Pd = Liễu Mai I
22- Nguyễn Mạnh Hoàng Pd = Thanh Hoàng
DANH SÁCH NHỮNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ TRONG TỔ ĐOÀN KẾT Ở HÀ NỘI ẤN TỐNG KINH
1- Gia đình cô Chu Thị Lâm Pd = Diệu Lâm
Nguyễn Hữu Thảo Pd = Thanh Thành
ĐC: nhà số 2, ngõ 129 đường La Thành
Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa – TP Hà Nội.
2- Gia đình cô Trần Thị Thuận Pd=Chí Hạnh
Phí Công Tôn Pd = Minh Trí
ĐC: Nhàsố 87 Thái Thịnh–Đống Đa-Hà Nội.
3- Gia đình cô Nguyễn Thị Thủy Pd=Liễu Vân
ĐC: C1- số 18 Nam Thăng Long - Tây Hồ -Hà Nội.
4- Gia đình cô Những Pd = Liễu Đạo
ĐC: 210 – C7 Nghĩa Tân – Q Cầu Giấy- Hà Nội.
5- Cô Thục Pd= Liễu Đức
ĐC: 8- M3- ngách 56 Hoàng Mai – Hà Nội.
6- Cô Phương Trâm
7- Nghiêm Xuân Trường Pd: Chánh Tâm
Số 23 – A16 T2 Bộ Công An Thanh Xuân Hà Nội.
8- Cô Đoan Pd: Từ Đức
ĐC: Phòng 110 – C9B – Ngõ 9 – Hoàng Ngọc Phách – Láng Hạ- Đống Đa – Hà Nội.
9- Gia đình cô Trình Pd: Liễu Pháp
ĐC: Số 3 – Ngách 515/70 Hoàng Hoa Thám - Ba Đình - Hà Nội.
10- Nhóm Phật tử cô Trình
11- Cô Hồ Thị Sinh Pd: Hương Ngọc
ĐC: Trần Bình Trọng – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
12- Vũ Thị Lan Pd: Thuần Tính
ĐC: Trần Nhân Tông – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
13- Cô Thuần Tâm
ĐC: 52 Nguyễn Đình Chiểu – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
14- Nhóm Phật tử Cô Đỗ thị Bính Pd: Nguyên Hòa
ĐC: Hải Phòng.
15- Cô Đinh Thị Lan
ĐC: Đ4 – Số 3 Thanh Xuân Bắc Hà Nội
16- Cô Thế
ĐC: Phố Lò Đúc – Hai Bà Trưng - Hà Nội.
17- Cô Đinh Thị Lan Pd: Nguyên Hạnh II
ĐC:Số 5 – Ngach 45/ 10 – Ngõ 445 – Lạc Long Quân – Tây Hồ – Hà Nội.
vvvvv
DANH SÁCH NHỮNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ Ở PHAN RANG ẤN TỐNG KINH
Các nhóm Phật tử Phan Rang, Ninh Thuận:
Địa chỉ: Phan Rang, Đông Hải, Ninh Thuận.
1- Mai Thị Phúc
2- Lê Thị Lan - Pd: Trí Lan
3- Nguyễn Thị Tư – Pd: Minh Thiện
4- Nguyên Thủy nhóm Hò Rò
- Địa chỉ: Văn Hải, Phan Rang.
5- Trần Thị Đầy – Pd: Minh Từ
6- Bùi Thị Hoa – ĐC: Bảo An, Tháp Chàm
7- Lê Văn Nhị - Pd: Minh Ngộ.
8- Diệp Lục Tỷ - Pd: Minh Pháp
9- Diệp Lục Di – Pd: Minh Nghĩa
10- Nguyễn thị Cảnh
- Địa chỉ: Dư Khánh, Minh Hải
11- Trần Tâm - Địa chỉ: Đông Hải, Phan Rang.
12- Nguyễn Thị Thu – Pd: Trí Phương
13-Lê Thị Thanh Kim – ĐC: Mỹ Đông, Phan Rang.
14- Nguyễn Thị L ê – ĐC: Nhơn Sơn, Văn Hải
Ước nguyện cho mẹ Bùi Thị Cang.
15- Phan Thị Thanh – Pd : Quảng Ly
16- Bùi Thị Chúc – Pd: Liễu Trúc.
17- Trần Thị Đào – Pd: Liễu Kim.
18- Tô Thị Thanh Hà – Pd: Liễu Hà
19- Trần Thị Hiện – ĐC: Phan Rang
20- Huỳnh Thị Mai – Pd: Nguyên Tịnh
21- Nguyễn Thị Liên – Pd: Liễu Châu
22- Nguyễn Thị Xoan – Pd: Thuần Tâm
23- Nguyễn Thị Lan – Pd: Liên Hạnh II
Ước nguyện cho cha chồng.
24- Lê Văn Sen – Pd: Minh Thiện II
Chúng con thành kính dâng lên tịnh tài xin ấn tống kinh sách đạo đức của Tu Viện Chơn Như, với ước nguyện mọi người trên hành tinh này đều được đọc
1- Gia đình Tâm Hương thành kính cúng dường tịnh tài in kinh “Giáo Án Rèn Nhân Cách ĐỨC CHUNG THỦY” Tổ Đoàn kết Hà Nội.
2- Gia đình Nguyễn Thị Ân thành kính cúng dường in kinh.
3- Gia đình Vũ Thị Diệu Linh pháp danh Thích Nữ Nguyên Thành cúng dường in một đầu sách “Tập 4 VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG”
4- Gia đình Nguyễn Thị Thế thành kính cúng dường in kinh Số 5 Â Tập thể nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo- Hà Nội.
5- Cháu Thích Minh Đức
6- Cháu Thích Nữ Thanh Tâm Thiện nhà số 5, đường Nguyễn Thị Định,Quận Sơn Trà Đà Nẵng.
7- Cháu Định Bảo Linh 36 tổ 8 phường Tân Mai.
8- Đặng Thị Vọng
9- Hương Ngọc
10- Liễu Tịnh
11- Nguyễn Thị Thu thành kính cúng dường in kinh
Nguyễn Thị Ân Pháp danh Nguyên Thành cùng các cháu nội ngoại:
12- Nguyễn Đức Anh số nhà 8 ngõ 73 phố Hai Bà Trưng Hoàn Kiếm – Hà Nội.
13- Nguyễn Trung Kiên số nhà 15A Hàng Cót, Hàng Mã, Hoàn Kiếm - Hà nội.
14- Nguyễn Hữu Đức nhà số 20 phố Hòe Nhai, phường Trung Trực, Ba Đình - Hà Nội.
15- Hoàng Phương Nhi số nhà 10 Ngõ 73 phố Hai Bà Trưng, cửa Nam, Hoàn Kiếm - Hà Nội thành kính cúng dường in kinh.
16- Tổ Tinh Tấn chùa Quán Xứ Hà Nội ông bà Thức thành kính cúng dường tịnh tài in kinh.
17- Gia đình Vũ Thị Thanh pháp danh Diệu Thanh số nhà 1/191 Hàng Kênh, Lê Chân, Hải Phòng thành kính cúng dường tịnh tài in kinh
18- Vũ Ngọc Khang ở Pháp thành kính cúng dường tịnh tài in kinh.
19- Lê Thị Nga số nhà 50 Cầu Đất.
20- Vũ Anh Tuấn
21- Vũ Thùy Linh
22- Vũ Hoài Nam
23- Đỗ Thị H Bích thành kính cúng dường tịnh tài in kinh.
vvvv
DANH SÁCH
PHẬT TỬ ẤN TỐNG KINH
Gia đình Diệu Linh “LÊ VĂN” xin ấn tống kinh “RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH” ước nguyện cho người dân ở Nam Căn Cà Mau gặp được sách này.
vvvvv
Những bức tâm thư được ra đời như ánh sáng bình minh. Nó sẽ xua tan những bóng đêm đen tối phủ trùm khắp không gian đang tan dần, nhường lại cho một ngày tươi sáng bắt đầu; chim muông ca hót líu lo trên cành để chào đón một nền đạo đức Nhân bản - Nhân quả ra đời, đem lại hạnh phúc cho loài người và muôn loài vạn vật trên hành tinh này.
Kính thưa quý phật tử và bạn đọc! Sau một năm đức Trưởng lão Thích Thông Lạc nhập diệt, chúng tôi góp nhặt những tâm thư của Thầy để hoàn thành cuốn sách “Những Bức Tâm Thư, tập 3”. Đây là những lời vàng ngọc, thắm thiết chứa đầy tình yêu thương của Người trao gửi đến tay những học trò của mình. Không những thế, đây còn là tình thương bao la vô bờ bến mà đức Trưởng Lão trao gửi lại cho nhân loại. Bởi những bức tâm thư này là những lời chỉ thẳng cho con người thấy cuộc đời này là Khổ; chỉ thẳng cho con người thấy có một trạng thái hết khổ, đó là Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự mà ai ai cũng có thể nhận biết được. Những bức tâm thư này cũng chỉ cho con người thấy nguyên nhân của Khổ là do lòng ham muốn, do đời sống của chúng ta thiếu đạo đức; đạo đức làm Người cho đúng thật làm Người; đạo đức làm Thánh cho đúng thật làm Thánh. Cho nên, chỉ có con đường tu dưỡng theo đạo đức Nhân bản - Nhân quả của Phật giáo thì mọi người mới biết sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, thì ngay đó, chính thế gian này đã trở thành nơi Cực lạc, Niết bàn chân hạnh phúc.
Kính thưa quý bạn! Đức Trưởng lão Thích Thông Lạc nhập diệt là một mất mát quá lớn đối với chúng ta. Người ra đi thanh thản, an lạc vào cõi vĩnh hằng vì đã hoàn thành tâm nguyện dựng lại chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni; một chánh pháp tưởng chừng như đã bị ngoại đạo đồng hóa, che giấu, diệt phá mất hoàn toàn. Với trí tuệ Tam Minh của một bậc Thánh, những gì có thể làm được lợi ích cho loài người thì đức Trưởng Lão đã làm cho đến hơi thở cuối cùng. Bởi vậy, cũng như đức Phật, cuộc đời của Người đã hoàn toàn viên mãn.
Suốt quãng đời 32 năm hoằng pháp từ sau khi chứng đạo, Trưởng lão Thích Thông Lạc đã viết hoàn thành một số lượng sách đồ sộ mà người thường khó có thể làm nổi. Bên cạnh đó, Người còn truyền lại tâm huyết, cũng như chỉ dạy cách thức soạn thảo giáo án, dàn bài cho những thế hệ kế tục tiếp nối hoàn thành chương trình giáo dục tám lớp Bát Chánh Đạo của Phật giáo, để đào tạo con người từ phàm phu trở thành bậc Thánh nhân vượt ra khỏi sinh tử luân hồi.
“Những Bức Tâm Thư” đã làm tỏa sáng rực rỡ nghĩa lý thâm sâu của chánh Phật pháp. Khi cuốn sách này đến tay quý bạn, mong rằng những lời dạy Trưởng lão Thích Thông Lạc sẽ giúp cho quý bạn được đầy đủ ý chí, nghị lực và nhiệt tâm; giúp cho quý bạn được hoàn thiện tri kiến của mình đúng với chánh pháp, để từ đó, quý bạn từng bước chắc chắn thẳng tiến về cánh cửa giải thoát thanh cao, nơi có từ trường bất động của Phật và Thầy đang chờ đón chúng ta.
Kính ghi
Tu Viện Chơn Như
✿✿✿
Xin chào các bạn thân mến. Kính thưa các bạn! Mục đích của các bạn về đây là tìm con đường chân chánh của đạo Phật, để cứu mình thoát vòng đau khổ của kiếp làm người, chứ đâu phải các bạn về đây để tìm cái ăn, cái ngủ...
Ở đây đâu phải là nơi giải trí, nên có gì vui. Phải không hỡi các bạn?
Nếu các bạn thích vui, thích nói chuyện thì ngoài đời không thiếu gì trò vui, không thiếu gì chuyện để các bạn nói. Còn ở đây thì ngược lại, không có trò gì vui cả, mà còn phải sống im lặng, im lặng như Thánh.
Có như vậy các bạn mới thật sự sống với nội tâm của mình, sống cho mình; có như vậy các bạn mới thấy được sự Thanh Tịnh của thân tâm trong không gian và thời gian; có như vậy các bạn mới thấy được tâm của mình Tỉnh Thức trong từng hành động thân, khẩu, ý; có như vậy các bạn mới nếm được mùi vị giải thoát của đạo Phật; có như vậy các bạn mới thấy Tâm Bất Động trước các pháp và các cảm thọ của chính mình; có như vậy các bạn mới thấy được Tâm Định Trên Thân; có như vậy các bạn mới thấy được sự giải thoát của đạo Phật chân thật và rất là tuyệt vời, không thể có bút mực nào hay ngôn ngữ nào diễn tả được sự giải thoát ấy.
Các bạn hãy nhớ kỹ, cứ tu tập cho “đúng pháp”, sống cho “đúng hạnh”, thì sự giải thoát kia sẽ đến với các bạn, đến một cách rất hồn nhiên. Nếu các bạn sống không đúng hạnh, tu không đúng pháp, thì các bạn đừng mong hưởng mùi vị giải thoát của đạo Phật. Mùi vị giải thoát của đạo Phật không phải giới luật, không phải thiền định, không phải trí tuệ, không phải Niết bàn, Cực lạc, mà cũng không phải Phật tánh, Tánh giác hay là Giác ngộ, mà chính là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật mà đức Phật xác định: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành đều do nơi đó sinh ra”.
Tâm không phóng dật là gì?
Tâm không phóng dật là tâm định trên thân; là tâm định tỉnh; là tâm nhu nhuyễn dễ sử dụng; là bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ.
Như vậy, các bạn đã thấu rõ “hạnh ly” và “pháp ly” đều là quan trọng cho sự tu tập của các bạn. Nếu hai điều này mà chỉ tu tập tốt có một điều, thì sự tập của các bạn chẳng có kết quả gì.
Nếu bạn giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh mà tu sai pháp, thì đời đời, kiếp kiếp bạn vẫn còn duyên tu mãi trong chánh pháp của Phật, còn nếu giới luật không nghiêm chỉnh, dù có tu đúng pháp, thì bạn cũng sẽ không bao giờ có giải thoát.
Nếu bạn tu tập đúng pháp mà giới luật không nghiêm chỉnh, thì đời đời kiếp kiếp bạn sẽ mất hạt giống chánh pháp. Cho nên, Giới hạnh quan trọng đệ nhất, còn Pháp tu cũng rất là quan trọng chứ không thể coi thường, vì tu sai sẽ rơi vào thế giới tưởng, và như vậy là bước đường cùng của sự tu tập.
Đến đây, chúng tôi xin chúc các bạn sống đúng Hạnh, tu tập đúng Pháp để thành tựu viên mãn (chứng quả A La Hán).
Kính ghi
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thư Gửi Quý Tu Sinh Và Phật Tử
Kính gửi: Quý sư, quý thầy, quý ni sư và quý nam nữ cư sĩ.
Kính thưa quý vị!
Tu Viện Chơn Như là nơi đào tạo giúp cho những người tu tập LÀM CHỦ SINH,GIÀ,BỆNH,CHẾT, cho nên Tu Viện có nội quy, có kỷ luật hẳn hoi, nếu ai muốn về đây tu tập thì phải sống đúng nội quy và kỷ luật, nhất là sống đúng hạnh độc cư, một hình, một bóng trong thất, chớ không được giao tiếp nói chuyện với bất cứ một người nào, dù người đó đang tu tập tại Tu Viện Chơn Như hay là những thân nhân, hoặc những khách thập phương đến thăm Tu Viện cũng không được tiếp đón nói chuyện, trừ người Tri Khách.
Quý tu sĩ và cư sĩ ở đây nên nhớ: điều quan trọng nhất là không được đến thất của người khác hay nhìn ngó vào thất của họ hoặc tiếp giao nói chuyện với họ.
Ở đây, Tu Viện cung cấp thực phẩm ngày MỘT BỮA NGỌ, ai sống được như vậy thì ở tu tập, bằng sống không được thì cứ về, Tu Viện không cầm giữ một người nào cả. Bởi tu tập là giải thoát cho quí vị chớ không phải giải thoát cho Tu Viện.
Ở đây, quý vị nên nhớ: không được đi khất thực trong làng, trong xóm hay ngoài chợ, vì ở đây không phải là tịnh xá của Khất Sĩ, nên quý sư, quý thầy, quý sư cô và quý nam nữ cư sĩ có về đây không nên đi khất thực, nếu có muốn khất thực thì hãy về Tịnh Xá của mình mà khất thực. Vì thế nơi đây không chấp nhận những tu sĩ đi khất thực, chỉ chấp nhận những tu sĩ sống một mình chuyên lo tu tập.
Mục đích của Tu Viện Chơn Như là lấy HẠNH ĐỘC CƯlàm nếp sống LY DỤC,LY BẤT THIỆN PHÁP. Cho nên, những tu sĩ và cư sĩ nào sống độc cư không trọn vẹn, thường hay ra khỏi thất của mình trong giờ tu tập thì hãy về đi, nơi đây không chấp nhận cho những tu sĩ và cư sĩ sống la cà đầu làng, cuối xóm hoặc đi rong ngoài đường, ngoài chợ mà mượn danh từ KHẤT THỰC HÓA DUYÊN ĐỘ CHÚNG, trong khi mình tu hành chưa làm chủ SINH,GIÀ,BỆNH,CHẾTmà dám lừa đảo người, dối người hóa duyên độ chúng như vậy thì thật là đáng trách.
Những hình bóng tu sĩ và cư sĩ đi la cà ngoài đường là những tu sĩ và những cư sĩ không xứng đáng là những người tu sĩ của Tu Viện Chơn Như, xin mời những tu sĩ và những cư sĩ ấy ra về.
Như ở trên đã nói: mục đích của Tu Viện Chơn Như là lấy HẠNH ĐỘC CƯlàm nếp sống LY DỤC,LY BẤT THIỆN PHÁP, cho nên, sống đúng đức hạnh độc cư thì làm sao có sự tranh chấp cãi cọ, thế mà các cô đã sống ở đây không giữ đúng hạnh độc cư nên mới xảy ra sự tranh chấp cãi cọ, và cũng như các sư, thầy phá hạnh độc cư nên đi khất thực là đã làm sai nội quy của Tu Viện Chơn Như. Vậy quý sư thầy phạm kỷ luật của Tu Viện hãy về đi!
Như vậy, quý cư sĩ và tu sĩ đã phá HẠNH ĐỘC CƯ, nhận thấy lỗi của mình thì nên rời khỏi Tu Viện, đừng để bị đuổi,để bị đuổi xấu hổ lắm, vì mọi người biết được sẽ xem thường. Quí vị có biết không?
Thầy chỉ mong sao, những tu sĩ và cư sĩ phạm kỷ luật của Tu Viện thì hãy về đi,để cho những người không phạm kỷ luật của Tu Viện và có quyết tâm tu tập làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết được ở yên thân tu hành, thì Thầy xin thay mặt những tu sĩ ấy tỏ lòng biết ơn quý vị.
Kính ghi
Trưởng lão Thích Thông Lạc
✿✿✿
Thư Trả Lời Các Câu Hỏi
Hỏi 1: Kính bạch Thầy, chúng con là những người mới vào tu, kinh điển Thầy giảng dạy quá nhiều, nhất là giáo án đường lối tu tập của đạo Phật rất là mênh mông, từ giới đức, giới hạnh, giới tuệ đến giới hành. Chúng con như người lạc vào rừng rậm, chẳng biết lối nào ra. Vậy ngưỡng mong Thầy từ bi thương xót chỉ vạch cho chúng con lối ra.
Đáp: Người mới bắt đầu tu tập theo Đạo Phật thì phải SỐNG ĐÚNG GIỚI LUẬT. Muốn sống đúng giới luật thì người tu sĩ phải HỌC GIỚI LUẬT CHO THÔNG SUỐT, mỗi giới luật phải biết đức hạnh giới luật ở đâu, và hành giới chỗ nào, để thân khẩu ý không phạm giới, giới luật không bị bẻ vụn, ngày ngày sống đúng giới hạnh.
Kế đến, lấy giới bổn PHÒNG HỘ 6 CĂN, không cho mắt dính sắc, tai dính tiếng, mũi dính mùi, lưỡi dính vị, va chạm dính thọ, ý dính pháp.
Kế nữa, phải tập sống đời sống THIỂU DỤC TRI TÚC.
Hằng ngày chia thời gian TU TẬP CÁC ĐỊNH:
1. Định Chánh Niệm Tĩnh Giác (Thân Hành Niệm).
2. Định Niệm Hơi Thở (ổn định hơi thở bình thường, tập tụ điểm).
3. Định Vô Lậu: quán, hướng, xả (bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã, v.v...).
4. Định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu Pháp Hướng Vô Lậu.
5. Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Pháp Hướng Vô Lậu.
6. Định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu với Định Niệm Hơi Thở.
Tất cả các pháp hành này đều nhắm vào diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp, để tâm được giải thoát (an lạc, thanh thản và vô sự).
Đây là GIAI ĐOẠN THỨ NHẤTmà một vị tu sĩ cần phải chấp hành nghiêm chỉnh, tu tập hằng ngày không được biếng trễ.
✿✿✿
Hỏi 2: Kính bạch Thầy, làm sao biết được tâm mình hết lậu hoặc.
Đáp: Tâm hết lậu hoặc là tâm thường quay vào trong thân, không phóng dật theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; trạng thái tâm lúc này thanh thản và an lạc, tâm tư phát khởi điều thiện đối với các pháp. Luôn nghĩ tốt về mọi người, không bao giờ có ý nghĩ xấu với người khác.
Ngược lại, tâm chưa hết lậu hoặc thường lo xa, suy tư chuyện này đến chuyện kia, khởi tâm ham muốn cái này cái kia hay sanh ra việc làm phá hạnh độc cư nói chuyện phiếm, thân tâm luôn hữu sự, đầu óc đầy ắp những sự việc.
✿✿✿
Hỏi 3: Kính bạch Thầy, con chỉ tu một pháp hướng: “Tâm như đất” hằng phút, hằng giây, hằng giờ; con liên tục hướng tâm mình như vậy, có hết lậu hoặc (phiền não) không thưa Thầy?
Đáp: Không, tu như vậy không bao giờ hết lậu hoặc (phá sạch phiền não).
✿✿✿
Hỏi 4: Kính bạch Thầy, con tập sống đúng giới luật của Phật, không vi phạm một lỗi nhỏ, hằng ngày con tu một pháp hướng: “Tâm như đất” có kết quả hết lậu hoặc không?
Đáp: Chỉ được 50% chứ không dứt hết lậu hoặc.
✿✿✿
Hỏi 5: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật và con nhìn cuộc sống bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và con tu tập chỉ một pháp hướng: “Tâm như cục đất” hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không, thưa Thầy?
Đáp: Hết, tu như vậy tâm con sẽ ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm. Cuộc sống tâm hồn con sẽ an lạc, thanh thản như đất.
✿✿✿
Hỏi 6: Kính bạch Thầy, con sống không đúng giới luật, nhưng con tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Định kết hợp với Định Vô Lậu hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, như vậy có diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được chăng?
Đáp: Chỉ hoài công vô ích, con tu như vậy giống như người nấu cát mà mong thành cơm.
Hỏi 7: Kính bạch Thầy, con không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, nhưng con sống với đôi mắt nhìn đời bằng nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và tu tập định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu (kết hợp) với Định Vô Lậu, như vậy con có hết lậu hoặc không?
Đáp: Không, con tu như vậy chỉ được 50% mà thôi.
✿✿✿
Hỏi 8: Kính thưa Thầy, con sống đúng giới luật nghiêm chỉnh, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả và tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác Định câu hữu với Định Vô Lậu. Như vậy, con diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được chăng?
Đáp: Được, con tu như vậy tâm con sẽ hết lậu hoặc, thanh thản và an lạc.
✿✿✿
Hỏi 9: Kính bạch Thầy, con sống không đúng giới luật, con tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu. Kính thưa Thầy, con tu như vậy tâm con có hết lậu hoặc hay không?
Đáp: Không, con tu như vậy chỉ hoài công vô ích.
Hỏi 10: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, con tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không?
Đáp: Con tu như vậy chỉ xả được tâm lậu hoặc 50%.
✿✿✿
Hỏi 11: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Con tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu. Như vậy, con có diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được không thưa Thầy?
Đáp: Được, con tu như vậy sẽ ly dục ly ác pháp, nhập Nhị Thiền rất dễ dàng; tâm lậu hoặc xa lìa để lại một trạng thái an lạc, thanh thản do ly dục sanh.
Hỏi 12: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, giữ gìn nghiêm túc không vi phạm một lỗi nhỏ, không bẻ vụn giới luật, nhưng con không tu Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, như vậy con có hết lậu hoặc không?
Đáp: Không, đó là một lối ức chế tâm, hình thức thì giới luật nghiêm trì, nhưng tâm thì giới luật đã bẻ vụn. Tu như vậy chỉ hoài công, khổ hạnh cho mình chẳng ích lợi gì, giống như các vị sư Khất sĩ (lấy giới nén tâm) chẳng bao giờ ly dục ly ác pháp được, chỉ uổng một đời tu mang hình thức giới luật.
✿✿✿
Hỏi 13: Kính bạch Thầy, con không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh; con không tu các loại định mà chỉ sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, không làm khổ người. Như vậy con có hết lậu hoặc hay không?
Đáp: Không, nếu sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, đó là con đã thực hiện đạo đức Nhân Quả đem lại cuộc sống an lành, hạnh phúc cho gia đình, đem lại cuộc sống hòa hợp an vui cho xã hội và đem lại trật tự phồn vinh cho đất nước, chớ không thể nào con hết lậu hoặc (tham, sân, si) được.
Hỏi 14: Kính bạch Thầy, con không sống đúng giới luật, không tu Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, con chỉ tập Định Niệm Hơi Thở diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền... Tam Thiền, Tứ Thiền có được không thưa Thầy?
Đáp: Không, con tu như vậy sẽ rơi vào tà thiền, tà định mà chẳng bao giờ nhập Tam Thiền được, nhập Tứ Thiền được. Những loại Thánh Định này không để một người còn mang tâm trạng phàm phu mà nhập vào được.
Một người chưa ly dục, ly ác pháp thì không thể nào nhập vào các Thánh Định này.
Vị tỳ kheo phá giới, phạm giới, ăn ngủ phi thời thì Bốn Thánh Định này chỉ là ngôn ngữ suông, chẳng ai nếm được mùi vị của nó.
Bởi vậy, một vị tỳ kheo tu sĩ Phật giáo phải sống đúng giới luật, phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, phải tu tập Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở thì mới ly dục ly ác pháp, mới diệt ngã xả tâm, mới nhập vào Sơ Thiền, v.v...
Đạt được trạng thái ly dục ly ác pháp này, người tu mới có thể nhập Nhị Thiền đến Tứ Thiền và Tam Minh.
Còn giai đoạn thứ nhất không thực hiện được; tâm chưa hết lậu hoặc (phiền não) mà gọi nhập Tam Thiền, Tứ Thiền, thì đó là một điều phỉnh gạt người khác.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Gửi Các Con
LỜI PHẬT DẠY:
1. Thân thường thể hiện hạnh từ bi.
2. Miệng thường nói lời nhân từ.
3. Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt.
4. Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ.
5. Giữ gìn giới của Thánh hiền không tổn khuyết.
6. Nhận đạo Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ.
CHÚ GIẢI:
1- Đức Phật dạy: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi”. Lời dạy này đức Phật thường nhắc nhở chúng ta mỗi hành động nơi thân đều thể hiện lòng yêu thương sự sống của muôn loài. Vì thế, người đệ tử của Phật dù cư sĩ hay tu sĩ đều phải sống giữ gìn từng mỗi hành động của thân mình, làm bất cứ một việc gì đều phải cẩn thận, ý tứ, tỉnh thức để tránh những hành động vô tình hay hữu ý làm tổn thương đau khổ tất cả những loài vật đang sống quanh chúng ta.
Vạn vật và chúng ta đang sống trên hành tinh này đều sinh ra từ một môi trường sống, cùng lớn lên trong môi trường ấy, nên chúng ta phải yêu thương nhau như anh em trong một nhà cùng cha cùng mẹ. Muốn được lòng yêu thương ấy đối với tất cả mọi người, mọi loài trên hành tinh này, thì chúng ta thường tác ý nhắc tâm: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi; thân không được làm điều ác, luôn luôn phải thực hiện điều thiện, phải chánh niệm tĩnh giác trong từng hành động, tránh làm đau khổ mình, đau khổ người và đau khổ các loài vật khác”. Khi nhắc tâm như vậy, chúng ta thấm nhuần hạnh từ bi và tâm rất tỉnh thức. Nhờ đó, cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự.
Nếu chúng ta quyết tâm thân thường thể hiện hạnh từ bi, thì phải suy tư cho cặn kẽ về sự sống của muôn loài, thì chúng ta hiểu rằng: “Tất cả những loài vật đang sống trên hành tinh này đều là anh em, chị em cùng cha, cùng mẹ chung trong một nhà nhân quả”, như đã nói ở trên, chứ đâu phải vạn vật trên hành tinh này là xa lạ. Nhưng khi sinh ra, tùy theo duyên hợp mà có sự sai khác hình hài, tính tình. Do đó chúng ta lầm chấp, phân chia ra nhiều loài khác nhau, rồi lại ăn thịt lẫn nhau, “con vật lớn giết con vật nhỏ, người mạnh ăn hiếp người yếu”. Vì thế, đức Phật thường răn nhắc chúng ta: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi”. Thân thường thể hiện hạnh từ bi, tức là thân thường hành động không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Nhất là không bao giờ ăn thịt lẫn nhau thì mới gọi là thân thường thể hiện hạnh từ bi.
Theo đúng như lời Phật đã dạy: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi”, tức là mỗi hành động phải thực hiện lòng yêu thương sự sống của muôn loài trên hành tinh này thì cuộc đời này sẽ hạnh phúc biết bao! Thế gian này là thiên đàng, cực lạc. Có đúng như vậy không quý vị?
✿✿✿
2- Đức Phật dạy: “Miệng thường nói lời nhân từ”. Vậy nói lời nhân từ như thế nào?
Muốn hiểu rõ câu này thì nên hiểu hai chữ NHÂN TỪ. Vậy nhân từ là gì?
Nhân là con người; từ là lòng yêu thương. Cho nên, “miệng thường nói lời nhân từ”, tức là nói lời yêu thương đến với mọi người và với mọi loài chúng sanh. Lời nói yêu thương là lời ái ngữ. Lời nói ái ngữ là lời nói ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu, thanh lịch, lịch sự có văn hóa nhẹ nhàng, an ủi mọi người, mọi loài vật khi gặp tai nạn, bệnh tật khổ đau hoặc những điều làm cho khiếp đảm, sợ hãi.
Sống trong cuộc đời này, người người đối xử với nhau đều dùng lời nói nhân từ thì hạnh phúc biết bao; thì làm sao có thù hận, có tị hiềm, ganh ghét, v.v...
Lời nói dối là lời nói không thật, nói không đúng sự thật là lời nói không nhân từ, lời nói không có ái ngữ, lời nói làm mất lòng tin của mọi người.
Lới nói li gián là lời nói khiến cho mọi người sống không hòa hợp, không đoàn kết, khiến cho mọi người thù hận ganh ghét nhau, đó là lời nói không nhân từ, lời nói hung ác, lời nói gây chia rẽ, gây đau khổ cho người khác.
Lời nói thêu dệt là lời nói trau chuốt, là lời nói lừa đảo người khác, lời nói như vậy là lời nói không nhân từ, lời nói không ái ngữ, lời nói mà mọi người đều chê trách, lời nói ác khẩu, lời nói hung ác mà người có đạo đức không bao giờ chấp nhận.
Lời nói hung dữ là lời nói chưởi mắng, mạ lị, mạt sát, hăm dọa, dọa nạt người, làm cho người khác khiếp đảm sợ hãi. Đó là những lời nói không nhân từ, không ái ngữ. Làm người, chúng ta nên tránh xa và từ bỏ nói những lời hung ác, kém văn hóa, không đạo đức, v.v... luôn luôn thực hiện lời nói nhân từ, lời nói ái ngữ.
✿✿✿
3- Đức Phật dạy: “Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt”. Trong cuộc đời này, vì lòng tham lam vô độ nên con người sanh tâm ganh đua hơn thiệt, thấy ai hơn mình thì sanh tâm ganh ghét, tị hiềm thường thêm bớt nói xấu người, nói lời li gián gây chia rẽ người này với người kia. Cho nên, ý thường tâm niệm thương xót người khác tức là lòng “Bi”. Lòng bi là lòng thương xót chúng sanh, khi thấy chúng sanh trong cơn hoạn nạn hay bệnh tật khổ đau hoặc đứng trước cái chết sắp đến, chúng ta không thể làm ngơ được.
Cho nên chúng ta luôn nhớ lời Phật dạy: “Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt”. Đó là một tâm niệm thiện, tâm niệm giải thoát, tâm niệm khiến mình và tất cả chúng sanh được an vui giải thoát, tâm niệm không làm khổ đau mình, người, cả hai và tất cả chúng sanh; tâm niệm không hận thù; tâm niệm buông xả tất cả các ác pháp; tâm niệm của người có lòng từ, bi, hỷ, xả. Đó là một tâm niệm cao thượng, một tâm niệm của những bậc Thánh Hiền.
“Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt”. Lời dạy này chúng con xin hằng ngày ghi nhớ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh; để đền đáp ơn chư Phật; ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Đó là một tâm niệm đẹp đẽ và cao thượng tuyệt vời mà làm người ai ai cũng cần phải tu học.
✿✿✿
4- Đức Phật dạy: “Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ”. Đây là lời khuyên của đức Phật đối với những đệ tử xuất gia. Khi đi khất thực thì nhận sự cúng dường vừa đủ, không nên tham nhiều, không nên đòi hỏi món này, món kia, ai cho gì mình ăn nấy, dở ngon không cần chỉ ăn để sống, sống để tu hành, chứ không phải sống để ăn. Sống để ăn tức là chạy theo dục lạc về ăn uống. Vì thế ăn không phải cần ngon; ăn không để mập, để béo, để hưởng thụ tất cả dục lạc trên cõi đời này. Ăn như vậy thì giống như người thế gian. Ăn uống mà giống như người thế gian thì còn nghĩa lý gì là người tu sĩ Phật giáo. Phải không quý Phật tử?
Người tu sĩ Phật giáo ăn để sống như uống một thứ thuốc đắng để trị bệnh đói.
Vì thế người tu sĩ Phật giáo “chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ”. Đó là lời khuyên của Phật đối với những người đệ tử của Ngài, để những tu sĩ này đều sống ly dục ly ác pháp; để những tu sĩ này luôn luôn sống trong hạnh thiểu dục tri túc; để những tu sĩ này luôn luôn sống đúng phạm hạnh. Nhất là để những tu sĩ đang tu tập tại Tu Viện Chơn Như hãy lấy câu này làm lời răn nhắc cho mình khi ăn uống cũng như khi đi khất thực: “Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ”. Phật dạy như vậy xin tất cả tu sĩ Phật giáo dù ở các hệ phái Bắc tông như: Đại thừa, Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông, v.v... Các hệ phái Nguyên thủy như: Nam Tông, Khất sĩ, v.v... phải lấy câu này làm phương châm, làm các câu tác ý tự ám thị hằng ngày để nhắc nhở tâm mình ít muốn biết đủ (thiểu dục tri túc). Nhờ đó giới luật mới nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào; nhờ đó tâm mới ly dục ly ác pháp; nhờ đó tâm mới thanh thản, an lạc và vô sự; nhờ đó con đường tu hành của Phật giáo ngày một thêm sáng lạn; nhờ đó mới chứng đạt chân lí.
✿✿✿
5- Đức Phật dạy: “Giữ gìn giới của Thánh hiền không tổn khuyết”. Muốn hiểu lời dạy này, trước tiên chúng ta nên hiểu giới của Thánh Hiền là gì? Không tổn khuyết là gì?
Giới của Thánh Hiền gồm có: Ngũ giới cư sĩ, Bát quan trai giới cư sĩ, Thập thiện giới cư sĩ, Thập giới Sa Di tăng ni, 250 giới tỳ kheo tăng, 348 giới tỳ kheo ni, kinh Phạm Võng, kinh Sa Môn Quả, kinh Giáo Giới La Hầu La, v.v...
Không tổn khuyết là không sứt mẻ; là không bẻ vụn giới; là không phạm những giới nhỏ nhặt.
Nghĩa của toàn bộ câu: “Giữ gìn giới của Thánh hiền không tổn khuyết”, là giữ gìn giới luật nghiêm nhặt không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
Tại sao lại phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như vậy? Vì giới luật là pháp môn ly dục ly ác pháp; vì giới luật là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai; vì giới luật là pháp môn đầu tiên để tu tập thiền định. Nhờ giới luật Thánh Hiền mà chúng ta tu tập mới có đủ Tứ Thần Túc; nhờ có Tứ Thần Túc mới nhập Bốn thiền và thực hiện Tam minh; nhờ thế chúng ta mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Giới luật Thánh Hiền lợi ích lớn như vậy, thế mà người tu sĩ thời nay tu theo Phật giáo mà phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, xem thường giới, vì thế mà phí bỏ một đời tu tập chẳng đạt được gì, uổng thay! Uổng thay!!!
✿✿✿
6- Đức Phật dạy: “Nhận đạo Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ”. Muốn hiểu lời dạy này chúng ta phải hiểu các từ Thánh Hiền, gốc khổ. Vậy Thánh Hiền, gốc khổ nghĩa là gì?
Như chúng ta đã biết đạo Phật có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Vì thế, Thánh ở đây có nghĩa là người đã sống trọn vẹn đức hạnh nhân bản - nhân quả không làm khổ mình khổ người; còn Hiền ở đây có nghĩa là người đang tập sống đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai.
Cho nên lời dạy: “Nhận đạo Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ”, tức là chấp nhận học tập và rèn luyện đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì tất cả khổ của loài người trên hành tinh này đều dứt hết. Lời dạy này rất đúng, nhưng có những người còn nghi ngờ nên tự hỏi. Tại sao vậy?
Vì không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì còn đâu nỗi khổ nữa. Phải không thưa quý vị?
Lời dạy tuy ngắn gọn, nhưng rất đầy đủ ý nghĩa của đạo giải thoát. Nếu ai hiểu mà không làm đúng theo nghĩa này thì lời dạy chỉ là lời nói suông. Vì thế lời nói của đức Phật chỉ có những người muốn thoát ra bốn nỗi khổ của kiếp làm người và những người chứng đạt chân lí thì mới hiểu được nghĩa lý giải thoát này.
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 16-11-2000
I. CHỈ CÓ VƯỢT QUA
Hỏi: Kính thưa Hòa Thượng, xin Hòa Thượng chỉ dạy cho con được rõ:
“Đứng lại thì chìm xuống, bước tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua”. Vậy bước tới và vượt qua khác nhau như thế nào? Con chưa hiểu hết ý ba câu này.
Đáp: Bước tới và vượt qua là hai danh từ khác nhau và nghĩa cũng khác nhau. Để nêu lên ví dụ thì con dễ hiểu hơn.
Ví dụ 1: Có người chửi mắng con; con không chửi mắng lại mà tâm con tức giận, phiền muộn, đau khổ, đó là nghĩa của sự đứng lại.
Ví dụ 2: Có người chửi mắng con; con liền chửi mắng lại, đó là nghĩa của sự tiến tới.
Ví dụ 3: Có người chửi mắng con; con không chửi mắng lại và cũng không giận hờn người đó, đó là nghĩa của sự vượt qua.
Vì sự nghiệp giải thoát của Phật giáo, đệ tử của đức Phật phải thông suốt lý này, nên cuộc sống hằng ngày không chấp nhận đứng lại, vì đứng lại là thiếu đạo đức đối với mình, tự làm khổ mình, không chiến thắng được hoàn cảnh hiện tại, không chuyển hóa được nhân quả; đó là những người thiếu tri kiến giải thoát, phi đạo đức nhân bản làm người. Người như vậy đối với đạo Phật được xem là người vô minh và hèn nhát.
Vì sự nghiệp giải thoát của đạo Phật, người đệ tử của đức Phật không chấp nhận tiến tới, vì tiến tới sẽ làm khổ mình, khổ người; làm khổ mình, khổ ngườilà người phi đạo đức nhân bản làm người. Người như vậy đối với đạo Phật được xem là người ngu si, người mê muội, người không tĩnh giác. Người như vậy được xem là một ác thú chỉ biết gầm hét, đánh đá, cắn xé nhau, tranh giành, chà đạp lên nhau vì vật chất, vì miếng ăn manh áo, v.v...
Vì sự nghiệp giải thoát của đạo Phật, người đệ tử chân chánh của đức Phật chấp nhận sự vượt qua, vì vượt qua là không làm khổ mình, khổ người; không làm khổ mình, khổ người là người có đầy đủ đạo đức nhân bản làm người; là người có trí tuệ tri kiến giải thoát; là người có đầy đủ trí tuệ nhân quả, biết chuyển hóa được nhân quả; là người khôn ngoan, minh mẫn tĩnh giác; là người đệ tử xứng đáng của đức Phật; là người biến cảnh thế gian thành Thiên Đàng, Cực Lạc; là người đầy đủ Phạm hạnh tâm bất động trước các ác pháp, là bậc chân nhân, là người giải thoát khỏi phiền toái của cuộc đời, là người làm chủ được sanh y; là người thiện hữu xứng đáng cho chúng ta làm bạn. Người như vậy là ngọn đuốc sáng soi đường cho chúng ta đi, là tấm gương soi để cho chúng ta soi chiếu lại mình.
✿✿✿
II. NHẪN NHỤC, TÙY THUẬN, BẰNG LÒNG
Hỏi: Kính bạch Thầy, có một công việc biết là sai, nhưng phải tùy thuận làm, cuối cùng thì phí công, phí của, chẳng lợi ích gì cho mình, cho người. Vậy phải tùy thuận như thế nào? và tùy thuận không bị lôi cuốn nghĩa là sao? Xin Thầy cho ví dụ.
Đáp: Biết việc làm không lợi ích cho mình, cho người, làm sẽ hoài công vô ích mà cứ làm, đó là người không trí tuệ, chứ không phải sống tùy thuận.
Biết việc làm không lợi ích cho mình, cho người, làm sẽ hoài công vô ích, vì thế không làm, nhưng không chống trái lại việc làm của người khác, mặc dù mình có góp ý nhưng có nghe hay không nghe đó là quyền của người khác, đó là sống tùy thuận.
Thấy việc ác không làm theo, nhưng không chống trái việc làm ác của họ, mặc dù chúng ta đã có lời khuyên, đó là sống tùy thuận.
Người ta chửi mắng mình; mình không chửi mắng lại người, nhưng trong lòng có phiền não tức giận là sống nhẫn nhục trong tùy thuận.
Người ta chửi mắng mình mà mình không chửi mắng lại, không giận hờn phiền não, đó là sống tùy thuận.
Người ta mời mình đi đánh bạc mà mình khéo léo từ chối không đi đánh bạc là người sống tùy thuận.
Người ta mời mình uống rượu mà mình lấy cớ bị bịnh không uống rượu được, đó là sống tùy thuận.
Tùy thuận mà không bị lôi cuốn phải sống như thế nào?
Ví dụ, mình là người ăn chay mà đi dự tiệc cưới, hay đám giỗ hoặc đám ma chay, khi ngồi vào bàn tiệc mình tìm bánh, trái cây để ăn, không ăn thịt, cá, đó là tùy thuận mà không bị lôi cuốn.
✿✿✿
III. TU CÓ ĐỐI TƯỢNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong cuộc sống hằng ngày con phải va chạm rất nhiều người và sự việc khiến tâm con bất an. Có phải chăng, nếu con cứ gặp hoài là con không biết tránh duyên? Còn nếu con tránh gặp có phải là con tu không có đối tượng? hay tại con chưa biết tu?
Đáp:Đúng vậy, chính vì phần đông người ta tu theo đạo Phật, nhưng có mấy ai đã tu đúng theo giáo pháp của đức Phật; mọi người đã tu lạc vào giáo pháp Bà La Môn.
Giáo pháp của Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp”hay: “Các pháp ác chớ nên làm”. Nếu chúng ta cố tránh duyên thì làm sao có ác pháp đâu để tu tập; nhờ có ác pháp mới thấy được tâm giải thoát, “phiền não tức Bồ đề” là vậy.
Cho nên, người tu theo đạo Phật phải nghiên cứu và tìm hiểu cho rõ ràng lời dạy của đức Phật rồi mới tu tập, đừng vội cứ nghe đâu nói là Phật thuyết rồi cứ tin theo thì tiền mất tật mang mà còn phí công vô ích.
Có nhiều người hiểu lầm cần phải tránh duyên để sống một mình trong thất tu tập thiền định, sau một thời gian tu tập, chừng nào tâm có nội lực rồi mới tiếp duyên, đó là sự hiểu biết theo kiểu tu tập giáo pháp của Bà La Môn chứ không phải của Phật giáo.
Đức Phật dạy “sống độc cư”, không có nghĩa là sống tránh duyên, mà sống trong mọi hoàn cảnh, mọi duyên nhưng tâm KHÔNG PHÓNG DẬT, tức là sống ngăn ác, diệt ác pháp; tức là sống ly dục, ly ác pháp; tức là sống an trú trong Sơ Thiền.
Từ cuộc sống đó chúng ta suy ra, HẠNH ĐỘC CƯtức là sống trong các chướng ngại mà tâm không hề dao động.
Muốn được vậy, thì người tu theo đạo Phật cần phải có đối tượng để tu tập, vì tu tập trong đối tượng nên phải lấy giới luật làm sự sống, làm thành lũy bảo vệ, làm sự phòng hộ sáu căn, làm Phạm hạnh của bậc Phạm thiên.
Nếu tu tập không có đối tượng là tu theo ngoại đạo, là độc cư theo ngoại đạo, hành theo pháp ngoại đạo. Ngược lại, tu theo đạo Phật sống không tránh né các đối tượng mà tâm không phóng dật tức là sống độc cư, sống trầm lặng, vì thế, thiền định của đạo Phật là THIỀN XẢ TÂM, còn tất cả các loại thiền định khác đều là THIỀN ỨC CHẾ TÂM.
Trong hoàn cảnh của con mà tu tập theo đạo Phật thì phải được trang bị với trí tuệ giới luật, tức là đạo đức làm Người, làm Thánh; đạo đức làm Người, làm Thánh tức là đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
Khi được trang bị với đạo đức như vậy mà con khéo áp dụng vào đời sống hằng ngày thì chính là con tu tập theo đạo Phật, và tu tập như vậy mới thật sự là thiền định.
Thiền định của đạo Phật là một loại thiền định thực tiễn giải thoát trong đời sống của chúng ta. Nếu đã tu tập theo đạo Phật thì chúng ta sẽ tìm thấy sự giải thoát ngay liền, tức là tâm chúng ta thanh tịnh, có nghĩa là tâm chúng ta không còn tham, sân, si và không còn phiền não, đau khổ, bất toại nguyện nữa.
Cho nên, người tu hành theo pháp môn của đức Phật càng có đối tượng, càng có chướng ngại pháp thì sự tu nhanh hơn người tu không có chướng ngại. Nhưng sự tu hành có chướng ngại pháp thì người tu sĩ phải có ý chí lớn - “cưỡi cá kình vượt sóng to” - phải có nghị lực dũng mãnh, phải có gan dạ phi thường, phải có bền chí dẻo dai thì mới tu nổi.
Đạo Phật tu không khó, nhưng khó ở chỗ này, các con nên nhớ lấy: “Tu sai một đường tơ, ngàn năm không thấy đạo”. Chỉ một đường tơ tu sai thì lạc đi hơn ngàn vạn dặm. Đừng nghĩ rằng pháp môn tu nào tu tới rốt ráo cũng về một chỗ. Đừng nghĩ chung chung như vậy không bao giờ có được, vì mỗi con đường đều dẫn về một con đường khác nhau.
Người ở đời muốn cho các tôn giáo hòa hợp, nên mới có những tư tưởng như vậy, nhưng các tôn giáo đều có một mục đích khác nhau, nhất là đối với đạo Phật không có thế giới chân thật; thế giới chỉ là duyên hợp thì làm sao về cùng một mục đích được.
✿✿✿
IV. CHỈ LỖI NGƯỜI PHẠM GIỚI
Hỏi: Kính thưa Thầy, thấy quý thầy tu phạm giới, nếu mình nói ra có phải là mình phạm giới hay không? Trong Bồ Tát giới dạy: “Nếu nói lỗi của tu sĩ sẽ bị tội đọa”. Một cư sĩ có thể nói lỗi của người xuất gia được không? trường hợp này mình phải làm thế nào?
Đáp: Bồ Tát giới là giới luật của các Tổ đặt ra để bịt miệng các cư sĩ, để mọi người không được nói lỗi của tu sĩ. Đó là lối hăm dọa để ngăn chặn người khác nói lỗi mình, để các vị tỳ kheo tăng và ni tự do phá giới luật Phật, đó là mục đích của Bà La Môn có chủ tâm diệt Phật giáo.
Vì như lời đức Phật dạy: “Giới luật còn là Phật giáo còn; giới luật mất là Phật giáo mất”. Do đó, Bà La Môn biết được như vậy nên chế ra Bồ Tát giới, có mục đích là diệt Phật giáo, tạo điều kiện cho tu sĩ Phật giáo phá giới bằng cách thêm bớt trong kinh sách nguyên thủy rất nhiều.
Các Bà La Môn rất khôn khéo bịa đặt ra câu chuyện để sau này chúng tỳ kheo phá giới mà không có tội: “Trong thời đức Phật còn tại thế, lúc bấy giờ có một vị tỳ kheo trời tối mờ mịt còn ôm bình bát đi khất thực để ăn tối, đến một nhà kia đứng trước cửa. Người chủ nhà mở cửa, thấy một bóng đen đứng lù lù; bà ta sợ hãi và té xỉu. Khi tỉnh lại, bà chửi tan nát vị tỳ kheo ấy. Do đó, khi hay được tin này đức Phật mới chế ra giới cấm ăn phi thời, ngày ăn một bữa”.
Câu chuyện trên đây để chứng minh đạo Phật chấp nhận ăn uống phi thời, nhưng vì lý do xảy ra ở trên nên buộc lòng đức Phật phải chế giới cấm ăn phi thời. Điều này thật vô lý! Bởi vì muốn ly tham, đoạn ác, nên người tu sĩ đạo Phật mới không ăn phi thời, vì ăn phi thời là tâm còn tham; tâm còn tham là đi ngược lại với đạo Phật.
Mười ba năm đầu, tuy không chế giới luật, nhưng chúng tỳ kheo và đức Phật không ăn phi thời, vì họ sống đúng Phạm hạnh, cho nên trong kinh thường nhắc đi nhắc lại: “Vì sự nghiệp giải thoát Ta mới sống đời sống Phạm hạnh”. Thưa quý vị, sống đời Phạm hạnh có ăn phi thời không?
Giới luật còn là có người tu chân chánh; giới luật mất là không có người tu chân chánh, vì thế, hiện giờ thắp đuốc lên đi tìm một bậc chân tu của Phật giáo khắp năm châu bốn biển vẫn khó mà tìm thấy được.
Đối với Phật giáo, một người cư sĩ có quyền nêu rõ những vị tỳ kheo phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới mà không có lỗi gì cả. Tại sao vậy?
Tại vì những người dám chỉ thẳng lỗi của người xuất gia, là những người biết xây dựng tốt nhiều mặt cho đạo và cho đời:
1. Giúp cho các vị tỳ kheo trở lại tu tập theo con đường chân chánh: “Giới luật nghiêm chỉnh”.
2. Giúp cho các vị tỳ kheo không còn mượn chiếc áo đạo tạo cuộc sống thế gian.
3. Giúp cho các vị tỳ kheo không còn lừa đảo tín đồ và mọi người.
4. Khiến cho Phật giáo được hưng thịnh và trường tồn.
5. Khiến cho mọi người không còn khinh chê Phật giáo.
6. Khiến cho mọi người dù là người không tôn giáo cũng luôn luôn kính trọng Phật giáo.
Như vậy, sự chỉ trích và chỉ thẳng tội lỗi phạm giới của những vị tỳ kheo có ích lợi như vậy thì quý vị nghĩ sao? Dù cho thật sự có tội, nhất định chúng ta cũng không sợ phải không hỡi quý bạn? Là vì làm lợi ích cho đời, cho đạo quá rõ ràng.
Nếu chúng ta che dấu những vị tỳ kheo phạm giới, phá giới thì chúng ta có lỗi rất nặng, đó là tội a dua a tòng theo Bà La Môn diệt Phật giáo, và tội ác nặng nhất là làm mất đạo đức nhân bản của loài người.
✿✿✿
V. “ĐỐI CẢNH VÔ TÂM CHỚ HỎI THIỀN”
Hỏi: Kính thưa Thầy, “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền” và “tâm bất động trước các pháp” có phải giống nhau không?
Đáp: Không, “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền” và “tâm bất động trước các pháp” là hai pháp khác nhau như một trời một vực.
Câu “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền” có nhiều nghĩa như:
1. Tâm chai lì vì chịu đựng quá nhiều sự bất hạnh, nên lì mặt ra như không có chuyện gì xảy ra cả, nghĩa là quá quen thuộc với các ác pháp.
2. Tâm lọt vào chỗ không ngơ (như như) trở thành cây đá chẳng còn phân biệt giống như một cỗ máy. Hòa Thượng chùa Phước Hậu tu Tịnh độ ức chế tâm lọt vào chỗ như như, nên Hòa Thượng có để lại một bài kệ:
Kinh điển Phật truyền tám vạn tư
Tu hành không thiếu cũng không dư
Đến này chừng đã như quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ “Như”
Câu chuyện Hòa Thượng lội qua sông sau đây chắc nhiều phật tử nghiên cứu Thiền và Tịnh Độ tông cũng đã biết. Người ta kể lại, khi Hòa Thượng lội qua sông và lên bờ thì Hòa Thượng quên mặc quần áo, cứ để trần truồng mà đi; người thị giả chạy theo gọi Hòa Thượng mặc quần áo thì Hòa Thượng mới nhớ.
Tu hành mà trí tuệ quên như vậy thì quý vị nghĩ sao? có giống như người máy không? Đó chính là “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”. Thiền định như vậy chúng ta tu để làm gì, để trở thành người mất trí ư?!
3. “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”, đó là một cụm từ rất kêu của Thiền tông dùng để nói lý thuyết, chứ không phải sự sống thiền là như vậy.
Thiền tông không ngờ, khi tu tập đến chỗ chẳng niệm thiện niệm ác, tưởng là đối cảnh vô tâm, nào ngờ lại trở thành lẫn trí. Trong khi chúng tôi về học và tu thiền ở Chân Không trong khóa tu thứ nhất, ở đấy có một vị Đại diện Phật giáo tại Tỉnh Vĩnh Long đồng tu học với chúng tôi. Không biết ông tu thế nào, nhưng sau này chúng tôi được biết ông trở thành người lẫn trí.
Trong cuộc đời tu hành của chúng tôi có biết bao nhiêu bạn tu thiền Đông Độ, nhưng chúng tôi chưa từng thấy người nào “đối cảnh vô tâm”, là vì tất cả quý vị hiện giờ đều hữu tâm. Hữu tâm như thế nào?
Chùa to, Phật lớn, xe cộ đầy đủ, nói chung về vật chất thế gian có vật gì thì quý thầy đều có đầy đủ như: tủ lạnh, máy điều hòa, radio, cassette, tivi, v.v... Như vậy làm sao gọi quý thầy là vô tâm được.
Bất Động Tâm Định là tên gọi một kết quả thiền định xả tâm của đạo Phật, để chỉ cho một quá trình tu tập đức hạnh và giới luật của bậc Thánh tăng, để diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp, chứ không phải là những danh từ suông như Thiền tông dùng “đối cảnh vô tâm”.
Bất Động Tâm Định là chỉ cho một trạng thái vô1 tham, sân, si của một hành giả tu tập đúng giáo pháp nguyên thủy, mà xưa kia đức Phật đã thành tựu viên mãn và đã từng dạy cho các đệ tử của mình.
Vậy khi chúng ta bị đánh rất đau, thì lúc bấy giờ chúng ta có VÔ TÂMđược hay không? Trái lại, BẤT ĐỘNG TÂMkhi bị đánh chúng ta không vô tâm nên biết đau rất rõ, nhưng chúng ta không giận người đánh, không phiền não cho số phận của mình, mà chúng ta biết nhân quả rất rõ, biết thiện ác không sai, biết tâm mình không dao động trước cái đau. Đó là tâm bất động trước các pháp.
Tóm lại, khi tu tập tâm hết tham, sân, si thì gọi là BẤT ĐỘNG TÂM TRƯỚC CÁC PHÁP,nó còn có một cái tên khác nữa là Vô Tướng Tâm Định; Vô Tướng Tâm Định đó là một trạng thái hoàn toàn giải thoát của đạo Phật. Chính nó là Niết Bàn của chư Phật.
✿✿✿
VI. KHỞI NIỆM THOẢI MÁI
Hỏi: Kính bạch Thầy, hằng ngày con cứ tác ý “khởi niệm thoải mái”, rồi xem niệm nào là niệm tham, sân, si thì con quán xét từ bỏ, nếu niệm nào là thiện, có lợi cho mình, cho người thì con tiếp tục theo niệm ấy. Bạch Hòa Thượng, đó có phải là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp không? Nếu con có hiểu sai, xin Hòa Thượng giảng cho con rõ.
Đáp:Đúng vậy, con đã hiểu đúng; cách thức tu tập thiền định của đạo Phật là như vậy, nên sự tu tập này đức Phật gọi là Định Tư Cụ, có nghĩa là phương pháp tu tập thiền định.
Con tu như vậy con có thấy kết quả giải thoát đau khổ không? Nếu có kết quả giải thoát tâm con không còn buồn rầu, sợ hãi, giận hờn, phiền toái, đau khổ, v.v... thì con đã tu đúng.
Nếu có thật sự như vậy tức là con đã ngăn và diệt được ác pháp; con hãy cố gắng tiếp tục tu tập để tạo cho mình một cảnh sống thiên đàng tại thế gian này. Hãy tự thắp đuốc lên mà đi con ạ! Không ai thay thế đi cho con được, mà phải chính con.
✿✿✿
VII. NHÂN QUẢ
Hỏi: Kính bạch Thầy, từ khi thầy Thông Vân bịnh, về Châu Đốc, sau ba, bốn ngày đầu thầy đã bình phục trí nhớ như cũ, chỉ có sức khỏe hơi kém. Từ khi bình phục, thầy giữ giới ăn một bữa trở lại và dạy chúng con theo đường lối của Hòa Thượng: “Tâm như cục đất”. Thầy còn định cho phật tử thọ Bát Quan Trai theo cách của Hòa Thượng. Lúc nào tâm trí của thầy cũng hướng về Hòa Thượng. Từ khi con theo thầy Thông Vân học đến nay, con thấy thầy hơn hẳn những vị thầy mà con đã biết. Nhất là về giữ gìn giới luật.
Bạch Hòa Thượng, tại sao thầy ấy lại phải trả một cái quả nặng? (Trước đây vài năm, thầy cũng đã một thời gian bịnh như vậy) bịnh này có còn tái phát nữa hay không? và làm sao để dứt trừ nó được? Con hỏi là vì chúng con quý thương thầy Thông Vân, chứ không phải cầu Hòa Thượng làm thầy bói. Mong Hòa Thượng thương xót mà giải thích cho chúng con hiểu.
Đáp:Bịnh của thầy Thông Vân là bịnh thần kinh bại liệt do nghiệp căn đời trước. Đời trước thầy cũng dạy người tu thiền định nhưng lại là thiền định ức chế tâm, nên có một số người thần kinh yếu kém, do sự tu tập ức chế tâm quá mạnh nên rối loạn thần kinh thành bịnh như thầy ấy hôm nay vậy.
Hiện giờ có một số người đang theo tu thiền Đông Độ, Mật tông và Tịnh Độ tông; họ đã bị bịnh thần kinh bại liệt, nhưng chúng ta không biết là vì các chùa đều bưng bít.
Vấn đề quan trọng là ở chỗ nhân quả. Nếu trong đời sống tu hành, chúng ta dạy người tu thiền mà có một người bị bịnh này thì chúng ta phải một lần trả quả thuộc về bịnh này, nếu có hai người bị bịnh thì phải trả quả hai lần, nếu có 3 người, 4 người, 5 người thì phải trả quả 3, 4, 5 lần bịnh này.
Cho nên Thầy khuyên các con muốn tu hành thiền định thì hãy chọn cho kỹ lưỡng. Pháp nào ức chế tâm dừng vọng tưởng, tập trung quá mạnh thì không nên tu tập, nếu lỡ thần kinh yếu kém bị bịnh thì rất khổ cho mình và cho những người thân thương của mình.
Bịnh này khi nào thầy Thông Vân trả hết nghiệp thì không còn tái phát nữa.
Muốn dứt trừ bịnh này bằng cách chuyển nghiệp thì thầy Thông Vân phải dạy phật tử tu tập thọ Bát Quan Trai xả tâm, chứ không nên dạy tu tập thọ Bát Quan Trai ức chế tâm, đồng thời thầy Thông Vân phải tu tập có đối tượng để xả tâm ly dục ly ác pháp, chứ không nên tu tập không đối tượng, vì tu tập không đối tượng thầy sẽ bị ức chế tâm và bịnh cũ tái phát. Tu tập như vậy có nghĩa là thầy sống tiếp duyên với mọi người bình thường, nhưng lúc nào cũng giữ gìn phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp thường xuyên quán xét và đẩy lui các chướng ngại pháp; tu tập rất bình thường nhưng lại không bị ức chế tâm, kết quả sẽ mang đến cho thầy một tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Nhờ sống chuyển nghiệp - dạy phật tử tu tập Bát Quan Trai - và biết cách phòng hộ và tu Tứ Niệm Xứ xả tâm thì bịnh thầy Thông Vân không bao giờ tái phát.
Pháp môn tu hành của đức Phật là pháp môn xả tâm tham, sân, si, nhưng người tu không thiện xảo cũng sẽ bị ức chế tâm,và như vậy là tu sai pháp.
Giới luật là một đạo đức, nếu chúng ta sống không biết cách xả tâm thì đạo đức kia chỉ là một thứ đạo đức giả, có nghĩa là ức chế tâm chịu đựng dưới hình thức giới luật. Mà đã ức chế tâm dưới mọi hình thức nào thì cũng có thể bị bịnh bại liệt thần kinh.
Thầy gửi lời thăm và chúc con vui mạnh, tu tập xả tâm tốt.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 30-11-2000
I. KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI
Hỏi: Kính bạch Thầy, Thầy dạy không làm khổ mình, khổ người, nhưng trong cuộc sống tương quan hằng ngày, con thấy khó mà giữ cho tuyệt đối và trọn vẹn. Ví dụ:
1- Một bà mẹ vì thương con, thấy con làm sai, lầm lỗi, nên phải la rầy, đánh dạy. Đứa con bị la rầy, đánh dạy nên buồn phiền đau khổ.
2- Một cậu trai yêu một cô gái. Cô gái không yêu đáp lại. Cậu trai đau khổ, buồn phiền.
3- Anh B sai. Anh A dùng lời ngay thẳng để khuyên nhắc anh B. Anh B tự ái rồi giận khổ, buồn phiền.
Kính bạch Thầy, những chuyện này có nằm trong “khổ mình, khổ người” không? Con thấy hầu như tất cả mọi người ai cũng đều có cái khổ; khổ do họ làm hoặc người khác vô tình hay cố ý làm. Như vậy làm sao cho sự “không làm khổ mình, khổ người” được trọn vẹn?
Đáp: Để trả lời câu hỏi này, tức là trả lời ba ví dụ con đã nêu.
1/ Để trả lời ví dụ thứ nhất:
Chỉ vì con người chưa học đạo đức làm người, nên thường làm khổ mình, khổ người. Trong cuộc sống chung của con người mà không có đạo đức, thì con người vô tình đã tự làm khổ đau cho nhau mà còn đổ thừa tại người khác, chứ không phải tại mình.
Một người mẹ vì thương con, thấy con làm sai, lầm lỗi, nên tức giận la rầy, đánh con, làm cho đứa con khổ đau. Đó là người mẹ không học đạo đức làm người, nên “đặt tình thương không đúng chỗ”.
Đặt tình thương không đúng chỗ, khiến cho mẹ con cách biệt nhau; con làm điều gì đều giấu mẹ, vì sợ mẹ la rầy, đánh, mắng. Đến khi đứa con nghiện ngập xì ke, ma túy hoặc bị tù tội thì việc đã rồi, còn mong gì cứu chữa được.
Cho nên, hầu hết một số thanh niên hư hỏng đều do cha mẹ đặt tình thương sai hướng mà đưa con mình vào cuộc đời đen tối. Đó là một trách nhiệm rất lớn của những bậc làm cha mẹ phải gánh chịu những hậu quả này.
Muốn đặt tình thương đúng chỗ, thì những bậc làm cha mẹ phải xem con mình là một người bạn, hơn là một đứa con.
Thương con mà rầy mắng, đánh con là một điều sai, là một việc thiếu đạo đức làm người:
1. Cái sai thứ nhất là tự mình tức giận, làm khổ mình mà không thấy.
2. Cái sai thứ hai là làm cho đứa con đau khổ (rầy mắng, đánh làm người khác khổ)
Khi biết đứa con làm sai, lầm lỗi, thì cha hay mẹ phải tìm thấy lỗi của mình trước:
1. Lỗi thứ nhất là cha mẹ không gần gũi con cái, mà cứ mải lo làm ăn, đầu tắt mặt tối, cứ nghĩ rằng có tiền là mua tiên cũng được.
2. Lỗi thứ hai là cha mẹ thiếu chăm sóc con cái từ cái ăn, cái mặc cho đến sự học tập, có nghĩa là cha mẹ chỉ thỉnh thoảng mua quà cho con và không thường xuyên xem xét sự học hành của con.
3. Lỗi thứ ba là cha mẹ thiếu ban tình thương âu yếm cho chúng: một lời nói, một cử chỉ, một cái nhìn.
4. Lỗi thứ tư là cha mẹ không dùng lời nói ôn tồn, nhã nhặn, nhẹ nhàng đối với con mình.
5. Lỗi thứ năm là cha mẹ không xem con cái là một người bạn thân, mà chỉ xem chúng là một đứa bé khờ dại trong khi chúng đã trưởng thành, có nhiều sự hiểu biết và có nhiều sự ham muốn đang phát triển.
Nếu các bậc làm cha mẹ đã thấy được những lỗi lầm này của mình, thì con cái của mình đâu còn làm sự sai trái, phải không hỡi con?
Ở đời, người ta chỉ thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình, do đó mà đã tự tạo khổ cho nhau. Nếu ai cũng thấy được lỗi mình tức là đã thấy được nhân quả; thấy được nhân quả tức là chuyển được nhân quả; chuyển được nhân quả thì trên thế gian này còn ai là người đau khổ nữa.
Người ta biết thương yêu là một điều thiện, nhưng lòng thương yêu đặt không đúng chỗ thì sẽ trở thành một điều ác, một điều khổ.
Người ta ở đời thường che đậy, hoặc vô tình không thấy những lỗi lầm của mình, mỗi mỗi đều thấy lỗi lầm của người khác, do đó mà có sự khổ đau trên thế gian này vậy.
2/ Để trả lời ví dụ thứ hai:
Một cậu trai yêu thương một cô gái, nhưng cô gái không yêu đáp lại; cậu trai đau khổ buồn phiền, đó là cậu trai “đặt tình yêu sai hướng”.
Một cậu trai không quá nông nổi thì không bao giờ đặt tình yêu thương vào một người, mà người ấy không yêu mình.
Tình yêu chân thật không cho phép chúng ta yêu thương nông nổi, mà phải có sự tìm hiểu đôi bên; sự tìm hiểu đó giúp chúng ta đặt tình yêu thương đúng chỗ, khiến mình hạnh phúc mà người mình yêu thương cũng hạnh phúc.
Bởi người ta không học đạo đức làm người, nên người ta đặt tình yêu thương sai hướng; đặt tình yêu thương sai hướng, nên người ta mới tự làm khổ đau như vậy.
Trai gái yêu thương nhau là tìm hạnh phúc an vui cho nhau, chứ không phải tìm sự khổ đau, nhưng thật sự người ta không tìm chân hạnh phúc giữa trai và gái, mà tìm sự đau khổ giữa trai gái nhiều hơn. Nếu ai đã có chồng, có vợ, có con thì hãy tư duy xem lời nói của Thầy có đúng hay không.
Trên đời này, ai đã trải qua tình chồng, nghĩa vợ, nuôi con thì mới rõ được lời đức Phật dạy: “Đời là khổ”, không những đôi vợ chồng khổ mà đoàn con cái được sanh ra đời sau này cũng đều khổ.
3/ Để trả lời ví dụ thứ ba:
Anh B làm sai; anh A dùng lời ngay thẳng để khuyên nhắc anh B, nhưng anh B tự ái rồi giận khổ, buồn phiền, đó là anh A đặt tình thương không đúng chỗ, và không xét lời nói của mình có trọng lượng đối với anh B hay không.
Muốn khuyên người thì hãy xét lại mình; mình sống có đúng đạo đức làm người chưa? Mình có làm gương hạnh đạo đức cho ai chưa? Tất cả mọi người xung quanh có ai kính trọng mình chân thật chưa?
Nếu chưa thì Thầy xin quý vị đừng khuyên nhắc ai hết, mà hãy khuyên nhắc mình không làm khổ mình, khổ người để tâm hồn mình được thanh thản, nhẹ nhàng, an vui.
Anh A vẫn còn khổ đau, vẫn còn làm khổ mình và người khác khổ, thế mà đi khuyên nhắc người khác thì có ai mà nghe cho!Người ta đã không nghe mà còn sinh ra tức giận và cho anh A là người muốn làm thầy dạy đời.
Những ví dụ trên đây, đều nằm trong việc thiếu đạo đức làm khổ mình, khổ người con ạ! Không có một sự đau khổ nào của con người mà hiện hữu được nằm ngoài luật nhân quả cả.
Con người là thừa tự của nghiệp lực nhân quả; nghiệp lực nhân quả là cha mẹ đẻ sanh ra loài người, vì thế làm sao có sự đau khổ ngoài luật nhân quả được. Cho nên người sống đúng đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người là người sống đúng đạo luật nhân quả, nên chuyển tất cả quả khổ thành quả vui; mình vui, người vui.
Người sống đúng đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người là người phải ly dục, ly ác pháp; là người có tâm bất động trước các pháp. Người có tâm bất động trước các pháp là vị Thánh đệ tử Phật chứ không còn là một kẻ phàm phu tục tử nữa.
Vì thế, các con là đệ tử của đức Phật thì phải thực hiện sống cho bằng được đạo đức nhân bản làm người, thì mới xứng đáng là con của Phật, thì mới không phụ lòng mong ước của Phật, của Thầy. Phải không hỡi các con?
✿✿✿
II. BỐN QUẢ THANH VĂN
Hỏi: Kính bạch Thầy, con đọc kinh sách Phật, thấy lúc đức Phật còn tại thế, quý tu sĩ cũng như cư sĩ chỉ nghe thuyết giảng một bài pháp, hay một bài kệ bốn câu từ kim khẩu Phật nói ra là quý vị đã chứng quả Tu Đà Hoàn, thậm chí có người chứng luôn quả A La Hán. Kính thưa Thầy, như vậy có thật hay không?
Vậy quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán là như thế nào? Làm sao để biết được một người tu chứng những quả vị này? Sách của Thầy sao con không thấy nói đến những quả vị này? Ngưỡng mong Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp:Trong kinh Sa Môn Quả thuộc Trường Bộ Kinh tập 1, tạng kinh nguyên thủy, đức Phật không có dạy bốn quả này trong số những quả Sa Môn.
Kinh Sa Môn Quả là kinh nói về kết quả của một vị tỳ kheo bắt đầu mới vào tu theo đạo Phật cho đến khi viên mãn đạo giải thoát hoàn toàn, nhưng bốn quả nói trên không được đức Phật liệt kê vào kinh Sa Môn Quả, thì có lẽ chúng ta phải đặt câu hỏi bốn quả này có phải của Phật giáo hay không?
Kinh nguyên thủy dạy: khi xuất gia cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình, ba y một bát là có quả Sa Môn ngay liền; quả đó là sự cung kính, đảnh lễ và cúng dường, từ người dân bình thường đến các vua, quan đều cung kính, tôn trọng.
Vả lại, khi xuất gia cạo bỏ râu tóc như vậy thì đời sống có giải thoát cũng ngay liền, tâm hồn phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, không còn bị gò bó trói buộc trong thập thất kiết sử. Đó là những quả Sa Môn đầu tiên của những người mới vào tu, còn những quả cao hơn, tuyệt diệu hơn, đó là sự làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Trong kinh Sa Môn Quả chúng tôi nghe đức Phật dạy những quả Giới luật, tức là dạy những kết quả đạo đức làm Thánh và đạo đức làm Người, rồi dạy đến những quả của bốn thiền như Sơ Thiền được quả gì, Nhị Thiền được quả gì, Tam Thiền được quả gì, Tứ Thiền được quả gì, và cuối cùng Tam Minh được quả gì.
Trong kinh Sa Môn Quả chúng tôi cũng thấy đức Phật nói về quả của Tứ Không và Diệt Thọ Tưởng Định. Nhưng cũng trong kinh này chúng tôi không tìm thấy đức Phật nói về bốn quả Thanh Văn Tiểu thừa.
Con người thời đức Phật và con người hiện tại của thế kỷ chúng ta có khác nhau không? Là con người thì không khác nhau phải không?
Lại nữa, trình độ và kiến thức của người xưa và người nay cũng không kém nhau. Như vậy, tại sao người xưa nghe Phật thuyết là chứng quả ngay liền, còn chúng ta ngày nay lại phải tu hết sức, chỉ có ly dục, ly ác pháp mà làm không xong?
Cho nên, khi nghe thuyết pháp xong là chứng quả ngay liền, chỉ vì chúng ta không đủ lòng tin những lời dạy này, vì lòng dục và ác pháp không phải là việc dễ buông bỏ.
Bởi vậy, đây là những lý luận của Bà La Môn không chân thật, với mục đích dìm đạo Phật, khiến cho chúng ta mất lòng tin với Phật giáo.
Đạo Phật là một tôn giáo lấy đạo đức nhân bản làm nền tảng cho giáo pháp của mình, cớ sao lại nói vọng ngữ như vậy? Phật nói hay Tổ nói?
Điều này chúng ta nên nhường lại cho các nhà sử học phán xét.
Bốn quả Thanh Văn Tiểu thừa là:
1- Tu Đà Hoàn
2- Tư Đà Hàm
3- A Na Hàm
4- A La Hán
Bốn quả Thinh Văn này do đâu mà có? Chữ Thinh Văn này do ai đặt ra?
Hỏi tức là trả lời, nếu không phải các nhà Đại thừa đặt ra thì còn ai vô đây?
1- Thinh Văn thừa
2- Duyên Giác thừa
3- Tiểu thừa
4- Bồ Tát thừa
5- Đại thừa
6- Tối Thượng thừa
Bốn quả Thanh Văn thừa này có nghĩa là kết quả của sự tu tập của hàng Thanh Văn Tiểu thừa, mà các nhà Đại thừa đã tưởng giải ra và gán cho làm bốn quả giải thoát của Phật giáo:
I/ Tu Đà Hoàn còn có những tên khác như là: Nhập lưu, Nghịch lưu, Dự lưu, Thất lai.
1. Nhập lưu có nghĩa là nhập vào dòng Thánh.
2. Nghịch lưu có nghĩa là đi ngược lại dòng đời.
3. Dự lưu có nghĩa là được dự vào dòng Thánh.
4. Thất lai theo nghĩa của các nhà Đại thừa giải thích thì hành giả tu đắc được quả vị này thì còn phải tu bảy kiếp nữa mới chứng quả A La Hán; bảy kiếp nữa tức là phải chịu tái sanh làm người bảy lần, do đó mới có tên là Thất lai.
II/ Tư Đà Hàm còn có tên khác là Nhất lai. Nhất lai có nghĩa là tu đắc quả này rồi thì còn phải tu một kiếp nữa mới chứng quả A La Hán; một kiếp nữa tức là phải chịu tái sanh làn người một lần nữa.
III/ A Na Hàm con có tên khác là Bất lai hay là Bất hoàn, nghĩa là người tu chứng được quả này thì không còn tái sanh trở lại đời này nữa, có nghĩa là không còn tái sanh lại làm người nữa.
IV/ A La Hán còn có các tên khác như: Sát tặc, Ứng cúng, Bất sanh.
1. Sát tặc có nghĩa là giết hết giặc phiền não.
2. Ứng cúng có nghĩa là bậc xứng đáng nhận tứ sự cúng dường của Trời, Người.
3. Bất sinh có nghĩa là mãi mãi vào Niết Bàn, không còn chịu quả báo sống chết nữa. Theo các nhà Đại thừa cho bậc A La Hán là quả vị cao nhất của Tiểu thừa.
Theo kinh nghiệm tu hành của chúng tôi, trong bốn quả này chúng tôi chấp nhận quả A La Hán là đúng nghĩa của nó, còn những quả kia không đúng nghĩa, vì trong kinh Sa Môn Quả không có dạy những quả này.
Vả lại, khi nhập được Sơ Thiền thì chúng tôi thấy tâm LY DỤC LY ÁC PHÁP, mà tâm đã ly dục ly ác pháp thì tâm KHÔNG PHÓNG DẬT, mà tâm không còn phóng dật là tâm CHÁNH GIÁCnhư đức Phật đã dạy: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm KHÔNG PHÓNG DẬT”.
Tâm còn phóng dật làm sao gọi là Thánh được, mà không gọi là Thánh thì làm sao gọi là Nhập lưu; mà đã Nhập lưu thì tâm phải LY DỤC LY ÁC PHÁP; ly dục ly ác pháp thì còn cái gì mà đi tái sanh đến bảy lần, một lần; do DỤCvà ÁC PHÁP mới tạo thành nghiệp, nghiệp mới tái sanh luân hồi. Cho nên, các nhà học giả Đại thừa do không tu nên giảng giải theo tưởng của mình làm mất ý nghĩa chân thật của đạo Phật.
Đây là ý đồ của Bà La Môn lấy các quả vị này để dìm Phật giáo xuống hàng Tiểu thừa - khi được vào dòng Thánh mà còn phải bảy lần tái sinh làm người - thật là vô lý!
Muốn biết người tu chứng bốn quả vị này thì lấy GIỚI LUẬTlàm tiêu chuẩn mà xét:
1. Giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
2. Tâm phải ly dục ly ác pháp, tức là tâm bất động trước các pháp.
3. Đời sống phải thiểu dục tri túc, ba y một bát.
4. Sống độc cư trầm lặng một mình, ít nói, không tranh luận hơn thua.
Sách Thầy viết không nói đến những quả vị này ngoại trừ quả A La Hán, còn những quả khác Thầy không đủ niềm tin, vì nhập vào dòng Thánh mà còn phải bảy lần sanh làm người. Thánh tăng của Phật giáo sống đúng GIỚI HẠNH là sống toàn thiện, mà sống TOÀN THIỆN thì tâm tham, sân, si đâu còn; tâm THAM, SÂN, SI KHÔNG CÒN thì còn cái gì tái sanh, chỉ có những Thánh tăng Phật giáo Đại thừa sống phạm giới, phá giới, ăn uống phi thời, đời sống chạy theo dục lạc thế gian, v.v... thì không những phải tái sanh bảy đời mà phải tái sanh vô lượng đời.
Thăm và chúc con vui mạnh, tu tập xả tâm tốt, sống đời đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người để đem lại lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.
Kính thư
Thầy của con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 12-4-2002
Kính gửi: Trí Đức. Với tâm tha thiết tìm cầu tu tập giải thoát, ra khỏi mọi sự đau khổ của cuộc đời, thì thời đại này thật là hi hữu, trong khi đời mình rất đầy đủ vật chất danh và lợi.
Trí Đức, con nên nương theo nhân quả mà chuyển cuộc đời thành đạo, có nghĩa xả tâm, ly dục ly ác pháp, tức là tu có đối tượng, để trong khi vừa tu, vừa làm tròn bổn phận làm con trong gia đình có đạo đức, không làm khổ mình. khổ ngươì. Không làm khổ mình. khổ người là tu tập. Đừng quá vội vàng, thẳng thắn mà làm khổ mình, khổ người, nhất là những người thân. Thầy tin ở con đủ sức chuyển hóa nhân quả ái kiết sử này.
Đối với cha mẹ con:
1. Con nên làm tốt mọi việc, nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp.
2. Không làm phiền lòng cha mẹ dù bất cứ việc gì, nhưng tránh xa tranh luận, chỉ biết lắng nghe và im lặng như Thánh.
3. Hiện giờ trước mặt cha mẹ con không nên nhắc đến việc tu hành. Vì cha mẹ đâu biết việc tu hành có lợi ích rất lớn cho đời người như thế nào?
4. Nhớ cố gắng xả tâm trước các ác pháp trong mọi nghịch cảnh. Định Niệm Hơi Thở con nên tập lại cho đúng phương pháp theo 18 đề mục thiền Thầy có gửi theo.
5. Chờ chừng nào cha mẹ vui lòng thì con hãy vào Tu Viện. Thầy đang chờ con!
Còn cha mẹ chưa bằng lòng là duyên nhân quả chưa chấm dứt, thì con hãy chờ đợi và làm vui lòng cha mẹ,đó là con đã làm cho tròn nghiệp nhân quả.
6. Đạo Phật không chấp nhận làm khổ người, con nên khéo léo tu tại gia mà không làm buồn phiền lòng cha mẹ. Vả lại lúc này quê hương Tổ quốc đang cần những bàn tay như con.
Lúc nào tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự là lúc hạnh phúc nhất con ạ!
Thăm và chúc con vui mạnh, làm lợi ích cho mình cho người, tức là cho quê hương Tổ quốc. Nhất là tu tập xả tâm tốt trong giai đoạn này.
Kính thư
Thầy của con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 17-9-2004 (ÂL: 04-08 Giáp Thân)
Kính gửi các con! Trước những ngày mừng sinh nhựt Thầy, các con đã làm nên những bài thơ, văn để ca ngợi, chúc tụng Thầy, và nói lên những tâm tư nguyện vọng tha thiết tìm cầu sự giải thoát thấm đượm tình thương gia đình, tình nghĩa Thầy trò, tình yêu quê hương Tổ quốc và bổn phận trách nhiệm đối với Phật giáo. Nhất là những lời hứa hẹn cố gắng, bền chí tu tập rất là tuyệt vời. Nhưng nói không bằng thực hành các con ạ!
Nói được phải làm được, các con phải nghe theo lời dạy của Thầy: Trước tiên là phải sống đúng giới luật. Chính giữ gìn giới luật được nghiêm túc là các con đã dâng lên mừng sinh nhật Thầy.
Giữ gìn giới luật nghiêm túc là mừng sinh nhật Thầy mới đầy đủ ý nghĩa của sinh nhật. Nó đem lại lợi ích cho các con là thân tâm của các con thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là một nguồn vui giải thoát thật sự, không còn lời nói suông để mừng sinh nhật Thầy nữa. Phải không các con?
Các con dùng những lời tán thán, ca ngợi để mừng sinh nhật Thầy; Thầy không vui mừng, vì nó là lời nói suông, không có ý nghĩa của sinh nhật Thầy. Mừng sinh nhật Thầy, các con phải siêng năng tu tập như thế nào để có những kết quả Bất Động Tâm trước các pháp ác và các cảm thọ, nhất là phải giữ gìn Giới Luật nghiêm túc như trên đã nói. Làm được như vậy là các con đã báo đáp ơn Phật, ơn Thầy. Và dâng lên những kết quả ấy để mừng sinh nhật Thầy là tuyệt vời, là mang đầy đủ ý nghĩa. Hơn thế nữa, các con phải chánh niệm tĩnh giác để khắc phục cho được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, v.v... và còn phải xả ly từng ác pháp trong thân tâm của các con nữa. Làm được như vậy là các con đã dâng lên mừng sinh nhật Thầy đầy đủ ý nghĩa cao đẹp. Được như vậy Thầy mừng biết bao!
Ví dụ: Sống độc cư 10 phần thì các con cố gắng giữ gìn độc cư được 6, 7 phần. Sáu bảy phần làm được ấy, các con dâng lên cúng dường là Thầy rất mừng.
Thầy buồn, vì các con nói được mà không làm được. Thầy buồn vì viễn cảnh Phật giáo một ngày nào đó sẽ mất đi. Phật giáo mất đi là một sự thiệt thòi rất lớn cho loài người trên hành tinh này!
Phật giáo mất đi, dù các con có mừng sinh nhật Thầy đến hàng ngàn vạn lần có ích gì?! Phải không các con? Có chúc tụng, ca ngợi Thầy bằng gì đi nữa... thì Thầy cũng sẽ ra đi, ra đi mãi mãi. Và như vậy, mọi người trên hành tinh sẽ không còn chỗ nương tựa, sẽ đau khổ triền miên bất tận! Nhất là các con rất đau khổ, như gà con mất mẹ, chỉ còn biết cất tiếng kêu mẹ chiu chít đau thương.
Người ta bảo rằng Đại thừa không có người tu chứng, còn bây giờ các con là những học trò của Thầy, tu hành cũng chểnh mảng, không đứa nào tu chứng thì có khác chi Đại thừa đâu. Phải không các con?
Đó là nỗi đau lớn nhất của Thầy. Các con có biết không? Vì vậy, các con phải cố gắng và cố gắng hết mình hơn nữa, để khắc phục sống cho đúng giới luật; ĂN,NGỦ,ĐỘC CƯ,NHẪN NHỤC,TÙY THUẬN,BẰNG LÒNGcho được. Nhờ sống đúng giới luật, các con sẽ tu tập tốt và không còn pháp nào mà các con không đạt được kết quả. Nhất là giới luật nghiêm túc là các con đã trả lời với các nhà Đại thừa. Phạm hạnh của một người tăng sĩ rất cần thiết cho Phật giáo, cho mọi người trong thời khoa học kỹ nghệ hóa hiện đại xã hội. Cuối cùng, những gì Đức Phật đã dạy trong kinh sách Nguyên Thủy, các con đã tu tập được để nói lên tiếng nói của Phật giáo chân chánh, mà từ hơn 25 thế kỷ này đã bị Đại thừa dìm mất.
Các con hãy nhớ những lời Thầy dạy ngày hôm nay, nhưng ngày xưa là những lời đức Phật dạy. Ngày xưa đức Phật nói được, làm được. Ngày nay Thầy nói được, làm được. Còn các con thì sao?
Phải cố gắng lên các con ạ! Bắt đầu từ giới luật, đừng xem thường những giới nhỏ nhặt, phải sợ hãi trước những lỗi nhỏ nhặt, có cảnh giác và tu tập như vậy giới luật mới được nghiêm chỉnh. Giới luật được nghiêm chỉnh thì 37 phẩm trợ đạo các con tu tập không còn khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức.
Thầy chỉ ước mong các con làm được như vậy để mừng sinh nhật Thầy. Không những mừng sinh nhật Thầy, mà còn mừng cho cả thế giới này, cho loài người này sẽ có nền đạo đức, và những giới hạnh cao đẹp không bị dìm mất.
Mừng sinh nhật Thầy có ý nghĩa cao đẹp như vậy thì mới gọi là mừng, chứ mừng sinh nhật bằng những lời ca ngợi suông, những lời chúc tụng suông thì có ý nghĩa gì, các con ạ!
Giới luật là nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Nếu nền đạo đức ấy còn thì Phật giáo còn; nền đạo đức ấy mất là Phật giáo mất. Phật giáo còn là còn chỗ đất đứng cho mọi người trên hành tinh này.
Nếu không còn ai tu chứng như Phật, như Thầy thì Phật giáo đã bị dìm mất; chỗ đứng của Phật giáo chân chánh cũng không còn. Các con có thấy chăng, hơn 25 thế kỷ nay, Phật giáo có còn gì: cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an, v.v... là những điều mê tín; ngồi thiền nhập định là ảo tưởng, sống trong giấc mơ; niệm chú bắt ấn là những trò ảo thuật lừa đảo người. Còn giới luật, đức hạnh thì tan nát: một ông thầy có vợ con ở trong chùa, sinh hoạt như một gia đình thế tục. Là một vị thầy của Trời, Người mà chẳng làm chủ được sanh, già, bệnh, chết, chỉ chuyên nói láo, có cấp bằng tiến sĩ khoe danh. Ôi! Thật là đau lòng.
Phật giáo bây giờ còn lại những lời nói suông, nói láo, chứ có ai tu được những gì; Phật giáo bây giờ còn lại một sự mê tín cúng bái, cầu siêu, cầu an... tứ thời tụng niệm như Bà La Môn.
Ô! Thật là xót xa. Những lời Thầy dạy có đúng không các con?!
Ngày nay, Thầy ra công dựng lại và làm sáng tỏ những gì của Phật giáo đã bị dìm mất. Nếu không thì Phật giáo sẽ bị dìm mất đi một lần nữa, thì nhân loại sẽ bị thiệt thòi và con người trên hành tinh này sẽ giành giựt, đánh đập nhau mãi mãi; chiến tranh thế giới không bao giờ dứt; loài người sinh ra vốn đau khổ lại càng đau khổ hơn.
Các con có thấy chăng, suốt 25 thế kỷ nay, chiến tranh liên miên bất tận. Tại sao đạo Phật có mặt trên hành tinh này mà không có hòa bình thế giới. Tại sao và tại sao vậy???
Đừng hỏi tại sao. Phật giáo chỉ còn có cái tên, chứ nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người của Phật giáo đã chết từ khi ông A Nan tịch.
Phật giáo chỉ sống có một trăm năm. Về sau này, người ta đã đưa giáo pháp của ngoại đạo vào Phật giáo, rồi chia manh mún Phật giáo ra nhiều hệ phái khác nhau để tranh giành quyền lợi, như vậy mới có chùa Đế Thiên, Đế Thích là kỳ quan thế giới; như vậy mới có chùa to Phật lớn khắp nơi trên thế giới mọc lên như nấm.
Hôm nay, nhân ngày sinh nhật của Thầy 77 năm, các con là những người tổ chức mừng sinh nhật Thầy lần đầu tiên. Đó cũng là ngày mừng cho con người trên thế gian này sẽ có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Nền đạo đức nhân bản - nhân quả sẽ đem lại hạnh phúc cho muôn người, muôn nhà.
Người dựng lại đạo đức đó là Thầy. Khi Thầy chưa khởi xướng, thì có bao giờ ai được nghe những danh từ đạo đức không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh chưa? Có bao giờ ai nghe được những danh từ đạo đức nhân bản - nhân quả chưa? Từ ngày bộ sách Đường Về Xứ Phật ra đời mới có những danh từ này. Phải không các con?
Những danh từ này đã tiêu biểu làm cho mọi người chú ý và lắng nghe tiếng nói Phật giáo chân chánh. Từ những danh từ này, nó sẽ đi vào tâm hồn của mỗi người và nó sẽ biến dần qua từng hành động sống của mọi người sẽ không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh.
Nhờ đó, trên hành tinh này sẽ có nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Muốn được vậy và sự lan rộng nhanh chóng hơn, thì phải do nơi sức lực của các con, nơi trí óc và những chất xám của các con. Những gì các con đã ghi chép, đã viết ra đều là tiếp tay với Thầy dựng lại Phật giáo. Từ lâu, Thầy đã hằng mong ước có những cây bút, có những đầu óc sáng suốt, vì hạnh phúc của loài người mà sách tấn nhau để giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh; vì hạnh phúc của loài người mà khích lệ nhau tu tập xả tâm, ly dục ly ác pháp; vì hạnh phúc của loài người mà các con viết lên từng kinh nghiệm tu tập những hành động đạo đức nhân bản - nhân quả để phổ cập đến hang cùng, ngõ hẻm; bất cứ nơi đâu cũng có đạo đức này.
Mừng sinh nhật Thầy chính là những ngòi bút của các con viết lên NHỮNG GƯƠNG HẠNH SỐNG. Những gương hạnh sống rất quan trọng hơn lời nói suông các con ạ!
Các con viết được thì phải làm được. Viết được mà không làm được là người phật tử phỉ báng Phật, phỉ báng Thầy.
Các con nói được mà không làm được; Đại thừa và Thiền tông sẽ dựa vào chỗ đó mà phỉ báng Thầy; phỉ báng Thầy tức là phỉ báng giáo pháp của Phật.
Bởi những điều Thầy dạy là những điều trong kinh sách nguyên thủy dạy. Thầy không có pháp gì mới cả, chỉ dựng lại những gì của đức Phật đã bị ngoại đạo dìm mất qua kinh nghiệm tu tập của mình. Thầy đã triển khai và làm sáng tỏ đường lối của đạo Phật cho phù hợp với thời đại hiện nay; thời đại mà trí thức loài người đang phát triển cao, đang có sự hiểu biết sâu rộng, đang có những kiến thức khoa học để chứng minh đường lối tu học theo Phật giáo là một sự thật.
Thầy có bổn phận là dựng lên, làm sống lại những gì của Phật giáo. Thầy chỉ là người nối tiếp cầm ngọn đèn chánh pháp của Phật, giúp cho con người trên hành tinh này thấy được đường đi, để thoát ra nơi rừng thẳm âm u trong đêm dày đặc bóng tối. Từ khi Thầy tu xong, chỉ có mong ước điều ấy.
Từ đây về sau, tất cả những người về Tu Viện Chơn Như, chấp nhận Chơn Như là nơi tu hành của mình, thì phải thấy trách nhiệm và bổn phận đối với chánh pháp của Phật.
Trước tiên là phải gắng sức tu tập, phải sống đúng giới luật, đừng để vi phạm dù những giới nhỏ nhặt. Sống như thế nào, tu như thế nào để xứng đáng là con của Phật, là đệ tử của Thầy thì những ngày mừng sinh nhật năm tới sẽ nói lên được ý nghĩa tốt đẹp hơn. Và như vậy, các con còn gặp Thầy lại nữa. Nếu các con tu hành có hình thức, giữ giới không nghiêm túc lấy lệ, thường hay phá giới hạnh độc cư, ngủ nghỉ phi thời, thì đó là nhân duyên đã hết; Thầy sẽ ra đi, và ra đi mãi mãi. Vì các con tu tập không nhiệt tình, giữ gìn giới luật không nghiêm chỉnh, thì Thầy còn tha thiết sống trên thế gian này nữa để làm gì. Phải không các con?
Còn nếu các con nỗ lực cố gắng tu hành sống đúng giới luật, sống không làm khổ mình, khổ người thì các con không cầu thỉnh Thầy ở lại, nhưng Thầy cũng sẽ ở lại, ở lại mãi ngàn kiếp, vạn kiếp cùng bên các con.
Hiện giờ các con có người sống chưa đúng giới luật và tu tập còn chểnh mảng. Tuy Thầy không rầy la người nào hết, chỉ có nhắc nhở khéo léo để may ra các con biết sám hối sửa sai, biết giữ gìn Phạm hạnh trọn vẹn thì Thầy mới hoan hỷ. Nhưng các con không cố gắng tu tập và không giữ gìn giới luật, thì Thầy cũng đành chịu thôi! Chứ biết nói sao bây giờ!!!
Duyên Phật pháp không có. Nghiệp chúng sanh quá nặng. Thôi thì đành phải ra đi, từ đó âm thầm Thầy sẽ nhập diệt và mãi mãi không trở lại, như đức Phật đã vào Niết Bàn.
Nếu đạo đức nhân bản - nhân quả này mà không dựng lại được cho loài người, thì con người sẽ bị tiêu diệt; chính nó tiêu diệt lấy nó...
Hôm nay Thầy tuyên bố, để rồi ngày mai, các con sẽ thấy lời nói này không sai.
Ôi! Nghĩ đến ngày con người tự diệt mà lòng thương đau, xót xa vô cùng. Tuy rằng Thầy đã ra đi, những nỗi đau thương vẫn còn ấp ủ trong lòng. Dù bất cứ ở nơi đâu, Thầy vẫn thương những người đệ tử của mình đang sống trên hành tinh này không đủ phước duyên để thọ hưởng những đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người. Một đạo đức sâu mầu cao thượng tuyệt vời, mà chỉ Phật giáo mới có mà thôi!!!
Đến đây, Thầy xin chấm dứt lời đáp từ mừng sinh nhật Thầy. Chúc tất cả các con dồi dào sức khỏe, tu tập xả tâm tốt.
Thân thương chào các con.
Thầy của các con
Thích Thông Lạc
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 12-12-2004
Kính gửi: Liễu Tâm. Ngoài bìa sách, con nên cho một ảnh Phật Thích Ca Thái Lan đang thực hành pháp Thân Hành Niệm.
Về phần ảnh của Thầy thì con không nên đặt trong sách. Đặt ảnh Thầy trong sách, người ta hiểu lầm là tâm Thầy còn tham danh con ạ!
Cho nên khi đặt ảnh Thầy vào trong sách thì con nên đề hàng chữ: “Vì yêu cầu của phật tử, con xin Thầy hoan hỉ cho chúng con lưu niệm hình Thầy trong sách này” (ảnh chân dung). Nhưng theo Thầy, tốt nhất là không nên đặt hình ảnh của Thầy trong sách.
Cuộc đời chỉ là một giấc mộng hãi hùng, có gì là danh; có gì là lợi? Đến với cuộc đời, vì lợi ích cho mọi người, chúng ta hãy làm những gì cho đời, chứ không phải làm những gì cho đời để lưu danh thiên cổ. Chúng ta đến với cuộc đời với đôi bàn tay trắng, khi trở về lòng đất, những gì chúng ta đã làm được là vì ích lợi cho đời, chứ không phải là để lưu dấu. Phải không con?
Thầy đã nhiều lần nhắc nhở các con, nhưng các con không nghe. Những việc làm của các con là một kẻ hở để những người có ác ý tìm cách bài bác, chỉ trích, nói xấu Thầy... Vô tình chúng ta tạo nên ác nghiệp cho họ. Thật đáng thương các con ạ! Còn riêng Thầy khen, chê như gió thoảng ngoài tai, như nước đổ lá khoai, như nước chảy qua cầu.
Con còn nhớ không? Khi bộ sách Đường Về Xứ Phật được phép in ấn thì Nhà Xuất Bản Văn Hóa xin Thầy cho ghi tiểu sử và được in hình Thầy trong sách. Thầy trả lời:
Tiểu sử Thầy chẳng có gì. Là một công dân trong một nước đang bị chiến tranh, Thầy và mọi người dân trong nước phải cùng nhau chiến đấu để bảo vệ quê hương Tổ quốc thì có gì mà phải ghi. Đó là nhiệm vụ của người công dân.
Còn về tôn giáo, Thầy là một tu sĩ Phật giáo, bổn phận trách nhiệm của người tu sĩ Phật giáo là phải làm sáng tỏ tôn giáo của mình đang theo. Đây cũng là bổn phận trách nhiệm, có gì phải ghi. Phải không con?
Về cháu Nhung, nhân quả không ai thoát khỏi. Con hãy thay Thầy đến thăm cháu Nhung và đừng đả động gì đến chuyện kinh sách. Khi con báo cho ông Bắc biết thì cháu Nhung sẽ giải quyết với Nhà Xuất Bản, còn con chỉ đến thăm và dò xét mà thôi.
Thăm và chúc cả gia đình con đều mạnh khoẻ. Riêng con nhớ xả tâm cho thật tốt, vì tất cả pháp đều vô thường.
Kính thư
Thầy của con
T.B: Thầy sẽ gửi cho con Điệp phái và một tập sách mẫu.
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 10-4-2005
Kính gửi: Quý phật tử, những người con thân thương của Thầy!
Hỡi các con! Luật nhân quả không tha thứ cho một người nào, dù người ấy tu hành chứng đạo như Phật vẫn phải trả nhân quả.
Ngoại đạo, đệ tử và người thân trong gia đình của đức Phật đều muốn hại Phật, nên cho voi say, lăn đá, vu khống Phật với phụ nữ v.v… Lịch sử còn ghi đậm nét đau thương ấy, những vết thương đau ấy còn mãi muôn đời mà không ai không biết.
Còn Thầy thì sao? Mọi việc xảy ra tại Tu Viện Chơn Như này đều là do phước của chúng sanh chưa đủ, nên Thầy gặp nhiều điều khó khăn. Trong lúc Thầy hết sức tìm người để cố gắng đào tạo những người cầm ngọn đuốc Phật pháp nối tiếp làm sáng tỏ đường lối của đạo Phật, nhưng gặp trường hợp này cũng đành chịu thôi. Đấy là duyên của chúng sanh biết làm sao hơn. Phải không các con?
Đối với Thầy mọi việc xảy ra như nước chảy qua cầu, được mất là phước của mọi người, chứ đâu phải của Thầy. Thầy là người đã buông xả hết chuyện thế gian rồi, có gì của Thầy nữa đâu? Danh, lợi đối với Thầy như sương mai buổi sớm, như bong bóng nước, còn có nghĩa lý gì. Phải không các con?
Mục đích của Thầy là đem lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người. Đó là lòng yêu thương của Thầy đối với mọi người, với các con, Thầy chưa nỡ bỏ các con ra đi mà thôi, vì các con còn quá khổ đau.
Cuộc đời này không có vật gì làm Thầy luyến tiếc cả. Cho nên việc làm của Thầy được hay không được, còn có gì quan trọng đối với Thầy nữa đâu. Thầy chỉ thương cho chúng sanh không đủ phước hưởng nền đạo đức nhân bản - nhân quả mà thôi. Thầy ra đi bộ sách đạo đức làm người chưa xong và bộ sách Văn Hóa Truyền Thống Việt Nam chưa hoàn thành những đức hạnh của dân tộc Việt Nam của tu sĩ Phật giáo Việt Nam là một nỗi thương tâm to lớn trong lòng Thầy. Các con có biết không?
Cái gì đúng là đúng; cái gì sai là sai; cái gì tốt là tốt; cái gì xấu là xấu, không thể che đậy, tất cả mọi sự việc thời gian sẽ trả lời. Còn nếu bây giờ minh oan thế này, thế kia thì oán hận càng sinh và cũng làm thêm cho sự việc càng xấu và đen tối hơn.
Từ lâu Thầy đã chịu biết bao điều tai tiếng từ những người học trò thân thương của mình, nhưng Thầy vẫn đứng sừng sững giữa đất trời bao la, mặc cho “Bát phong” thổi dồn dập, làm gì thì cứ làm, nhưng tình của Thầy vẫn thương những người học trò của mình sẽ mãi mãi trôi lăn trong lục đạo.
“Những buổi chiều tà mưa phủ trắng
Thầy cười tha thứ kẻ vong ân”
Với tâm bất động, Thầy sẽ xô ngã tất cả những tà pháp, nhất định chánh pháp của Phật sẽ được trường tồn. Tu Viện Chơn Như sẽ sáng chói huy hoàng. Càng gặp nhiều ác pháp gió dữ các con mới thấy sức mạnh của Tu Viện Chơn Như vĩ đại hơn bao giờ hết.
Các con hãy bền chí tu hành, đừng vì một lý do gì mà bỏ phí một cuộc đời trôi lăn trong lục đạo, phải xả tâm diệt ngã ly dục ly ác pháp, đừng để những chuyện nhỏ mọn chi phối tâm. Hãy bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Đó là các con đã trợ giúp Thầy và giữ gìn Tu Viện Chơn Như vững như tường đồng vách sắt, chứ các con động tâm buông xả pháp để tâm đau khổ là Tu Viện Chơn Như sẽ chìm mất trong đám mây mù của giáo pháp Đại thừa.
Thời đức Phật còn tại thế, Ngài cũng chịu biết bao nhiêu gian khổ trong 49 năm hoằng hóa độ sanh, vì đệ tử, vì người thân và vì ngoại đạo, nhưng chánh pháp của Ngài vẫn thường hằng và sừng sững đến ngày nay 2548 năm. Phật còn như vậy thì Thầy có khác gì. Phải không các con?
Vậy các con hãy bình tĩnh, tâm phải bất động đừng để tâm nghe bên này, bên kia mà hãy buông xuống hết. Trên cuộc đời này còn có vật gì, còn có danh gì mà thường hằng không thay đổi, tất cả đều là vô thường. Tất cả các pháp đều là vô thường thì còn có nghĩa gì là xấu, là tốt, là đúng, là sai, chỉ là một trò tuồng của nhân quả mà thôi.
Nếu các con không chánh niệm, tĩnh giác thì các con bị quy luật nhân quả chi phối, tâm các con sẽ điên đảo vô cùng và gánh chịu mọi sự khổ đau.
Các con hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu có người huỷ báng Phật, các Ngươi chớ vì vậy mà sinh lòng công phẫn, tức tối tâm sinh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các Ngươi, làm cho các Ngươi khổ đau không ích lợi gì?”.
Đọc lời dạy này, khi các con nghe ai phỉ báng Thầy, nói xấu Thầy thì các con đừng sinh lòng công phẫn, đừng tức tối, mọi việc sẽ là một sự thật không ai có thể lấy trắng làm đen được.
Hãy lo tu tập xả tâm, đó là những điều cần thiết cho các con, mỗi người phải lo cứu mình, đừng để ác pháp chi phối tâm mình thì các con phải chịu khổ đau muôn vàn, Thầy cũng không thay thế chịu những nỗi khổ đau của các con được và cũng không ai cứu các con được, khổ đau các con phải chịu lấy. Mọi sự việc của tu viện đều có Thầy.
Tu Viện Chơn Như có Thầy, một trụ cột vững vàng, dù cho ai có làm gì thì trụ cột này cũng không đổ đâu các con ạ! Thầy sẵn sàng gánh vác mọi sự gian nan, thử thách, các con đừng bận tâm, hãy lo tu tập xả tâm cho sạch những ác pháp đang ngầm đốt cháy trong tâm của các con, các con có biết không?
Tu Viện Chơn Như càng nhiều gian nan thì mới thấy sự bất động của Phật pháp là vĩ đại. Các con còn yếu lắm, mới có tí xíu ác pháp mà tâm các con đã dao động mất tĩnh giác, không còn chánh niệm; tâm như điên đảo. Hãy xem những trò đùa của nhân quả nó làm gì nổi Tu Viện Chơn Như?
Ban bằng và đốt sạch Tu Viện Chơn Như ư! Các con yên tâm, vì Tu Viện Chơn Như vẫn im lặng bất động, mặc cho các ác pháp làm gì cứ làm, vì nơi đây đâu còn danh, vì nơi đây đâu còn lợi. Nhất định Phật pháp phải trường tồn, đạo đức nhân bản - nhân quả phải sáng chói huy hoàng, không ai dập tắt nó được; nó sẽ được loài người bảo vệ.
Thăm và chúc các con vui mạnh, nhớ xả tâm tốt; đừng lo, mọi việc đều có Thầy.
Chơn Như, ngày 10 tháng 4 năm 2005
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 10-8-2005
BỨC TÂM THƯ GỬI QUÝ PHẬT TỬ
Kính gửi: Quý phật tử, những người con thân thương của Thầy.
Hỡi các con! Trong những ngày qua Tu Viện đã xảy ra nhiều biến cố, nhờ những biến cố ấy mà các con đã biết ai là người đã ban bằng và đốt sạch Tu Viện Chơn Như chưa?
Trong bức tâm thư II Thầy đã nói: “Mục đích của Thầy là đem lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người. Đó là lòng yêu thương của Thầy đối với mọi người, với các con, Thầy chưa nỡ bỏ các con ra đi mà thôi, vì các con còn quá khổ đau.
Cuộc đời này không có vật gì làm Thầy luyến tiếc cả. Cho nên việc làm của Thầy được hay không được, còn có gì quan trọng đối với Thầy nữa đâu. Thầy chỉ thương cho chúng sanh không đủ phước hưởng nền đạo đức nhân bản - nhân quả mà thôi. Thầy ra đi, bộ sách Đạo Đức Làm Người chưa xong và bộ sách Văn Hóa Phật giáo Truyền Thống Việt Nam chưa hoàn thành những đức hạnh của dân tộc Việt Nam, của tu sĩ Phật giáo Việt Nam là một nỗi thương tâm to lớn trong lòng Thầy. Các con có biết không?”
Nếu tu viện Chơn Như bị ban bằng và đốt sạch thì các con có nỡ lòng nào nhìn ngọn lửa nhân quả thiêu rụi này hay không? Hay chính các con đang tiếp tay với nhân quả để làm cho tu viện bằng địa càng sớm càng tốt.
Nếu các con không nỡ nhẫn tâm tiếp tay đốt sạch Tu Viện Chơn Như thì các con hãy im lặng để xem tình đời gian ác đến mực nào. Các con còn nhớ lời khuyên trong bức tâm thư hai của Thầy không?
“Các con hãy bền chí tu hành, đừng vì một lý do gì mà bỏ phí một cuộc đời trôi lăn trong lục đạo, phải xả tâm diệt ngã ly dục ly ác pháp, phải sống đúng đạo đức không làm khổ mình, khổ người, đừng thấy lỗi người mà hãy thấy lỗi mình, đừng để những chuyện lừa đảo nhỏ mọn chi phối trong tâm, phải sáng suốt nhận định một nhân quả đóng kịch rất khéo léo và tài ba mà không có một nghệ nhân nào diễn xuất hơn. Hãy bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Đó là các con đã trợ giúp Thầy và giữ gìn Tu Viện Chơn Như vững như tường đồng vách sắt, chứ các con động tâm buông xả pháp để tâm đau khổ là Tu Viện Chơn Như sẽ chìm mất trong đám mây mù của giáo pháp Đại thừa.
Thời đức Phật còn tại thế, Ngài cũng chịu biết bao nhiêu gian khổ trong 49 năm hoằng hóa độ sanh, vì đệ tử, vì người thân và vì ngoại đạo, nhưng chánh pháp của Ngài vẫn thường hằng và sừng sững đến ngày nay, 2548 năm. Phật còn như vậy thì Thầy có khác gì. Phải không các con?
Vậy các con hãy bình tĩnh, tâm phải bất động đừng để tâm nghe bên này, bên kia mà hãy buông xuống hết. Trên cuộc đời này còn có vật gì, còn có danh gì mà thường hằng không thay đổi, tất cả đều là vô thường. Tất cả các pháp đều là vô thường thì còn có nghĩa gì là xấu, là tốt, là đúng, là sai, chỉ là một trò tuồng của nhân quả mà thôi.
Nếu các con không chánh niệm, tĩnh giác, thì các con bị quy luật nhân quả chi phối, tâm các con sẽ điên đảo vô cùng và gánh chịu mọi sự khổ đau”.
Trong cuộc đời tu và hành đạo của Thầy, có nhiều khó khăn, nhưng Thầy đều vượt qua. Thầy không hề chùng bước trước mọi gian lao và thử thách. Khi tu hành xong Thầy chỉ mong dựng lại nền đạo đức của Phật giáo cho loài người, Thầy thương yêu con người lắm các con ạ! Vì nghiệp, họ đau khổ quá nhiều. Thầy kê vai gánh vác nghiệp của họ nên Thầy bị trù dập. Thầy im lặng như Thánh để xem mọi trò diễn xuất đóng kịch của họ làm gì được với chánh pháp của Phật. Nó muốn diệt nền đạo đức của Phật giáo một lần nữa ư! Nhưng đạo đức có mặt thì vô đạo đức sẽ không có mặt. Vì thế những người vô đạo đức đang ra tay diệt đạo đức. Các con có thấy không?
Với đôi mắt của người tu chứng đạt chân lí, họ nghe và thấy sự gian xảo, hung ác của những người chưa hiểu đạo đức, có thể độc hơn loài hơn loài ác thú, miệng họ độc hơn miệng loài rắn độc, mỗi lần mở miệng là nọc độc truyền khắp nhiều người, khiến cho những người bị nọc độc quá khổ đau gần như muốn chết. Nhưng Thầy rất thương yêu họ, Thầy ước nguyện cho họ sớm giác ngộ để biết đâu là thiện, đâu là ác pháp; đâu là nhân, đâu là quả. Chính họ đang tạo nhân ác thì họ gánh chịu quả khổ đau liền, khổ đau gần như muốn chết.
Trong lúc này, Thầy chỉ cần vào Niết Bàn thì an ổn hơn, nhưng vậy thì ma vương sẽ lừng lẫy và chúng sanh còn biết nương tựa vào đâu? Biết đường nào mà đi?
Hơn 2500 năm nay, nếu không có Thầy thì ai là người vạch lối chỉ đường cho mọi người thấy được Chánh pháp của Phật; ai là người khởi xướng dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo?
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 05-4-2006
Kính gửi: Tòa soạn Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
Tai nạn giao thông trong những năm qua ở tất cả mọi nơi trên toàn quốc. Thật là đau xót và nhức nhối.
Đây là nỗi bức xúc và rất nan giải mặc dù đã được Đảng, Chính quyền các cấp, các địa phương và ngành Cảnh Sát Giao Thông hết sức quan tâm. Chúng ta đã tiến hành nhiều biện pháp tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn, tăng cường quản lý, xử lý theo luật, tổ chức liên tục các chiến dịch nhằm bảo đảo an toàn giao thông, nhằm hạn chế thấp nhất số vụ tai nạn. Song, trong thực tế vẫn còn vấn đề cần phải giải quyết tận gốc.
Sự hiểu biết về luật giao thông của người cùng phương tiện tham gia giao thông là quan trọng, nhưng điều quan trọng lớn hơn và then chốt, đó là đạo đức của người tham gia giao thông.
Nếu mọi người ý thức rõ ràng bổn phận, trách nhiệm của mình khi tham gia giao thông, biết sống không làm khổ mình khổ người thì mọi sự đều trở nên tốt đẹp.
Chúng tôi là những người tu hành theo Phật giáo, khi đọc báo “Công an Thành phố Hồ Chí Minh”. Chúng tôi rất xót xa trước những bài và ảnh mà tòa soạn đưa tin về tai nạn giao thông.
Suy cho cùng các tai nạn xảy ra hầu hết đều có nguồn gốc từ chỗ thiếu đạo đức giao thông, không thấy được trách nhiệm với mình với người. Vì thế mới có chương I đạo đức giao thông trong Bộ sách “đạo đức” làm người nhiều tập. Chúng tôi mong những trang sách này ít nhiều góp phần giúp mọi người tĩnh giác, có ý thức giữ gìn chấp hành luật lệ giao thông, Nhà nước và nhân dân cùng gắng sức thiết lập trật tự giao thông, giảm thiểu thấp nhất số vụ tai nạn.
Trong sách chúng tôi có sử dụng một số ảnh của Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh để minh họa dẫn chứng, chúng tôi thành thật xin lỗi và biết ơn Tòa soạn cùng tác giả. Kính mong Tòa soạn và các tác giả cảm thông cho.
Chúng tôi xin trân trọng gửi tới Tòa soạn hai tập sách vừa được xuất bản. Mong được sự góp ý, giúp đỡ, và nhất là những ảnh tư liệu tốt - rõ nét để lần tái bản tới, “Đạo đức làm người” tập I được hoàn chỉnh hơn, ảnh đẹp hơn.
Một lần nữa xin cảm ơn Ban Lãnh đạo cùng Tòa soạn.
Kính ghi
Viện chủ Tu Viện Chơn Như
Trưởng lão Thích Thông Lạc
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 02-5-2006
BỨC TÂM THƯ GỬI NHÀ CHỨC TRÁCH
Kính gửi: Ông (Bà)...... Như mọi người đều biết, lúc sinh thời, Bác Hồ kính yêu rất chăm lo việc giáo dục đạo đức, xây dựng con người mới. Trước lúc vĩnh biệt chúng ta, trong di chúc, Bác cũng thiết tha căn dặn toàn Đảng toàn dân điều này.
Trong đời sống, con người vô đạo đức hành động của họ không khác gì một con thú vật.
Một gia đình thiếu đạo đức là một gia đình đau khổ.
Một xã hội thiếu đạo đức là một xã hội mà mọi người sống gian ác, xảo trá, lường gạt, bon chen chà đạp lên nhau để cướp miếng ăn, của cải vật chất và danh lợi. Ở đó, đồng tiền được xem là trên hết.
Một đất nước không có đạo đức là một đất nước không phồn vinh thịnh trị, mưa không thuận gió không hòa, thường xảy ra trộm đạo cướp của giết người, bạo loạn binh đao xung đột khiến cho đất nước đó không an bình.
Khi đạo đức bị băng hoại, lương tri và lương năng cũng biến mất. Nhà nước phải dùng pháp luật để ngăn cấm và trừng trị những kẻ phạm tội, nhưng pháp luật là pháp luật. Với những người vô đạo đức thì họ chẳng bao giờ sợ pháp luật. Khi được trả tự do họ lại chứng nào tật ấy nhất là những người đã thành đầu trộm đuôi cướp, du côn du đãng.
Vì vậy, đạo đức và việc giáo dục đạo đức rất quan trọng đối với cuộc sống hằng ngày của con người.
Từ xưa đến nay, con người đã nói rất nhiều về đạo đức. Mỗi xã hội loài người lại có những yêu cầu và chuẩn mực riêng về đạo đức, nhưng những đạo đức ấy chưa đủ, chưa mang đến sự bình an cho loài người. Nhất là hôm nay với sự tiến bộ vượt bực của khoa học toàn cầu đang vào thời kỳ công nghiệp hóa. Vật chất càng nhiều, đời sống con người càng đầy đủ tiện nghi thì tâm tham đắm đòi hỏi càng nhiều. Tâm tham đắm và đòi hỏi càng nhiều thì đạo đức sẽ mất dần, con người sẽ phải chuốc khổ đau nhiều hơn.
Có người lầm cho rằng vật chất càng nhiều; cuộc sống tất phải hạnh phúc. Điều này không đúng. Vật chất càng nhiều sẽ càng nhiều bon chen, đua đòi; con người sinh tâm hung ác giết hại lẫn nhau; ai ai cũng nghĩ đến danh lợi. Người ta sẽ không còn nghĩ đến đạo đức. Khi đã vì danh lợi, lúc ấy, con người chẳng khác một con thú hung dữ.
Trên hành tinh này, hôm nay đạo đức đang xuống dốc không riêng ở một nước nào. Nạn khủng bố giết người vô tội vạ, những hành động man rợ, tham nhũng, sa đọa, phi nhân tính ngày càng gia tăng.
Vì thế với chúng ta, việc giáo dục đạo đức xây dựng con người mới là việc làm của toàn Đảng toàn dân, của mọi ngành, của mọi nhà, mọi người là sự kết hợp trong nhà trường và ngoài nhà trường, là trách nhiệm và hành động thiết thực của mọi người dân yêu nước.
Muốn chấm dứt khổ đau của con người trên hành tinh này, thì không có phương cách nào tốt hơn là xây dựng nền đạo đức nhân bản - nhân quả tự mỗi người sống không làm khổ mình khổ người.
Với tấm lòng thiết tha yêu thương con người, yêu cuộc sống, yêu đất nước quê hương. Tu Viện chúng tôi soạn bộ sách “Đạo đức Làm Người” gồm 24 tập.
Bộ sách “Đạo Đức Làm Người” ra đời là ngăn chặn những hành động ác - làm khổ mình khổ người. Nó nhằm quân bình vật chất và tinh thần giúp cho cuộc sống bình ổn an vui.
Bộ sách xác định cho chúng ta biết hành động thế nào là thiện, thế nào là ác.
Bộ sách “Đạo Đức Làm Người” sẽ chỉ bày cho chúng ta đạo đức vệ sinh: Vệ sinh môi trường sống, vệ sinh đời sống đối với mình, với người, vệ sinh cơ thể, vệ sinh tư tưởng, v.v... Nó còn dạy cho chúng ta đạo đức giao thông, đạo đức hiếu sinh, đạo đức buông xả (không tham lam trộm cắp) đạo đức chung thủy; đạo đức thành thật và uy tín; đạo đức khôn ngoan; đạo đức cha mẹ với con cái; đạo đức con cái với cha mẹ; đạo đức chồng đối với vợ; đạo đức vợ đối với chồng; đạo đức thầy đối với học trò; đạo đức học trò đối với thầy; Đạo đức lời nói; cách xưng hô nói chuyện với mọi người, những văn hóa giao tiếp ứng xử hằng ngày, v.v...
Trên đây là hai tập (một và hai) của bộ sách “Đạo Đức Làm Người” 24 tập, được Nhà Xuất bản Tôn giáo - Ban Tôn giáo Chánh phủ cùng Tu Viện Chơn Như là đối tác liên kết xuất bản lần lượt giới thiệu trong năm 2006 - 2007.
Chúng tôi xin trân trọng kính gửi tới Ông (Bà)...... nghiên cứu xem xét nội dung sách đạo đức, và cho biết ý kiến giúp đỡ chúng tôi trong việc triển khai giáo dục đạo đức con người theo định hướng của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, con người mới. Góp phần thiết thực xây dựng những khu dân cư văn hóa.
Tại Long Thành - Đồng Nai có người hiến cúng 2 ha đất vườn cây ăn quả nên Tu Viện Chơn Như có nguyện vọng đang xin cấp cho giấy phép để xây dựng một điểm ở Long Thành - Đồng Nai, lấy tên là “Trung tâm An dưỡng Chơn Lạc”.
Đây là một tổ chức từ thiện nhằm đáp ứng yêu cầu nghỉ ngơi của người có tuổi hoặc người yếu sức. Nếu có giấy cho phép của địa phương hoặc cơ quan, Trung tâm có thế tiếp nhận an dưỡng.
Về vật chất, người an dưỡng ăn thức ăn chay thanh tịnh hợp lý.
Về tinh thần, được nghỉ ngơi, tập pháp thư giãn, tâp tĩnh giác - thiền định, học đạo đức theo chương trình nội dung bộ sách “Đạo Đức Làm Người” đã được xuất bản.
Chúng tôi thiết tha mong được sự nghiên cứu xem xét nguyện vọng và được sự chỉ đạo cổ vũ quan tâm giúp đỡ của Ông (Bà)...... để chúng tôi được tham gia tích cực trong sự nghiệp xây dựng đạo đức con người mới, cuộc sống mới, cũng như đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người để có một cuộc sống mọi người thực sự ấm no, hạnh phúc.
Kính thư
Viện chủ Tu Viện Chơn Như
Trưởng lão Thích Thông Lạc
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 20-10-2006
TU LẠI TỪ ĐẦU
Kính gửi: Kim Tiên.
I/ Ngồi thiền vắng bặt vọng niệm là thiền ức chế tâm, thuộc về Thiền Đông Độ. Con nên lưu ý.
1- Khi ức chế không nổi thì vọng niệm tuôn trào: “vọng niệm trở lại nhiều”.
2- Còn lúc bặt vọng niệm thì không suy tư được, chỉ suy nghĩ về “đề mục” đang tu, đó là ý thức vô phân biệt. Tu hành như vậy là làm liệt ý thức, không lợi ích, đó là lối tu theo thiền Đông Độ, chỉ cố gắng diệt vọng niệm (chẳng niệm thiện niệm ác). Phật giáo nguyên thuỷ không chủ trương diệt vọng niệm ý thức, mà diệt niệm ác bằng ý thức, lấy ý thức làm chủ (ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp). Con đã tu sai rồi, hãy sửa lại, đừng tu tập pháp đó nữa.
II/ Nghe và cảm nhận hơi thở như một loạt bong bóng đẩy lên chìm xuống, trạng thái này là tưởng tức do con tu hơi thở sai, không theo 16 đề mục hơi thở của Phật dạy; tu theo pháp môn Minh Sát phồng xẹp thở theo cơ bụng nên bị thinh, thọ tưởng của hơi thở. Phải đình chỉ ngay cách tu tập này.
III/ Do tu ức chế tâm, không xả tâm, nên khi tiếp xúc và va chạm với mọi người thì con bị chao đảo như bị say sóng, đó là do con không tu Định Vô Lậu. Không tu Định Vô Lậu mà chỉ tu ức chế tâm nên con bị mất ngủ. Tu ức chế tâm mà không nhập vào Không Vô Biên Xứ được, nên có sự phản ứng của ý thức, vì thế con không làm chủ được tâm (nên vừa ngồi thì tâm ý mãnh liệt muốn đứng dậy).
Người mới vào tu phải giữ gìn giới luật nghiêm túc; để giữ gìn giới luật nhiêm túc mà không bị ức chế thân tâm thì phải tu quán các đề mục như:
1- Quán thân bất tịnh
2- Quán pháp vô thường
3- Quán thọ thị khổ
4- Quán tâm vô ngã
Còn khi tu ức chế tâm vắng bặt vọng niệm, rồi sau đó tu quán là con bị tưởng tuệ.Con nên theo lớp học Chánh Kiến để quán đúng chánh pháp của Phật thì sẽ cảm nhận sự giải thoát của thân tâm, còn quán như con là tu quán chung chung, nên kết quả ít lắm.
Để đẩy lui được bệnh khổ thì con nên tu tập đề mục thứ năm của Định Niệm Hơi Thở. Đây mới là pháp làm chủ bệnh của Phật: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Đó là đề mục của hơi thở để trị bệnh khổ của Phật giáo. Còn con tu nhìn thẳng vào cảm thọ đó là phương pháp của các Tổ.
Đọc bức thư thứ hai của con Thầy thấy con đã tu sai pháp hết rồi, nên mới đưa đến tình trạng rối loạn thân tâm như con đã trình trong thư.
Thiền của Phật mà từ xưa đến giờ người ta đã quan niệm sai. Cứ dùng pháp ức chế tâm cho hết vọng niệm.
Thiền của Phật do từ giới luật mà có định; do từ giới luật mà có định là phải sống đúng đức hạnh không làm khổ mình, khổ người, sống như người bình thường nhưng giới luật nghiêm túc, không vi phạm những lỗi nhỏ nhặt, nhờ đó tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ là định của Phật, chứ không phải tu tập cho hết vọng niệm. Con có hiểu chưa?
Con đã bỏ hết cuộc đời, bỏ mặc chồng con để tu hành, thế mà con tu được những gì đây? Thầy thương cho các con, tội nghiệp cho các con nhưng biết làm sao bây giờ.
Hãy bắt đầu tu lại từ đầu, hãy vào lớp Chánh Kiến, lớp Chánh Tư Duy rồi lần lượt tu học đến lớp Chánh Định thì mới chứng quả A La Hán vô lậu hoàn toàn.
Tu mà tâm không thanh thản, an lạc và vô sự là tu sai hết rồi con ạ!
Phật dạy: “Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy”, tức là thấy ngay sự giải thoát, không thấy ngay sự giải thoát là tu sai con ạ!
Thầy ước nguyện cho tất cả chúng sanh ngộ được chánh pháp của Phật để tu tập giới luật, đừng tu tập ức chế tâm không vọng niệm. Ức chế tâm không vọng niệm là một điều sai trong Phật pháp. Xin mọi người lưu ý.
Thăm và chúc con thân tâm thường an lạc, nhớ xả tâm tốt.
Thầy của con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 06-12-2006
PHẢI HỌC GIỚI LUẬT
Kính gửi: Từ Quang. Con trình sự tu tập là đúng, không sai, nhưng con nên phân biệt TỈNH THỨCvà TĨNH GIÁC. Tỉnh thức thuộc về thân, nên tu tập THÂN HÀNH. Thân hành thì có pháp THÂN HÀNH NIỆM; còn tĩnh giác thuộc về tâm, nên tu tập ÝHÀNHthì có pháp ĐỊNH VÔ LẬU.
Trong thư con viết: “Đi hết 10 phút thì chuyển qua ngồi xả tâm 10 phút”. Con nên lưu ý, đi 10 phút tức là tập tỉnh thức trên thân hành, nếu không thiện xảo khéo tu tập tỉnh thức trên thân hành và còn để phạm những lỗi nhỏ nhặt trong giới luật thì sẽ rơi vào ĐỊNH TƯỞNG; còn ngồi xả tâm 10 phút mà không thiện xảo khéo léo thì bị ức chế niệm, sẽ rơi vào TUỆ TƯỞNG. Tu như Thiện Thảo, tưởng mình là chứng đạo nên khoe khoang với mọi người nhập định này định kia, đó là tâm danh lợi khởi lên.
Thiện Thảo trong “Bảy Tháng Tu Tập Chứng Đạt Chân Lý” phá hạnh ĐỘC CƯ, còn nói chuyện rất nhiều; phá hạnh VÔ SỰđi trồng cây kiểng; làm đẹp nhà cửa phạm giới luật KHÔNG NÊN TRANG ĐIỂM; giờ giấc không nghiêm chỉnh, lúc ngủ giờ này, lúc ngủ giờ khác, phạm giới NGỦ PHI THỜI; không chứng thiền định nói mình chứng thiền định; không có chư thiên, bị thinh tưởng nói là chư thiên báo, đó là phạm giới ĐẠI VỌNG NGỮ. Một khi đã tu sai không hiểu đúng pháp thì phạm biết bao nhiêu giới luật.
Xả tâm có không gian rộng để có tầm nhìn xa thoải mái, rồi lắng nghe từng tâm niệm của mình, để ly dục ly ác thì tu tập đúng.
Xả tâm không có không gian rộng để có tầm nhìn xa thoải mái, nhưng lại luôn nhìn tâm để thấy từng tâm niệm khởi lên mà quán xét tác ý xả để ly dục ly ác pháp, đó là tu tập đúng.
Xả tâm có không gian rộng để có tầm nhìn xa thoải mái, nhưng lại chú tâm vào cảnh vật là ức chế niệm, không niệm khởi là sai. Con nên chú ý: sự tu tập không khéo sẽ sai lạc và sai lạc thì uổng công tu tập.
Chỗ không niệm khởi là do Giới luật nghiêm chỉnh, ly dục ly ác pháp nên rất tự nhiên thanh thản, an lạc và vô sự,còn bắt buộc tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì coi chừng bị ức chế tâm mất tự nhiên.
Trong bảy tháng tu tập để chứng đạt chân lí, hầu hết các con đều phạm giới độc cư và các giới khác nữa, nên Thầy xét thấy phải đi vào căn bản từ giới luật rồi đến thiền định, vì thế phải có chương trình giáo dục đào tạo; có chương trình giáo dục đào tạo là phải có giáo án được thành lập, nhân sự phải có người. Nhưng Tu Viện thì sóng gió, cho nên Thầy rất khó ở một bên với các con được để đào tạo. Tuy nhiên, dù Thầy ở xa nhưng vẫn hướng dẫn các con biên soạn giáo án được.
Biên soạn giáo án và đứng lớp dạy là các con đang tu tập và sống trong giới luật đức hạnh. Người sống đúng giới luật và đức hạnh là người xả tâm, ly dục ly ác pháp, là người chứng giới luật; người chứng giới luật là một vị thầy xứng đáng dạy giới luật. Ông A Nan và một số tỳ kheo chỉ chứng giới luật, vâng lệnh Phật đến dạy bên ni chúng, còn bây giờ các con giới luật còn vi phạm thì phải học giới luật. Học tu giới luật là phải biên soạn giáo án giới luật và phải giữ giới mới đứng lớp dạy, có như vậy các con mới chứng giới luật, sau khi chứng giới luật xong, thì mới được tuyển vào lớp tu tập bảy tháng chứng đạt chân lí. Có dịp gặp Thầy sẽ được dạy rõ ràng hơn.
Quyển “Bậc Ba Minh” muốn xin phép để phổ biến rộng rãi thì phải sửa lại những chỗ tu tập tỉnh thức và tĩnh giác, để mọi người tu tập không bị hiểu lầm lạc. Còn nữa, phải bỏ bớt những đoạn thừa lặp đi lặp lại nhiều lần làm mất giá trị tập sách; văn nói ra thì được, nhưng khi viết thành sách thì phải gọn gàng và rõ ràng.
Còn xin phép in ấn trong giai đoạn này, đất nước mở cửa không còn khó như lúc trước nữa, con nên để Thầy giúp cho.
Khi ý thức không hoạt động tức là không niệm khởi do ức chế tâm, thì mười tám loại tưởng xuất hiện gồm có:
1- Sáu Căn tưởng: nhãn tưởng, nhĩ tưởng, tỷ tưởng, thiệt tưởng, thân tưởng, ý tưởng;
2- Sáu Trần tưởng: sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng;
3- Sáu Thần Thông tưởng: nhãn tưởng thông, nhĩ tưởng thông, tỷ tưởng thông, thiệt tưởng thông, thần tưởng thông (thần túc thông tưởng), tha tưởng thông (tha tâm thông tưởng).
Thăm và chúc con mạnh, tu tập thấy cái gì lạ hoặc nghĩ tưởng tu chứng cái này cái kia là sai, phải buông xuống hết. Chỉ một điều duy nhất là tâm tự nhiên thanh thản, an lạc và vô sự là đúng, còn ức chế cũng là sai.
Thân thương chào con
Thầy của con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 07-01-2007
Kính gửi: Chơn Niệm.
1- Lớp Chánh Kiến là lớp dạy kinh, nên Thầy cho các con ngồi trả lời là đúng theo nghĩa kinh điển.
2- Từ khi Thầy rời khỏi Tu Viện mới có Bảng Tuyên Bố Kết Quả, mới triển khai lớp học giới luật NGŨ GIỚI, thì có gặp con bao giờ đâu, mà con lên hỏi Thầy gọi thầy Chơn Thành bằng HIỀN GIẢ?!
Xin trả lời hai chữ HIỀN GIẢ, các con dùng cho thầy Chơn Thành có đúng không. Tập 5 Đường Về Xứ Phật có dạy, người nào giới luật giữ gìn nghiêm túc thì gọi là HIỀN GIẢ, nhưng bài Tuyên Bố Kết Quả Bảy Tháng Tu Học, Thầy có xác định thầy Chơn Thành còn phạm vào những giới nhỏ nhặt. Như vậy, các con dùng hai chữ HIỀN GIẢcó đúng chưa?
3- Lớp học về đạo đức cần phải đào sâu tất cả nghĩa đạo đức, cho nên có những người hiểu như thế này, như thế khác làm cho lớp học rất sống động, mà tu sinh là những người đào sâu vào tri kiến của mình mới gọi là chương trình giáo dục đào tạo, nếu những ý kiến không giải quyết được thì đưa những ý kiến đó đến hỏi Thầy, thì làm cho sự hiểu của tu sinh càng dồi dào và thâm sâu, chứ làm gì có nổi giận tìm cách ly gián chia rẽ. Đây là lớp học đạo đức, chứ đâu phải sự tranh chấp hơn thua ngoài đời.
Trong kinh Phật có đoạn kinh nói về các vị Bà La Môn tranh chấp pháp mình cao hơn pháp người khác, bằng những lý luận lập trường vững vàng, không ai chịu thua ai. Lúc bấy giờ, họ đồng đưa đến hỏi Phật, còn bây giờ, có Thầy trả lời những ý kiến hiểu biết của tu sinh người nào đúng, người nào sai, nhờ đó lớp học sống động, tu sinh càng tiến bộ và thấm nhuần đạo đức càng mau hơn.
Ý hiểu biết của con và của Thanh Quang càng đào sâu vào đạo đức nhân quả. Có hai sự hiểu biết khác nhau, nhờ đó mới đào sâu vào nhân quả và những ý ấy được Thầy chỉ định. Con hiểu như vậy và Thanh Quang hiểu như vậy chưa hẳn đã là đúng, chỉ có Thầy xác định, làm cho con, Thanh Quang và các tu sinh mới hiểu rõ nghĩa hơn. Lớp tu học đào tạo là phải vậy mới đúng nghĩa rèn luyện đào tạo.
4- Đây là lớp học đạo đức tình thương của Thầy triển khai, nên lúc nào Thầy cũng ở sau lưng để dạy dỗ các con. Cái suy nghĩ của con không đúng tinh thần đạo đức ở trong lớp học này. Tu sinh trong lớp học này là những người đang ươm giống đạo đức, có đâu lại có những tư tưởng như con nói là sân giận. Nếu sân giận thì họ cũng biết mà xả tâm; xả tâm là một bài học đạo đức rất tốt.
Qua bài học đạo đức về “Chú Bé Ném Đá”, con không hiểu nên phát biểu ý kiến sai. Khi người tài xế bước xuống xe, quá tức giận nên nắm cổ áo chú bé để đánh, thì chú bé sợ hãi phải khóc chứ sao. Lúc bấy giờ chú bé vừa khóc vừa nói thì tài xế không đánh, nhưng sững sờ. Cho nên, muốn phát biểu một điều gì cần phải rõ. Chính con hiểu tâm con qua tâm niệm của người khác nên thấy mọi người không thiện. Vì thấy mọi người không thiện, nên làm tâm con khổ.
Không ai nổi nóng, họ chỉ thấy con nói sai ý bài học mà phát biểu chỉnh đốn sự hiểu sai của con mà thôi.
5- Người đứng lớp dù có tài, mà học viên không tin tưởng thì cũng đành chịu thôi. Huống là thầy Chơn Thành chỉ tập sự đứng lớp dạy, được như vậy cũng rất đạt chất lượng.
6- Sự tu học của các con chưa có công đức gì, mà nguyện đem công đức này hồi hướng thì e rằng không thật.
7- Niệm hồng danh Phật ba lần liên tục rồi xá một lần.
Về giới luật và các pháp Yết Ma các con chưa thông suốt, còn phải học nhiều nữa. Chỉ đọc sơ sơ giới cấm mà nghĩ như thế này, như thế khác là không hiểu gì hết. Cái sai của các con là hiểu lầm lớp học giới luật và lớp học kinh điển. Hai lớp học không giống nhau, vì giới phải dạy đúng giới; kinh phải dạy đúng kinh. Qua những bức thư các con gửi Thầy thì trình độ kinh và giới của các con còn phải học nhiều hơn nữa. Tu thì chẳng đến đâu mà học thì chưa thông suốt, thật tội cho các con lắm.
8- Những bao ni lon, nhựa xốp đem đốt liền, đừng để lâu có kiến hoặc côn trùng đốt thì tội nghiệp chúng lắm. Nên đốt liền là tốt nhất, đừng đem chôn và ném bỏ bậy là mất vệ sinh.
9- Giảng viên chỉ có bổn phận là dạy theo đúng giáo án, chứ không được dạy ngoài giáo án. Đây là lớp học sơ cấp của giới luật đức hạnh NGŨ GIỚI, bằng cách đưa ra một mẫu chuyện đạo đức và đặt nhiều câu hỏi quanh mẫu chuyện đó để bắt buộc học viên động não, nhờ đó mới thấm nhuần đạo đức. Đó là chương trình giáo dục đào tạo.
10- Những câu hỏi và những ý kiến ngoài bài học với mục đích xây dựng học viên biết cách xưng hô, chào hỏi, đứng, ngồi trả lời những câu hỏi cho có nề nếp đạo đức. Lỗi này là do Thầy không chuẩn bị trước cho các con, nhưng nó là bài học đạo đức khó quên. Cái hay nhất là tinh thần đóng góp đạo đức bằng mọi ý kiến của tu sinh xây dựng lớp học.
11- Thời gian tu học mà tất cả tu sinh xin thêm 30 phút thì giảng viên phải chấp nhận, nhưng một người xin thì không được.
12- Câu hỏi phải rõ ràng, thì câu trả lời mới xác định đúng, chứ hỏi chung chung thì không thể trả lời đúng được. Thầy Chơn Thành trả lời ở góc độ trong Tu Viện chứ không phải trả lời ở ngoài Tu Viện, vì đây là một bài học đạo đức trong giáo án mà các tu sinh chưa học đến.
13- Hai câu niệm Phật có thay đổi là do thầy Thanh Từ sửa lại: “Nam Mô Phật Bổn Sư...”, chữ Phật đứng trước. Còn trong các chùa Đại thừa Tịnh Độ niệm: “Nam Mô Bổn Sư...”, chữ Phật nằm sau.
Câu niệm Phật sau do Phật giáo Trung Hoa truyền qua Việt Nam. Niệm Phật như vậy hơn 2000 năm nên đã trở thành Việt hóa. Chúng ta thấy chữ Phật nằm phía sau cũng hay và thành thói quen thì nên chọn câu sau mà niệm.
14- Đã nói là lớp học thì giảng viên nữ hay nam đều đến bục giảng như nhau.
15- Thầy Chơn Thành người đang tập đứng lớp, chứ chưa phải là giảng viên, vì giảng viên phải biết biên soạn giáo án của lớp mình.
16- Thầy Chơn Thành còn đang tập sự đứng lớp, nên ngồi ngang như các tu sinh, vì Thầy còn đang tu học chứ chưa phải là tu xong.
Hình Thầy trong lớp học mới là giảng viên chánh thức, nên được ngồi trên cao hơn các tu sinh. Đó là đúng theo tinh thần kính trọng Phật. Phật thường ngồi cao hơn chúng tỳ kheo.
17- Sự xưng hô giữa giảng viên và học viên Thầy có gửi cho các con một bức thư rồi.
18- Tất cả những gì không hiểu thì các con có quyền thưa hỏi, một người hỏi là giải quyết cho bao nhiêu người. Vì lợi lạc, Thầy cho phổ biến những bức thư của Thầy gửi cho các con làm lợi lạc cho mọi người, có gì mà các con sợ, vì các con còn đang tu học chứ đâu phải tu xong. Nếu tu xong, thì các con có cần gì thưa hỏi.
Thăm và chúc các con tu học cho tốt
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 11-9-2007
Kính gửi: Các con thân thương! Hỡi các con thân thương! Các con hãy ghi nhớ những lời dạy này:
Về việc biên soạn kinh sách, khi tu hành chưa xong, các con đừng nên biên soạn kinh sách, mà hãy dành tất cả thời gian để cố gắng học tập những gì cần học tập; để cố gắng tu tập những gì cần tu tập; để cố gắng sống đúng đức hạnh những gì chưa đức hạnh; để cố gắng hộ trì và bảo vệ chân lí những gì chưa hộ trì và bảo vệ chân lí; để cố gắng ly dục, ly ác pháp những gì chưa ly dục, ly ác pháp; để cố gắng giữ gìn tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, những gì chưa giữ gìn được tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; để cố gắng giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, những gì chưa giữ gìn được tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Bởi đó là con đường cứu cánh, giúp các con vượt qua biển khổ sinh tử, luân hồi.
Chừng nào các con tu tập làm chủ sinh tử, chấm dứt luân hồi, chừng đó, các con mới đủ trí tuệ và kinh nghiệm viết và biên soạn kinh sách. Kinh sách viết ra do tu chứng quả A La Hán mới có một giá trị vô giá, vì nó lợi ích thiết thực và gần gũi với đời sống loài người. Vì vậy mỗi đoạn, mỗi lời trong kinh sách đó đều là những hành động thiết thực chủ động, mang tính đạo đức nhân bản - nhân quả, thường làm lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Ngược lại, các con tu hành chưa chứng đạo mà viết kinh sách là các con nuôi bản ngã, đó là một tai hại rất lớn cho bản thân của các con trong khi đang tu tập. Hầu hết mọi người viết kinh sách với mục đích rõ ràng, không thể che dấu được ai cả. Bởi người tu hành chưa chứng đạo, tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi dẫy đầy nên viết kinh sách là vì cầu danh, cầu lợi, chứ không phải vì lợi ích cho con người. Cho nên kinh sách viết như vậy, chứ không có một người nào chịu trách nhiệm khi có người theo sách đó tu tập lỡ bệnh tật điên khùng thì chịu lấy. Tác giả không chịu thay cho quý vị đâu!
Người tu hành chưa chứng đạo viết kinh sách bản ngã thường to lớn, là do tâm chạy theo danh, lợi. Người tu hành mục đích là phải biết diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp. Thế mà các con tu chưa xong lại viết kinh sách, đó là triển khai bản ngã to lớn thì còn tu tập được những gì, hỡi các con?
Nếu một người tu chưa chứng đạo viết kinh sách, thì kinh sách đó là kinh sách vay mượn những kiến tưởng giải trong kinh sách Đại thừa, Thiền tông, Bà La Môn, tức là dùng lời, dùng ý của các vị tổ sư xưa và nay. Người tu chưa chứng đạo viết kinh sách chỉ viết theo trí tuệ của người khác, chứ các con có biết gì mà viết. Các con giống như người thợ may khéo tay chấp vá nhiều miếng vải; miếng này màu đỏ; miếng kia màu xanh, rồi bên nọ miếng màu vàng; bên kia miếng màu tím, v.v… Chiếc áo có nhiều màu như vậy thì chỉ có những người trình độ kiến thức văn hóa khoa học thiên nhiên còn kém thì mới chấp nhận, nhất là chịu ảnh hưởng văn hóa lạc hậu, ưa thích màu mè sặc sỡ của dân tộc bộ lạc thiểu số sống trên những cao nguyên thì ưa thích lắm. Cho nên, kinh sách tưởng giải là kinh sách màu mè bên ngoài, dễ quyến rũ những người nhẹ dạ mù quáng cả tin.
Một người có kiến thức văn hóa đạo đức Phật giáo nguyên thủy thì những kinh sách này không thể lừa dối họ được. Các con cứ đọc lại kinh sách Đại thừa, thiền Đông Độ, Nam tông do thầy tổ và các sư viết, toàn là những kinh sách lấy lời, lấy ý của hệ phái này và bắt chước kiến tưởng giải của các hệ phái kia và nhất là dựa vào 62 luận thuyết của Bà La Môn Giáo viết ra. Cho nên kinh sách đó không phải là kinh sách Phật giáo, mà là kinh sách phát triển do thầy tổ chịu ảnh hưởng tư tưởng kiến tưởng giải của Lục Sư Ngoại đạo. Vì vậy, khi viết và biên soạn ra kinh sách có những điều các con cần lưu ý:
Viết những điều đã có kinh nghiệm tu tập của chính các con đã tu tập được, đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt sinh tử luân hồi. Nói tóm lại là các con tu tập đã chứng quả A La Hán xong thì mới viết kinh sách, còn chưa chứng quả A La Hán thì đừng nên viết một điều gì cả các con ạ! Bởi vì khi tu chưa chứng đạo mà viết sách là một tai hại rất lớn cho đời, vì viết cái mình không biết chỉ do trí tưởng tượng, thật là tai hại vô cùng. Sách viết như vậy là viết sách giết người, giết mình. Giết người là tạo ra sự mê tín mù quáng cho người, làm hao tốn tiền bạc của người (cầu cúng), làm hao sức lực tu tập (niệm Phật) và đôi khi ngồi thiền có thể đi đến bệnh tật rối loạn thần kinh (thiền định); giết mình là bị danh lợi lôi cuốn vào các ác pháp, nhất là làm mất chủng tử tu hành. Cho nên, chỉ vì danh một chút xíu mà các con giết bao thế hệ loài người. Các con có biết không?
Các con cứ nhìn xem kinh sách Đại thừa, Thiền tông và kinh sách Nam Tông do các sư tu hành chưa đến đâu viết. Đó là một loại kinh sách giết người, giết mình. Các nhà Đại thừa, Thiền tông và các sư Nam tông viết kinh sách giống như các nhà học giả, nghiên cứu kinh sách Nguyên thủy của Phật rồi viết theo sự hiểu biết bằng tưởng giải của mình. Cho nên nếu ai chịu khó xét cho kỹ thì kinh sách đó chỉ là lấy ý, lấy lời bằng những tưởng giải trong kinh sách nguyên thủy, nên nghĩa lý thực hành tu tập không đúng như lời Phật dạy. Bởi kinh sách do nghiên cứu sưu tập viết ra là một tai hại rất lớn cho đời. Vì thế, kinh sách này đâu dám tuyên bố tu tập chứng đạo A La Hán trong 7 ngày, 7 tháng, 7 năm như trong kinh nguyên thủy của Phật dạy.
Nói về chứng đạo thì kinh sách này không dám nói chứng đạo mà còn bài bác, chống đối lại những kinh sách nguyên thủy của Phật giáo, họ cho kinh sách nguyên thủy Phật giáo là kinh sách ngoại đạo, là phàm phu thiền và còn nói lớn tiếng: “TU CÒN THẤY CHỨNG ĐẮC LÀ CHƯA CHỨNG ĐẮC”. Cuối cùng họ còn khẳng định con đường tu tập của họ: “VÔ SỞ ĐẮC”. Đó là những ngôn từ che đậy những kinh sách không có lợi ích thiết thực, Vì thế, những kinh sách này chẳng bao giờ dám to tiếng tuyên bố tu chứng đạo vô lậu, làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi bao giờ.
Chờ khi nào các con tu tập chứng đạo xong rồi viết kinh sách, thì những kinh sách đó mới có một giá trị vô giá, vì nó mang lại lợi ích rất lớn đối với mọi người tu tập (Kinh sách này thuộc loại kinh sách quý hiếm, nó là kinh nghiệm sống của người tu chứng quả A La Hán, giống như kinh sách Pháp Cú của Phật vậy).
Bởi vậy, viết những điều nghiên cứu trong kinh sách rồi nghĩ tưởng theo tưởng giải của mình, có nghĩa là các con không có kinh nghiệm tu hành chứng đạo, nhưng vì háo danh, vì muốn tỏ ra mình hiểu biết Phật pháp hơn thiên hạ, hoặc vì muốn làm thầy thiên hạ, muốn dạy đời, nên tưởng tượng ra mà viết hoặc lấy lời, lấy ý của những người khác trong các kinh sách của các hệ phái tôn giáo khác. Kinh sách viết như vậy không có giá trị và không lợi ích thiết thật cho đời, kinh sách như vậy không tu hành được, đó là kinh sách tưởng.
Khi tu tập chưa xong, kinh nghiệm tu hành chưa có, chỉ dựa vào những kiến tưởng giải của những học giả xưa và nay còn ghi lại trong kinh sách Đại thừa, Thiền tông, Nam tông rồi các con dựa theo đó nghiên cứu viết ra làm sách của mình. Thật xấu hổ lắm các con ạ! Tại sao xấu hổ các con? Lấy của người làm của mình là ăn cắp, mà ăn cắp là xấu hổ chứ sao. Các con có biết không?
Những loại kinh sách này đem ra áp dụng tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì kết quả chắc chắn sẽ không bao giờ làm chủ bốn sự đau khổ này được. Bởi kinh sách này là kinh sách vay mượn nhiều kinh sách kiến tưởng giải, không do kinh nghiệm tu tập, các con ạ!
Giới thứ hai trong NGŨ GIỚIcó dạy không nên tham lam trộm cắp, vậy mà các con ăn cắp văn, ăn cắp ý của người khác để viết thành sách của mình, thì đó là phạm giới, các con có biết không? Cuốn sách chỉ nhai đi, nhai lại những ý mà kinh sách Đại thừa và Thiền tông đã nói rất nhiều lần nên nó có gì mới lạ đâu, loanh quanh thêm thắt làm ra vẻ mới mẻ, như vẽ rắn thêm chân, chứ có mới mẻ chỗ nào đâu.
Kinh sách như vậy mà đưa lên mạng, khiến cho mọi người phải mất nhiều thì giờ đọc thì thật là tội nghiệp. Bây giờ, những loại kinh sách này rất nhiều loại. Khi bước vào một cửa hàng buôn bán sách lớn ở TP Hồ Chí Minh hay TP Hà Nội, nhìn lên kệ sách thì thấy đủ loại kinh sách Đại thừa, Tiểu thừa, Nam tông như rừng, nhất là Thiền tông thì đủ các loại thiền như: thiền Nhật Bản, thiền Mỹ, thiền Tây, thiền Trung Hoa, thiền Trúc Lâm Việt Nam, thiền Thái Lan, thiền Miến Điện, v.v… Thật là rừng thiền, nhìn vào không biết chọn cuốn sách nào mà đọc, để có lợi ích.
Kinh sách dạy tu hành để chứng thiền, chứng đạo giải thoát mà bày bán la liệt như vậy thì các con nghĩ sao về những loại kinh sách này? Nó có một giá trị chân thật chứng đạo hay là một loại kinh sách “DỎM”?
Muốn biết chắc điều này, thì các con lần tìm đến những tác giả và xin diện kiến, rồi quan sát đời sống của họ thì các con biết ngay liền. Tác giả viết sách thiền mà chẳng nhập thiền nhập định được, thì đó là thiền gì? Các con cần lưu ý để tránh xa, không khéo uổng phí một đời tu hành mà chẳng ra gì.
Đến đây, Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay và kính chúc thăm các con thân tâm được dồi dào sức khỏe, và nhớ luôn sống với lòng yêu thương và tha thứ mọi người, để tâm các con được thanh thản, an lạc và vô sự.
Thân thương chào các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 15-10-2007
Kính gửi: Các con thương mến! Hỡi các con thương mến! Hôm nay Tu Viện Chơn Như đã tổ chức thành những lớp học giới luật đức hạnh, chứ không còn là nơi để các con nhập thất tu thiền định như ngày xưa nữa. Tại sao vậy?
Hầu hết các con vào Tu Viện Chơn Như, chưa có người nào giới luật nghiêm chỉnh, nhất là giới đức, giới hạnh các con lại càng không thông hiểu, vì thế tâm các con còn đầy ắp lòng tham, sân, si, mạn, nghi. Do lòng đầy ắp tham, sân, si, mạn, nghi mà muốn nhập thất tu thiền định, thì thiền định đó là thiền định gì? Các con có biết không?
Thiền định bỏ giới luật, không tu tập, chỉ biết nhập thất tu tập theo pháp môn ức chế tâm khiến cho tâm không khởi niệm vọng tưởng, rồi cho trạng thái tâm như vậy là thiền định. Điều hiểu đó rất sai, thiền định như vậy không phải là thiền định, mà đó là thiền tưởng của người không biết thiền định. Thiền định đó là thiền định trong kinh sách của Đại thừa, của Thiền tông, của Tịnh Độ Tông, của các sư Nam Tông kiến giải pháp môn Tứ Niệm Xứ, v.v... Bởi tu tập thiền như vậy, mà từ xưa đến nay chẳng có ai chứng quả A La Hán, làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Một thời gian dài hơn 25 năm, Tu Viện Chơn Như tiếp nhận mọi tu sĩ từ các hệ phái khác nhau của Phật giáo, trong khi đó có cả quý cha bên Công Giáo, quý linh mục bên Tin Lành đến nghiên cứu tu tập thiền định. Mọi người ai đến đây cũng mong tu tập thiền định, nhập các tầng định cao hơn để làm chủ sự sống chết. Nhưng xét cho cùng, tất cả tu sĩ và cư sĩ về đây tu tập, chẳng có ai biết tu tập thiền định ra sao cả. Họ nghiên cứu kinh sách thiền rất nhiều, nhưng xét cho cùng, họ chỉ là những người mò kim đáy biển.
Phải xác định rằng: không có một người nào hiểu biết phương pháp thực hành thiền định của Phật giáo (Tứ Thánh Định), bắt đầu tu tập như thế nào? tu tập pháp nào trước, tu tập pháp nào sau? phải tu tập như thế nào đúng, như thế nào sai? tu tập rèn luyện cái gì?
Bao nhiêu câu hỏi như vậy, chưa có ai trả lời đúng. Trăm người như một, họ chỉ biết ngồi thiền ức chế tâm, làm cho tâm hết vọng tưởng. Họ nghĩ rằng khi tu tập hết vọng tưởng là nhập định tại đó. Thật đáng thương, họ là những người mù đang lạc vào rừng rậm, không biết đường ra. Những điều họ hiểu về thiền định hiện nay là những điều nghĩ tưởng sai lầm của những người xưa cho đến những người ngày nay họ cũng theo lối mòn hiểu biết như vậy, họ không thể hiểu khác hơn nữa được. Vì thế ngày nay không có ai tu chứng thiền định và thực hiện Tam Minh, Tứ Thần Túc.
Thiền định của Phật giáo không phải là thiền định ức chế tâm, nó là một loại thiền định do giới luật đức hạnh làm nền tảng căn bản xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Do sự tu tập thiền định xả tâm như vậy ít có ai ngờ tới được. Phải không các con?
Đối với Phật giáo, muốn tu tập thiền định, bắt đầu phải tu học giới luật đức hạnh, nhờ giới luật đức hạnh nên tâm xả sạch lòng tham, sân, si, mạn, nghi. Khi tâm xả sạch lòng tham, sân, si, mạn, nghi, thì tâm thanh tịnh, bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì tâm mới thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chưa phải là thiền định. Từ chỗ tâm thanh tịnh đó, mới làm cơ sở cho những người tu tập thiền định. Tu tập thiền định như vậy mới là tu tập đúng thiền định của Phật giáo. Còn ngược lại, tâm chưa thanh tịnh mà tu tập thiền định, thì đó là những người không hiểu biết về thiền định. Họ đang tu mù, tu theo kiến tưởng giải của kinh sách tưởng, của những người tu chưa chứng đạo. Nếu cứ theo kinh sách như vậy tu hành thì chỉ uổng phí một đời tu mà thôi.
Cho nên tâm chưa thanh tịnh mà tu tập thiền định, đó là tu tập thiền định ngoại đạo. Người nào muốn nhập TỨ THÁNH ĐỊNHvà thực hiện TAM MINHthì phải nương vào chỗ tâm thanh tịnh mới bắt đầu tu tập TỨ THẦN TÚC. Muốn tu tập Tứ Thần Túc, tức là tu tập BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI. Do tu tập Tứ Thần Túc mới nhập được các định, chứ không phải tu tập thiền định mà nhập thiền định. Tu tập thiền định mà nhập thiền định đó là những người không hiểu biết về thiền định của Phật giáo, là những người tu sai pháp.
Cho nên các con hãy ghi nhớ: khi nào có Tứ Thần Túc mới nhập được các định, còn chưa có Tứ Thần Túc, muốn nhập thiền định chỉ là giấc mơ.
Vì thế, các con nên lưu ý: tu tập TỨ THẦN TÚClà tu tập rèn luyện thần lực, chứ không phải tọa thiền ức chế tâm không niệm khởi. Tu tập Tứ Thần Túc là tu tập pháp môn THÂN HÀNH NIỆM. Chỉ có tu tập pháp môn Thân Hành Niệm mới đủ thần lực. Ngoài giới luật đức hạnh mà tu tập thiền định là tu tập tà thiền, tà định. Bởi vậy, người tu thiền định, giới luật đức hạnh ly dục ly ác pháp sống chưa trọn vẹn mà cứ ở trong thất tu thiền định thì đó là thiền tưởng của ngoại đạo các con nên nhớ.
Những người về đây tu tập chỉ có giữ gìn ba đức: ĂN,NGỦ,ĐỘC CƯ, và ba hạnh: NHẪN NHỤC,TÙY THUẬN,BẰNG LÒNG, vậy mà không có người nào sống đúng giới luật này; họ đều vi phạm, nhất là GIỚI ĐỨC ĐỘC CƯ, (giới phòng hộ sáu căn). Người tu thiền định mà không biết phòng hộ sáu căn, thì người ấy chưa biết tu thiền định.
Người tu thiền định thời nay thường không chú ý và quan trọng giới luật, họ xem thường giới luật, chỉ chú trọng hằng ngày ngồi kiết già lưng thẳng tu tập thiền định. Theo họ hiểu, tu tập thiền định là bằng mọi cách, mọi phương pháp tu tập như thế nào mà tâm không vọng tưởng. Cho nên, khi ngồi tu tập là họ tập trung tâm vào một đối tượng như hơi thở, câu niệm Phật hay câu tham thoại đầu, công án, hay theo phương pháp biết vọng liền buông, hoặc dùng tưởng chuyển hơi thở mà họ gọi là chuyển pháp luân. Họ tu tập như vậy là ức chế tâm để tâm không khởi niệm; tâm không khởi niệm, họ cho đó là nhập định. Khi tu tập nhập được TỨ THÁNH ĐỊNHbằng ĐỊNH NHƯ Ý TÚC, thì Thầy biết ngay các loại thiền định trên chỉ viết trong kinh sách cho các nhà học giả nghiên cứu mất thì giờ chơi, chứ tu tập chẳng có kết quả giải thoát, chẳng có thiền định gì cả.
Ở đây, muốn tu tập thiền định đúng chánh pháp của Phật giáo, thì các con nên đọc kỹ lại bài pháp Món Ăn, trong các pháp như sau:
1/ Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho MINHgiải thoát (Tam Minh)? BẢY GIÁC CHI, cần phải trả lời như vậy.
2/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho (Năng Lực) BẢY GIÁC CHI? BỐN NIỆM XỨ,cần phải trả lời như vậy.
3/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho BỐN NIỆM XỨ? BA THIỆN HẠNH, cần phải trả lời như vậy.
4/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho BA THIỆN HẠNH? CÁC CĂN ĐƯỢC CHẾ NGỰ, cần phải trả lời như vậy.
5/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho CÁC CĂN ĐƯỢC CHẾ NGỰ? CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC, cần phải trả lời như vậy.
6/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC? NHƯ LÝ TÁC Ý, cần phải trả lời như vậy.
7/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho NHƯ LÝ TÁC Ý? LÒNG TIN, cần phải trả lời như vậy.
8/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho LÒNG TIN? NGHE DIỆU PHÁP, (chân pháp của Phật), cần phải trả lời như vậy.
9/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho NGHE DIỆU PHÁP? THÂN CẬN VỚI BẬC CHÂN NHÂN(bậc tu chứng đạo), cần phải trả lời như vậy.
CHÚ GIẢI:
1/ Người tu sĩ muốn đạt được TAM MINHđể làm chủ SINH TỬvà chấm dứt LUÂN HỒI, thì phải tu tập BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI.
2/ Người tu sĩ muốn đạt được NĂNG LỰC BẢY GIÁC CHI, thì phải tu tập TỨ NIỆM XỨ.
3/ Người tu sĩ muốn đạt được TỨ NIỆM XỨ, thì phải tu tập BA THIỆN HẠNH. Ba Thiện Hạnh tức là ý hành thiện, khẩu hành thiện, thân hành thiện (Tứ Chánh Cần).
4/ Người tu sĩ muốn đạt được BA THIỆN HẠNH, thì phải tu tập CHẾ NGỰ CÁC CĂN.
5/ Người tu sĩ muốn CHẾ NGỰ ĐƯỢC CÁC CĂN, thì phải tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC.
6/ Người tu sĩ muốn đạt được CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC, thì phải tu tập NHƯ LÝ TÁC Ý.
7/ Người tu sĩ muốn đạt được pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý, thì phải có LÒNG TIN.
8/ Người tu sĩ muốn có LÒNG TIN, thì phải được NGHE CHÂN PHÁP CỦA PHẬT.
9/ Người tu sĩ muốn được NGHE CHÂN PHÁP CỦA PHẬT, thì phải THÂN CẬN BẬC TU CHỨNG ĐẠO, đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Đọc xong bài pháp trên đây, các con thấy rất rõ cách thức tu tập bắt đầu khởi sự bằng cách chọn MỘT BẬC THẦY TU CHỨNG QUẢ GIẢI THOÁT. Khi đã chọn xong bậc tu chứng, vị thầy ấy sẽ khai ngộ cho các con hiểu biết BỐN CHÂN LÝcủa con người. Bốn chân lý ấy chắc các con đều biết, đó là KHỔ ĐẾ,TẬP ĐẾ,DIỆT ĐẾ,ĐẠO ĐẾ.
Chân lý thứ nhất: Khổ đế là gì?
Khổ đế có nghĩa là sự đau khổ. Con người sinh ra không ai là không đau khổ, không đau khổ điều này thì đau khổ điều khác. Vì thế, khổ là một sự thật của loài người, cho nên không ai dám phủ nhận khổ là sai, là không đúng. Trong đạo Phật khổ đế là một sự thật thứ nhất của con người.
Chân lý thứ hai: Tập đế là gì?
Tập đế có nghĩa là nơi tập họp mọi sự khổ đau tức là nguyên nhân sinh ra mọi sự khổ đau. Nguyên nhân sinh ra mọi sự khổ đau của con người là LÒNG HAM MUỐN. Con người sinh ra không ai là không có lòng tham muốn.
Chân lý thứ ba: Diệt đế là gì?
Diệt đế là một trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, có nghĩa là tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa là tâm thanh thản an lạc và vô sự, một trạng thái bất sinh bất diệt, một trạng thái Niết bàn. Người sống mà đạt được trạng thái này là đang ở Niết bàn, đến khi chết cũng ở trong trạng thái này. Nơi đó vĩnh viễn không còn tái sinh luân hồi nữa.
Chân lý thứ tư: Đạo đế là gì?
Đạo đế là một chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh và thiền định của Phật giáo giúp cho mọi người sống có đạo đức không làm khổ mình khổ người và làm chủ sự sống chết. Chương trình giáo dục ấy có 8 lớp học; sáu lớp đầu tiên dạy về CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁCthuộc giới luật đức hạnh; lớp thứ bảy dạy về CHÁNH NIỆM TỈNH THỨCthuộc về Tứ Niệm Xứ tu tập rèn luyện BẢY NĂNG GIÁC CHI(Tứ Thần Túc).
Khi đã tu tập có BỐN THẦN TÚC, thì bắt đầu tu học lớp thứ tám, tức là lớp TỨ THÁNH ĐỊNH. Khi nhập định thứ tư, ở nơi trạng thái này, hành giả thực hiện TAM MINH. Như vậy, con đường tu hành theo ĐẠO ĐẾđến đây là xong, tức là đã chứng quả A La Hán.
Như vậy, các con tu hành không lạc đường vì theo đúng lộ trình bốn chân lý, nhất là đạo đế. Các con tu học từ lớp thấp CHÁNH KIẾN... đến lớp cao CHÁNH ĐỊNH. Vả lại, các con còn dựa vào bài kinh các Món Ăn mà tu tập, như người đi biển có la bàn, người đi vào thành phố có bản đồ, thì làm sao lạc đường được. Phải không các con?
Từ bắt đầu chọn một vị thầy tu chứng khai ngộ BỐN CHÂN LÝđến thực hiện TAM MINH, như vậy các con làm sao tu hành sai pháp của Phật được. Cho nên, điều quan trọng hiện nay là các con nên đọc bức tâm thư này cho thật kỹ, để sự tu hành của các con không còn sợ sai lệch vào thiền của ngoại đạo.
Cuối thư, Thầy có lời thăm và chúc các con xả tâm tốt, để lúc nào tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 24, 26-4-2008
Hỏi 1: Kính thưa Thầy, cho con xin hỏi vài câu hỏi sau đây:
Khi hiến bò lên tay, chân, quần áo, tập, sách, con thường hay thổi chúng xuống đất. Hành động thổi đó có được không Thầy? Hay là con phải làm cách nào khác? Xin Thầy chỉ cho con cách khác nếu có.
Đáp:Kiến rơi xuống đất bằng cách thổi, đó là phương cách nhẹ nhàng nhất mà kiến không bị hại.
Còn một cách khác nữa, đó là lấy một tờ giấy hay một vật gì làm cho kiến bò qua vật đó, rồi để vật đó xuống đất; kiến sẽ tự nhiên bò ra mà chúng ta không bị hao hơi.
✿✿✿
Hỏi 2:Thời đức Phật, chỉ có các vị Thánh tăng qua bên giáo đoàn ni để giảng pháp. Còn thời nay, nếu như một người phụ nữ, không phân biệt là ni hay cư sĩ, có thể giảng pháp hay đứng lớp dạy cho nam cư sĩ hoặc tăng sinh được không Thầy, mặc dù người đó chưa chứng đạo, nhưng được Thầy chỉ định? Con không biết có trường hợp này xảy ra không. Con nghĩ nam nữ bình đẳng, ai xả tâm tu tập tốt thì Thầy chỉ định người đó đứng lớp, đứng lớp nào cũng được, để giúp cho tu sinh xả tâm phân biệt nam nữ, coi rẻ người nữ.
Đáp:Thời Phật là thời còn trọng nam khinh nữ. Thời chúng ta thì khác; nam nữ bình đẳng. Nam tu sĩ hay cư sĩ, cũng như nữ tu sĩ hay cư sĩ đều đứng lớp dạy được. Chúng ta tu học để tìm đường thoát khổ, chứ không trọng nam khinh nữ. Đạo Phật là đạo vô ngã, ai còn trọng nam khinh nữ là còn bản ngã, như vậy làm sao tu hành theo đạo Phật, gọi là ly dục, ly ác pháp, diệt ngã xả tâm?!
✿✿✿
Hỏi 3:Con thấy khi ăn bún, miến, mì gói, sợi dài khó gom vào muỗng để ăn, cho nên lòng thòng, khi đưa vào miệng không lịch sự. Vậy, chúng con có thể dùng kéo cắt sợi bún, miến hay mì nhỏ ra, và kể cả rau nữa, được không thưa Thầy? Nếu được thì lại phải có thêm một cây kéo nữa, thì con lại thấy không thiểu dục tri túc. Thật là khó xử. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con cách tốt nhất khi ăn những loại sợi trên.
Đáp:Một chiếc kéo, một cậy kim, sợi chỉ, v.v... đó là những vật dụng cần thiết cho đời sống đơn giản mà giữ được oai nghi tế hạnh, thì chiếc kéo đâu có nghĩa thiếu thiểu dục tri túc. Chỉ vì Thầy chưa ghi ra mà thôi.
✿✿✿
Hỏi 4:Thưa Thầy, con có một tật xấu là đang ngồi thì mắt nhíp lại và bắt đầu vọng tưởng. Đó là bệnh gì vậy Thầy? Có phải là niệm si không? Có phải lúc đó con phải đứng dậy đi kinh hành ngay, hay là ngồi quán xét các niệm vọng tưởng đó? Con nghĩ tốt nhất là đứng dậy. Con ngồi đó có khi bị mê man luôn. Kính xin Thầy chỉ dạy, vì con thấy giờ tu nào con cũng bị kẹt vào bệnh này, mắt thường hay nhíp lại.
Đáp:Con nên đi kinh hành chứ đừng ngồi, vì ngồi nhắm mắt dễ sinh tưởng. Tưởng là một loại bệnh si mất tự chủ.
✿✿✿
Hỏi 5:Sau khi đọc hết quyển Đường Về Xứ Phật tập 7, con có cảm nhận rằng đời nay khó dạy cho người tu chứng, là vì bây giờ quá nhiều kinh sách về Phật giáo, và con người bị dính mắc vào những tà kiến. Còn ngày xưa không có sách, Phật dạy gì, nói gì, các vị tỳ kheo làm theo như vậy thì thấy sự giải thoát ngay. Họ tin tưởng 100% và không bị ảnh hưởng của các tư tưởng khác. Ví dụ như đức Phật dạy bỏ xuống tiền tài, danh lợi, sắc dục, ăn, ngủ, tham, sân, si, mạn, nghi, thì người ta làm theo ngay, còn thời nay thì không dứt khoát như lúc xưa. Do đó con nghĩ ai mà theo chánh pháp của Phật thì phải mạnh dạn dứt khoát đốt sạch các sách xưa nay được đọc về Phật giáo của những học giả chưa tu chứng viết, từ bỏ danh lợi trong đời cũng như trong đạo (giao lại chùa cho người khác), quyết chí cầu tìm con đường giải thoát, không trở về trụ xứ của mình (phải xem trụ xứ của mình cũng là gia đình, do vậy không về là cắt đứt sợi dây ái kiết sử), không còn bà con, quyến thuộc, bạn bè, phật tử, đệ tử nữa, xả sạch không còn để tâm dính mắc vào điều gì, vào ai, vào người nào, vào những điều người khác nói, vào những ai được nhắc tới, thì chắc là con đường giải thoát không xa đối với vị ấy, phải không thưa Thầy?
Đáp:Đúng vậy, trong số tu sinh tại Tu Viện Chơn Như muốn được chọn vào tu tập Tứ Niệm Xứ thì phải buông xả sạch, chứ chưa buông xả, còn đi tới đi lui thì rất khó vào tu tập Tứ Niệm Xứ.
✿✿✿
Hỏi 6:Theo con biết, người tu xong không còn bị chi phối bởi thời gian và không gian. Vậy thưa Thầy, đối với chúng con còn con mắt hữu hạn phải hiểu về thời gian và không gian như thế nào, để không bị ác pháp chi phối? Hay rõ hơn là làm sao làm chủ được thời gian và không gian để xả tâm cho tốt? Con không biết câu hỏi này có thực tế không, nhưng con có cảm giác rằng nếu bị thời gian chi phối thì mình vẫn thường sống trong ác pháp. Kính mong Thầy dạy bảo.
Đáp:Phải ở trong thời gian hiện tại mà ngăn ác, diệt ác pháp thì không bị không gian và thời gian chi phối.
✿✿✿
Hỏi 7:Kính thưa Thầy, sáng nay con đã thấy thầy Chơn Thành về lại Tu Viện Chơn Như rồi. Con nghĩ rằng thời gian đứng lớp thay cho thầy Chơn Thành đã đến lúc giao lại cho thầy Chơn Thành tiếp tục. Con kính mong Thầy hoan hỷ.
Dù sao con cũng rất cảm ơn Thầy, thầy Chơn Thành và tất cả tu sinh đã tạo điều kiện cho con học hỏi và xả tâm rất nhiều.
Không còn đứng lớp, con sẽ dành thời gian tu tập xả tâm tại thất nhiều hơn, để có thể trong tương lai tu tập Tứ Niệm Xứ dưới sự chỉ dạy của Thầy và sống gần Thầy hơn.
Đáp:Con nên chọn một người nào trong lớp con để thay con đứng lớp. Thầy Chơn Thành và con sắp sửa vào lớp Tứ Niệm Xứ, nên phải có người thay thế. Thầy Chơn Thành già chết đến nơi rồi mà không chuyên tu thì không kịp.
✿✿✿
Hỏi 8:…...Tâm không phóng dật là tâm không buông lung; tâm không buông lung là tâm không chạy theo dục và các pháp thế gian, chứ không phải tâm không niệm. Vậy thì như mấy tuần nay, con tu là ngồi chơi, đợi niệm khởi ra rồi xét những niệm đó có phải là dục, là ác, là ái kiết sử hay không rồi tác ý đuổi…... Chỉ cần tu như vậy thôi, còn nếu ngồi kiết già mỗi thời 30 phút mà không thấy còn có niệm nào thì báo cho Thầy biết, phải không thưa Thầy?
Ngoài ra, còn những niệm dục như: muốn đọc sách, muốn đánh bài vào máy vi tính, v.v... con nghĩ cũng nên bỏ xuống hết. Con không biết là nếu không đọc sách thì có sao không thưa Thầy? Thiệt ra con cũng không muốn đọc, nhưng làm sao mà biết được khi nào thì đủ tri kiến, khi nào chưa? Khó quá Thầy ạ!
Đọc bài viết “Những lời tâm huyết” (ĐVXP tập 7), con như hiểu được lòng trắc ẩn của Thầy, và con tự quay lại hỏi mình có tu sai pháp không, để làm cho Thầy buồn…...
Đáp:Đọc những lời tâm huyết của Thầy, con đã hiểu rõ ràng và đúng, không sai, nhưng chỉ còn thời gian an trú trên Tứ Chánh Cần được 30 phút chưa? Nếu được 30 phút thì không còn đọc kinh sách và làm bài, mà tiếp tu trong giai đoạn hai, mà Thầy dạy trong “Những lời tâm huyết”.
Thăm và chúc con tu tập tốt
Thầy của con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 17-11-2008
Kính gửi: Liên Tâm. Vợ chồng, con cái là nợ nhân quả nhau trong tiền kiếp, nên kiếp này phải gặp nhau để trả quả, để đòi nợ nhau. Cớ sao các con lại không thấy nhân quả mà cho đó là chồng, là vợ, là con của các con. Nếu là chồng, là vợ, là con của các con sao họ lại đối xử với các con quá tệ bạc, quá bạo lực: đánh các con, chửi mắng các con thậm tệ, v.v...
Các con có thấy chăng, biết bao gia đình trong xã hội này, có gia đình nào không xung đột, không cãi cọ, không mắng chửi nhau? Họ còn dùng những lời lẽ thô tục, kém văn hóa mạt sát nhau như những người thù địch. Họ lại còn đánh đập nhau, gây thương tích, để lại một vết thương tinh thần khó quên. Trong khi đó họ là chồng, là vợ, là con, là những người thân thương cùng sống chung nhau trong một mái nhà, cùng nhau chia vui xẻ buồn khi trở trời trái tiết; cùng nhau chia cay xẻ đắng khi bệnh tật tai nạn; lúc nào đều cũng có bên nhau. Thế sao họ lại đối xử với nhau như vậy, thật là cay đắng trăm phần. Phải không hỡi các con?
Chính vì các con đang mê mờ, mù ám không thấy biết nhân quả trong ba thời gian: quá khứ, vị lai và hiện tại. Do không thấy biết nhân quả nên không sợ nhân quả quá khứ, không sợ nhân quả hiện tại và không sợ nhân quả tương lai, nên tạo cảnh bất an cho mình, cho người và cho cả hai. Bởi vậy, kiếp trước vay như thế nào thì kiếp này phải trả như thế nấy. Không ai tránh khỏi quy luật nhân quả này.
Đường đi của nhân quả thì có ba nơi trên thân người; nó luôn ở đó để thực hiện vay trả, trả vay từ kiếp này sang kiếp khác. Ba nơi này gồm có:
1- Ý hành:là bộ tham mưu của nhân quả. Nó tính toán tư duy theo tưởng tri nên tạo ra muôn ngàn nhân, khi nhân đã tạo ra thì ngay đó liền có quả. Đó là nhân hiện tại, quả hiện tại. Nhưng cũng có khi nhân hiện tại mà quả tương lai. Thường con người sinh ra trên cuộc đời này đều do nhân quả quá khứ, đó là nhân quá khứ mà quả hiện tại. Vì nhân quá khứ, quả hiện tại nên mới thọ lấy thân người; thọ lấy thân người nên mới trả quả khổ đau vô cùng, vô tận. Nhưng con người đâu biết tất cả các pháp đều là nhân quả, nên cứ đam mê ham thích những cái gì trên đời này, cho nó là thật có, là ta, là của ta. Vì lầm chấp như vậy, nên con người đã tạo ra biết bao nhân mới để rồi phải gặt lấy biết bao quả khổ đau.
2- Khẩu hành:là nơi xuất phát ra hành động ngôn ngữ do ý hành chỉ đạo để tạo ra nhân quả thiện hay ác. Người trên đời này khổ đau vì khẩu hành không sao kể hết. Nếu không mở miệng ra thì thôi, mà khi đã mở miệng ra là có việc, không việc này thì việc khác; việc vui cũng có, nhưng việc buồn không sao kể siết. Do nhân quả như vậy, chúng ta làm người phải cẩn thận khẩu hành, khi nói ra phải toàn lời nói thiện thì mới mong thoát khỏi mọi sự khổ đau trong cuộc đời này.
3- Thân hành:là nơi xuất phát ra những hành động nhân quả tay, chân do ý hành chỉ huy để tạo ra nhân quả thiện, ác. Cho nên hãy cẩn thận, lúc nào cũng tĩnh giác, khi làm một điều gì thì nên tránh không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Người tu sĩ Phật giáo, những oai nghi chánh hạnh đi, đứng, nằm, ngồi phải nhẹ nhàng êm ái, không vội vàng, không hấp tấp, thường khoan thai, ôn tồn, êm dịu đối xử với mọi người, mọi vật như nhau.
Do từ ba nơi này mà nhân quả theo đó điều khiển con người trả vay, vay trả mãi mãi từ đời này sang đời khác không bao giờ dứt. Cho nên, các con hãy cẩn thận lời nói, hãy cẩn thận hành động tay, chân. Khi nói ra coi chừng trả quả khổ đau; khi nói ra coi chừng nhân không lành. Về tay, chân cũng vậy. Vì thế, đức Phật dạy: “Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp”.
Khi trả quả, các con hãy vui vẻ chấp nhận nhân quả, thì có việc gì làm cho các con buồn lo được. Phải không hỡi các con?
Các con có biết không, họ là chồng, là vợ, là con của biết bao nhiêu người khác, chứ đâu phải của riêng các con mà các con ghen tuông nói thế này, nói thế khác; các con lại còn muốn chiếm hữu. Làm sao chiếm hữu được, khi các con đang sống trong quy luật của nhân quả. Có vay phải có trả; vay đâu thì trả đó. Cho nên, mọi sự việc trên đời này xảy ra đều theo nghiệp nhân quả, thế sao các con không hiểu, mà khư khư chấp có, chấp không để rồi lại buồn rầu than khóc khổ đau. Cái gì làm cho các con đau khổ? Chính các con không hiểu nhân quả nên cuộc đời các con mới khổ đau không bao giờ dứt.
Hãy cứu mình ra khỏi biển khổ; không ai cứu các con bằng chính các con, như đức Phật đã dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đời toàn là nhân quả khổ đau; có vật gì trên đời này đáng cho các con tiếc rẻ. Phải không hỡi các con?
Tất cả các pháp trên đời này đều vô thường; có pháp nào vĩnh viễn thường hằng đâu. Có pháp nào là của các con; có pháp nào là bản ngã của các con đâu. Rồi đây, ngày mai các con chết thì chồng hay vợ và các con của các con có còn là chồng, là vợ, là con của các con nữa đâu. Các con chết đi có mang theo họ được không? Hay chỉ chết một mình... Ôi! Thật là đau thương!
Nhân quả! Nhân quả! Sao người công bằng đến đỗi không còn ai tránh né trốn chạy người được. Tạo nhân nào thì phải gặt quả nấy; các con hãy cẩn thận, trước khi nói hay làm phải suy nghĩ cho thật kỹ rồi mới nói, mới làm, đừng vội vàng nói ra hay làm hấp tấp rồi sẽ gặt lấy quả mình khổ, người khác khổ hoặc cả hai cùng khổ. Đó là hành động nhân quả ác thiếu suy nghĩ chín chắn, thiếu cảnh giác và cẩn thận trong lời nói hay trong hành động làm. Nếu các con bình tĩnh, cẩn thận, dè dặt suy tư chín chắn trước khi nói hay trước khi làm, thì sẽ mang lại sự an vui cho mình, cho người hoặc cho cả hai, thì đó là các con thực hiện nhân quả thiện mà tránh được nhân quả ác.
Chỉ vì con người không sợ nhân quả nên nói và làm không cân nhắc kỹ lưỡng, vì thế nên luôn luôn làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai thật đáng trách.
Cuối cùng, chúc các con vượt qua nghiệp lực và làm chủ nhân quả, đừng để nhân quả làm chủ các con.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 21-11-2008
Kính gửi: Các con. Muốn làm đệ tử của Thầy, thì phải sống đúng những đức hạnh đơn giản nhất của Phật giáo, nó là phong cách sống ra khỏi nhà sinh tử của người tu sĩ, vì thế, nó rất quan trọng và cần thiết cho người quyết tâm làm chủ sự sống chết.
I/ Những đức hạnh ấy gồm có:
1- Nhẫn nhục là thấy lỗi mình, không thấy lỗi người, nhờ có nhẫn nhục như vậy, nên tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
2- Tùy thuận là tùy theo mọi ý kiến của người khác, nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp.
3- Bằng lòng là vui lòng trước mọi hoàn cảnh, mọi người, mọi việc nhưng không vui lòng theo những điều làm ác.
4- Ăn ngày một bữa, không ăn phi thời, đó là hạnh sống của Phật và chúng Thánh tăng.
5- Siêng năng đi kinh hành, phá hôn trầm, thùy miên và vô ký, đó là hạnh sống không mê muội, không ngủ phi thời của Phật và chúng Thánh tăng.
6- Sống độc cư, độc bộ, độc hành là phong cách sống của Phật và chúng Thánh tăng để tâm không phóng dật.
Muốn tâm không phóng dật, thì chỉ có phòng hộ và giữ gìn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, luôn luôn giữ gìn không cho tiếp xúc sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, nếu khi đã tiếp xúc thì giữ gìn bảo vệ không cho tâm bị lôi cuốn theo sáu trần. Cho nên, cuộc sống không tiếp duyên ra bên ngoài, không nói chuyện với bất cứ một người nào cả. Đó là hạnh phòng hộ sáu căn để tâm không phóng dật. Chính ngày xưa đức Phật đã tuyên bố: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm KHÔNG PHÓNG DẬT”.Câu này có nghĩa là nhờ phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý mà đức Phật thành Chánh giác.Nếu người nào sống được như vậy, mới thật sự là đệ tử của Thầy.
II/ Học trò tôn kính Thầy là phải sống không vi phạm sáu đức hạnh đã kể trên, còn những học trò nào vi phạm những đức hạnh ở trên là không tôn kính Thầy, là không xứng đáng làm đệ tử của Thầy. Xưa đức Phật dạy lấy Giới làm Thầy, vậy người nào giữ gìn Giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm những lỗi lầm nhỏ nhặt là tôn trọng Thầy, là cung kính Phật; chứ không phải tôn trọng Thầy là hầu hạ Thầy, cung kính Phật là hầu Phật.
Đạo Phật là đạo rất tôn trọng sự sống bình đẳng, cho nên, người nào cũng có một quyền sống như nhau, không có người hầu, kẻ hạ. Vì vậy, không có ai hầu hạ ai cả, chỉ có giúp đỡ nhau khi bệnh tật, khi già yếu. Cách thức hầu hạ thầy như các con hỏi là theo đạo đức Nho giáo trong thời phong kiến. Khất sĩ Việt Nam chịu ảnh hưởng Nho giáo phong kiến, nên người mới vào tu phải hầu hạ thầy và phục dịch các vị đại đức, thượng tọa, hòa thượng như tôi tớ trong những nhà giàu có, làm quan sang trọng.
Vì thế, Đạo đức của Phật giáo khác xa đạo đức của Nho giáo. Đức Phật là một ông vua từ bỏ quyền uy thế lực, từ bỏ cung vàng điện ngọc để trở thành một người dân bình thường và còn hơn thế nữa để trở thành một người đi xin ăn. Đức Phật đi tu không có người hầu kẻ hạ, tự đi xin ăn và tự rửa bát, tắm giặt. Sau này tuổi già sức yếu, chúng tỳ kheo đệ tử Phật mới đề nghị ông A Nan làm thị giả cho Phật. Nhưng ông A Nan làm thị giả cho Phật như một người trẻ tuổi giúp đỡ người già, chứ không hầu hạ theo kiểu đạo đức Tam Cang của Nho giáo.
III/ Các con không xả tâm được, là vì đời không muốn bỏ, và tu hành chỉ là mục đích muốn thêm đạo. Đạo và đời là hai nẻo đường ngược chiều, cho nên, đạo là xả ra, buông ra, còn đời thì lấy vào, ôm vào. Vì xả tâm không được, đó chính là các con còn ưa thích đời; do còn ưa thích đời, nên luôn luôn phải chịu khổ đau thì đừng có than thân trách phận.
Đời không muốn bỏ mà đạo thì muốn tu, như vậy, các con chưa thông hiểu chữ “TU”. Tu vốn là xả tâm tất cả; xả tâm tất cả là “ĐẠO”. Vậy xả tâm không được là tu cái gì?
IV/ Đạo Phật không khó, chỉ cần hiểu biết rõ các pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta thì ngay đó là xả tâm; ngay đó xả tâm thì tâm bất động; tâm bất động là cứu cánh, là Niết bàn. Hãy cố lên con ạ! Giải thoát ngay liền trước mắt không xa.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 29-01-2009
HÃY LO CỨU MÌNH
Kính gửi: Đức Thông. Sau khi đọc tập sách Khoa Học Và Đạo Học của con, Thầy thấy đây là những kiến giải rất đúng. Nhưng thầy khuyên Đức Thông hãy tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi, rồi hãy viết sách, còn bây giờ thì không nên viết. Tại sao vậy?
Vì hiện giờ, viết là viết theo kiến tưởng giải vay mượn của người khác, nó không phải là của Đức Thông, mà kiến tưởng giải nó là một bằng chứng để chỉ rỏ người viết những điều này là tu hành chưa chứng đạo, vì chứng đạo không bao giờ viết vay mượn của bất cứ ai hết. Kiến tưởng giải là một bệnh thiền mà xưa nay các Tổ Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông đều lạc vào con đường pháp tưởng này nên tu hành chẳng bao giờ làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Hãy lo cứu mình, đừng viết sách, vì viết sách đó là mục đích đang tạo danh. Hãy cẩn thận đừng để tâm lừa mình con ạ! Tu hành chưa xong mà có danh là bị danh giết chết, còn đâu tu tập nữa.
Hãy lo cứu mình, đừng viết lách, vì viết lách sẽ làm mất thì giờ rất nhiều. Thời gian của Đức Thông hiện giờ quý hơn châu báu, ngọc ngà, vàng bạc, v.v... Nếu thời gian trôi qua thì không bao giờ lấy lại được. Vì thế, hãy để thời gian đó giữ gìn tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là chân lí giải thoát của đạo Phật, nếu không chứng đạt chân lí này thì ngàn đời muôn kiếp vẫn mãi mãi tái sinh luân hồi và chịu biết bao điều cay đắng, phiền não, khổ đau, v.v... “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”, lời dạy năm xưa của đức Phật còn văng vẳng mãi bên tai, nhưng có mấy ai đã nhớ chăng?
Biết rõ như vậy mà không cố gắng tu tập thì phí bỏ cả một đời người. Tu tập không phải khó, khó là tại mình không buông bỏ các duyên nên tâm bị gián đoạn, vì thế tu mãi mà không CHỨNG ĐẠO. Nói đến hai chữ CHỨNG ĐẠO. Vậy CHỨNG ĐẠO là chứng cái gì?
Muốn biết chứng đạo thì phải hiểu nghĩa chứng đạo. Chứng đạo có nghĩa là SỐNG MÀ THÂN TÂM KHÔNG CÒN MỘT CHÚT XÍU KHỔ ĐAU NÀO nên đức Phật gọi là chứng “THÂN TÂM VÔ LẬU”. Cho nên người chứng đạo là người luôn luôn sống trong thân tâm như mọi người nhưng không một chút xíu nào phiền não, khổ đau cả. Đó là giải thoát của Phật giáo.
Còn viết lách hiện giờ là mọi người đang chịu ảnh hưởng tư tưởng của người khác, nên cứ lập đi lập lại mãi những danh từ thiền tông, Đại thừa, nguyên thủy và khoa học tâm linh. Hầu hết các Ngài viết là viết theo tưởng giải dựa theo kiến thức nghiên cứu, học hỏi hiểu biết rồi triển khai ra viết. Nhưng những bài viết ấy giống như chiếc áo vá chứ không có cái nào là của riêng mọi người.
Muốn viết lách thì phải đợi khi nào tu tập chứng quả “VÔ LẬU” làm chủ bốn sự đau khổ của thân tâm thì lúc ấy viết mới là của riêng mình và như vậy những bài viết mới có giá trị và lợi ích cho mọi người. Cho nên hiện giờ sách của Đức Thông viết, Thầy không có ý gì cả.
Thăm và chúc Đức Thông tu tập xả tâm tốt.
Kính ghi
Tu Viện Chơn Như
Tâm Thư Ngày 29-4-2009
Các con nên nhớ, câu tác ý là câu DẪN TÂM VÀO ĐẠO. Vậy đạo là cái gì?
ĐẠOlà chỗ thân tâm không còn đau khổ. Trả lời như vậy các con có hiểu chưa? Nếu các con chưa hiểu, thì nên xét nghiệm lại thân tâm các con hiện giờ, về tâm có giận hờn, buồn phiền, lo lắng, thương nhớ, sợ hãi hay không? Nếu không thì nó đang im lặng, thanh thản và vô sự đó; về thân các con có cảm nhận bệnh tật đau nhức chỗ nào không? Nếu không là nó đang an lạc và vô sự.
Như vậy, ĐẠO GIẢI THOÁTlà chỗ “thân tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự”. Cho nên, dẫn tâm vào đạo là dẫn tâm vào chỗ “THÂN TÂM BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC vàVÔ SỰ”.
Ví dụ 1:
1- Cậu bé
2- Sợi dây
3- Con trâu
Cậu bé dụ như CÁC CON.
Sợi dây dụ như CÂU TÁC Ý.
Con trâu dụ như “THÂN TÂM BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC vàVÔ SỰ”.
I/ Khi các con MUỐN TÁC Ý, đó là cậu bé nắm lấy sợi dây cột con trâu.
II/ Khi các con ĐANG TÁC Ýlà cậu bé dắt trâu.
III/ Khi con trâu bước đi, là “THÂN TÂM BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC vàVÔ SỰ”.
Ví dụ 2:
1- Tác ý
2- Ngón tay chỉ
3- Mặt trăng sáng
I/ TÁC Ý: Bắt đầu vào tu tập, các con đã chọn chỗ nơi yên tịnh vắng vẻ, ngồi bán già hay kiết già, hay ngồi bất cứ trong tư thế nào nhưng lưng phải thẳng, không nên khòm lưng, cúp cổ hay nghiêng đầu, hoặc cúi đầu hay ngưỡn cổ. Đặc biệt, ngồi hay đi hay đứng, đầu, lưng không được cúi khòm, mà phải giữ gìn ngay thẳng.
Sau khi giữ gìn lưng ngay thẳng, thì các con để cho thân tâm yên lặng 1 phút, rồi mới tác ý rõ ràng từng chữ một như: “TÂM BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC,VÔ SỰ”, khi tác ý xong, giữ tâm yên lặng, thì lúc bấy giờ tâm sẽ biết hơi thở ra vô một cách tự nhiên.
II/ NGÓN TAY CHỈ: Hơi thở ra vô là ngón tay chỉ mặt trăng. Cho nên, khi tác ý xong, mà tâm các con chỉ chú ý trong hơi thở, thì có khác nào các con tu tập Định Niệm Hơi Thở, đó là tu tập sai. Các con tu tập như vậy là các con tu tập Định Niệm Hơi Thở, chứ không phải tu pháp Dẫn Tâm Vào Đạo.
Dẫn tâm vào đạo, là lúc bấy giờ các con NƯƠNG VÀO HƠI THỞđể biết TÂM BẤT ĐỘNG. Các con biết cách tu tập như thế này chưa?
III/ MẶT TRĂNG: Mặt trăng chính là TÂM BẤT ĐỘNGcủa các con. Như vậy, nương hơi thở để nhìn mặt trăng, chứ không phải chỉ biết có hơi thở ra vô; biết có hơi thở ra vô là tu tập sai pháp, không đúng pháp DẪN TÂM, vì vậy vọng tưởng, hôn trầm thường đến thăm viếng các con.
Tất cả những sự trình bày của các con đều là tu sai pháp, tu pháp này lẫn sang pháp khác. Thật tội nghiệp cho các con quá!
Phải bền chí, kiên gan tu tập lại, đừng theo kiến giải của mình mà tu pháp này pháp khác. Nhất là tự kiến giải ra tu tập thì còn xa muôn dặm.
Phải theo lời Phật dạy: SỐNG TRONG HẠ LIỆT KHÔNG THỂ CHỨNG ĐẠT CÁI CAO THƯỢNG.
“Này các thầy tỳ kheo! Không phải sống với cái hạ liệt có thể đạt cái cao thượng”.(Trang 57, Tương Ưng tập 2)
Như vậy, đức Phật đã xác định rõ ràng: Một người sống trong hạ liệt, mà muốn chứng trong cái cao thượng thì không thể nào chứng đạt được. Vậy sống trong hạ liệt là sống như thế nào?
Sống hạ liệt là sống chạy theo dục lạc thế gian, tâm còn đầy tham, sân, si, mạn, nghi; tâm chưa sống ly dục ly ác pháp, mỗi chút mỗi phiền não, giận hờn khổ đau; tâm còn ham muốn cái này cái kia. Hằng ngày tâm còn phóng dật thấy cái này cái kia. Thấy cái này cái kia tâm đều muốn nhìn, ngó, lưu ý, thì làm sao chứng đạt được cái cao thượng được.
Cho nên quý thầy, quý cô tu tập thì tốt, nhưng không chứng đạo là vì hay nhìn ngó ra ngoài.Tại sao quý thầy, quý cô không nhìn ngó vào thân tâm của mình, mà lại nhìn ngó ra ngoài? Nhìn ngó ra ngoài có ích lợi gì?
Khi quyết tâm tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh, chết, thì hãy nhìn vào thân tâm của mình để làm chủ nó, nếu nó làm sai hay làm đúng thì chúng ta đều biết liền; biết sai thì ngăn chặn lại không làm theo; biết đúng thì tăng trưởng và làm theo cho thân tâm mỗi ngày một tốt hơn. Nhờ chúng ta biết tập sống như vậy, nên từ chỗ sống hạ liệt trở thành sống thanh cao, còn nếu không biết sống như vậy, thì sống từ cái hạ liệt này sẽ mãi mãi sống trong cái hạ liệt khác. Cho nên, đức Phật mới dạy như vậy: “Sống trong hạ liệt không thể chứng đạt cái cao thượng”. Dù chúng ta muốn tu chứng đạt giải thoát, mà cứ sống trong hạ liệt thì tu vô lượng kiếp cũng chẳng đi đến đâu.
Thầy dạy PHÁP DẪN TÂM VÀO ĐẠOlà pháp cao thượng, vì thế các con muốn chứng đạo phải sống cao thượng, thì mới tu tập không sai.
Kính ghi
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 31-5-2009
Chúng ta hãy đọc kỹ những đoạn kinh Tương Ưng dưới đây, để biết hành động sống của chúng ta hằng ngày như thế nào giải thoát và như thế nào không giải thoát. Thường đức Phật dạy, một người tu hành cần phải siêng năng hằng ngày TU TẬP NGĂN ÁC PHÁP DIỆT ÁC PHÁP, SINH THIỆN TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP. Để biết hành động sống của chúng ta có giải thoát hay không giải thoát, làm việc thiện có lợi ích phước báo hay không, mà đức Phật đã dạy:
“Này các thầy tỳ kheo, nếu người nào còn bị vô minh chi phối, dự tính làm phước lành, thức của người ấy đi đến phuớc lành, nếu người ấy dự tính làm phi phước lành, thức của người ấy đi đến phi phước lành. Nếu người ấy dự tính làm bất động lành, thức của người ấy đi đến bất động lành.
Này các thầy tỳ kheo, khi nào vị tỳ kheo đoạn tận vô minh, minh được sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh sanh khởi, không dự tính làm phước lành, không dự tính làm phi phước lành, không dự tính làm bất động lành. Do không có dự tính, không có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”. (150 Tương Ưng tập 2)
Lời đức Phật dạy trên đây rất rõ, nếu một người còn VÔ MINH, mà đem hết sức mình ra làm những việc thiện để cầu được phước báo nhân thiên; để cầu hưởng được những công đức lợi lạc cho mình, cho người; để được sự an vui giải thoát, điều này không bao giờ có. Vì còn VÔ MINH nên dù làm thiện pháp hay phi pháp đều không lợi lạc, mà đều gặp quả khổ đau.
Vì VÔ MINH nên làm điều thiện vẫn bị chấp thủ; do chấp thủ làm thiện nên người ấy thường sợ hãi; do sợ hãi nên không giải thoát.
Cho nên một người đoạn tận VÔ MINH làm những việc gì họ đều không chấp thủ; do không chấp thủ nên họ không sợ hãi; không sợ hãi nên được giải thoát. Những lời dạy trên đây của đức Phật rất quan trọng, nếu chúng ta chỉ cần phá vỡ VÔ MINH đạt được MINH thì giải thoát hoàn toàn. Vì tâm chúng ta không còn chấp thủ nên MINH mới có, còn chấp thủ thì MINH không bao giờ có.
Cho nên, tâm còn sợ hãi là tâm còn chấp thủ; tâm còn chấp thủ là tâm VÔ MINH. Một người chưa biết, chưa tu học theo Phật pháp thì còn VÔ MINH, cho nên mọi người trên thế gian còn khổ đau là do chấp thủ, nên hoàn toàn họ còn VÔ MINH.
Trong 12 nhân duyên, quan trọng nhất là VÔ MINH và MINH, nhờ đó chúng ta mới dễ xác nhận một người chứng đạo và một người chưa chứng đạo.
Một người chứng đạo thì ai chửi mắng, hay làm bất cứ một việc gì họ vẫn thản nhiên; TÂM BẤT ĐỘNG, còn một người chưa chứng đạo thì đụng việc cũng dễ sân hận phiền não, v.v... Khi tâm còn phiền não sân hận là còn VÔ MINH, khi nào tâm hết sân hận phiền não là MINH.
Bởi còn DỰ TÍNH làm việc này việc khác là còn CHẤP THỦ, nên còn VÔ MINH, ngược lại, làm một việc gì chúng ta cần làm là cứ làm, chớ đừng dự tính; làm trong sáng suốt, việc gì ra việc việc nấy và thành công tốt đẹp, đó là làm trong MINH. Cho nên làm trong MINH là làm không có DỰ TÍNH trước. Trong hiện tại thấy điều gì cần làm là cứ làm, đó là làm việc trong MINH. Do làm không DỰ TÍNH nên không chấp thủ; không chấp thủ thì không sợ hãi; không sợ hãi thì giải thoát hoàn toàn.
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 07-6-2009
I- Khi bị tưởng, thì các con nên dùng câu tác ý đuổi nó đi. Tưởng gồm có sáu loại:
1/ Thấy hình ảnh thì đó là sắc tưởng.
2/ Nghe âm thinh thì đó là thinh tưởng.
3/ Ngửi mùi thì đó là hương tưởng.
4/ Nếm trong miệng có vị ngọt, cay, đắng, thì đó là vị tưởng.
5/ Cảm nhận nóng lạnh đó là xúc tưởng.
6/ Ý khởi niệm đó là vọng tưởng.
Cứ tác ý vào tên nó là nó đi ngay, còn không thì nên xả, không ngồi.
II-Một vị chứng quả A La Hán xong thì tâm họ như tâm Phật, thì có còn gì sai khác mà hỏi. Cho nên Phật dạy: “Thấy Ta là thấy pháp, thấy pháp là thấy Ta”. Đừng lấy trí thế gian mà hiểu tâm Phật thì không thể hiểu. Tâm Phật và A La Hán đều là THA TÂM THÔNG, thì làm sao không hiểu nhau.
III-Mọi người tu chứng đạo đều có TỨ THẦN TÚC. Trong Tứ Thần Túc có TUỆ NHƯ Ý TÚCtức là TAM MINH. Trong Tứ Thần Túc có ĐỊNH NHƯ Ý TÚCtức là TỨ THIỀN.
IV-Đạo Phật không có hai đường giải thoát, mà chỉ có một con đường mà thôi, đó là TÂM BẤT ĐỘNG. Trong Bát Chánh Đạo đã xác định rõ ràng chân lý thứ ba: “DIỆT ĐẾ”, chớ không có hai, ba DIỆT ĐẾ.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 10-6-2009
Kính gửi: Quý phật tử. Kính thưa phật tử! Thầy sẽ trả lời những câu hỏi của quý vị.
1. Từ lâu, quý vị là phật tử thì phải hiểu Tứ Diệu Đế, khi hiểu Tứ Diệu Đế là pháp cơ bản đầu tiên để triển khai tri kiến giải thoát của quý vị, tức là pháp xả tâm, nhưng Thầy không lập lại dạy xả tâm điều này, vì xả tâm điều này chỉ xả phần thô của nó, chớ không bao giờ xả tâm sạch.
Quý vị là cư sĩ còn tại gia, thì nên bắt đầu tu tập xả tâm bằng tri kiến biết “các pháp vô thường, vô ngã đều do nhân quả”. Khi mọi việc xảy ra trong đời sống hằng ngày, thì quý vị nên thấy nó là nhân quả, là pháp vô thường, thì tâm quý vị sẽ được giải thoát ngay liền.
2. “SANH” trong Thập Nhị Nhân Duyên có nghĩa là đời sống hằng ngày của con người, còn “sanh tử” có nghĩa là sinh đẻ và chết.
3. Nếu quý phật tử ôm pháp Như Lý Tác Ý: “Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc” đạt được chất lượng TÂM BẤT ĐỘNG từ 1 giờ đến 7 giờ, thì khi thân quý vị chết nó không hư hoại; nó đang sống trong tưởng tu tập, giống như người ngủ trong chiêm bao, nếu thân khi đó bị thiêu thì nó không còn chỗ để tu tập. Một người đang tu trong tưởng thì thân để bao lâu cũng không hôi thối. Cho đến khi nào họ vào Niết Bàn thì thân họ mới hôi thối, lúc bấy giờ hãy đem thiêu đốt.
4. Một tu sĩ cũng là một công dân của đất nước. Khi đất nước lâm nguy thì mọi người đều có bổn phận bảo vệ Tổ quốc, nên người làm việc này, kẻ làm việc khác để giữ vững bờ cõi, nên gọi là làm CHÍNH TRỊ. Nhưng khi đất nước được hòa bình, thì mọi người công dân trong cùng một đất nước là anh em, nên đừng mang đầu óc chính trị hận thù chia rẽ trong tâm, thì đó chỉ là tự mình làm khổ mình.
5. Khi có người thân mất, chúng ta là những người thân trong gia đình, vì thế, đối với những người thân họ đều có nhân quả với chúng ta. Vậy khi có người thân mất, chúng ta dùng từ trường thiện bằng cách sống đúng NĂM GIỚI NHÂN BẢN, hướng về người mất đã tái sinh làm người mới, để họ được gặp năm giới, khiến cho người thân tái sinh người mới thân không bệnh tật và được hưởng đầy đủ phước báo làm người.
6. Người đến bệnh viện bị Bác sĩ mổ xẻ là người làm ác, thường hay mổ xẻ cá, tôm, gà, vịt, heo, dê, v.v... Nhân nào quả nấy, không ai tránh khỏi luật nhân quả.
7. Pháp Thân Hành Niệm nên kết hợp tu tập cả thân hành ngoại và nội, đừng tu rời rạc. Tuệ Quang cũng tu như vậy.
8. Trong thời quá khứ, quý phật tử đều có gieo duyên với Phật pháp, tức là có cúng dường cho đức Phật và những bậc tu hành đúng chánh pháp, nên nay quý vị mới gặp lại Chánh pháp của Phật. Mặc dù quý vị gặp lại Phật pháp, nhưng quý vị không chịu buông bỏ, không lo tu tập thì phải chịu trôi lăn trong vô lượng kiếp khổ đau.
Kính ghi
Trưởng lão Thích Thông Lạc
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 20-6-2009
Thầy sẵn sàng trả lời những câu hỏi của các con, và minh họa những câu chuyện khiến cho câu trả lời trở thành phong phú những hành động nhân quả thiết thực, cụ thể hơn. Trước tiên, Thầy xin trả lời những câu hỏi của Kim Quang.
Hỏi 1:Đức vượt qua nhân quả, đức làm chủ nhân quả, đức chấp nhận nhân quả, ba đức này có nghĩa là gì? Và có sự khác nhau như thế nào?
Đáp: Ba đức này có nghĩa khác nhau.
I- Đức VƯỢT QUA NHÂN QUẢ có nghĩa là nhân quả đến mà không tác động được thân tâm của chúng ta. Ví dụ, có người mắng chửi chúng ta, chúng ta nghe thấy biết rất rõ ràng, nhưng tâm chúng ta không có chút sân giận, và cũng không phân bua trái phải với người ta, thường sẵn sàng giúp đỡ người mắng chửi mình khi họ gặp nhân quả xấu. Dưới đây là một câu chuyện vượt qua nhân quả: HẠT GIỐNG LUỘC CHÍN.
“Ngày xưa, tại một vương quốc nọ, có một vị vua anh minh luôn được mọi người yêu mến. Ngài luôn buồn rầu vì tuổi đã cao mà chưa có con để truyền ngôi. Một hôm, vua nói với các quần thần:“Ta phải đích thân đi tìm một đứa trẻ thật thà làm con nuôi để sau này có người kế vị”. Thế rồi vua truyền lệnh, phát cho những đứa trẻ trong toàn vương quốc một số hạt giống và tuyên bố: “Nếu ai trồng được một chậu hoa đẹp nhất từ những hạt giống này, người đó sẽ được thừa kế ngôi báu”. Tất cả trẻ con đều hăm hở đem hạt giống về trồng, ngày đêm chăm sóc. Trong số đó, có một cậu bé cũng chăm chỉ chăm sóc cho hạt giống, nhưng mãi không thấy hạt giống nảy mầm. Cậu còn thay cả đất trong chậu, nhưng vẫn không thấy kết quả.
Ngày dâng hoa cho vua xem đã đến, tất cả mọi đứa trẻ đều mang những chậu hoa rực rỡ của mình tới trước cung điện; vua đi xem khắp một lượt, nhưng trên nét mặt không hề có chút vui tươi. Bỗng, vua nhìn thấy lẫn trong đám đông, có một đứa trẻ tay bưng một chiếc chậu không, với nét mặt buồn thiu. Vua lại gần hỏi vì sao, thì cậu bé òa khóc lên, và kể lại cho vua nghe việc mình trồng hoa như thế nào mà hạt giống không nảy mầm. Cậu còn nói, đây có thể là sự trừng phạt vì cậu đã từng ăn trộm táo ở vườn nhà người láng giềng. Nhà vua nghe xong rất đỗi vui mừng. Ngài kéo cậu bé vào lòng và nói: “Đây chính là cậu bé thật thà của ta”. Mọi người thấy vậy, ngạc nhiên hỏi: “Tại sao nhà vua lại chọn một đứa trẻ đưa chậu hoa không tới để kế thừa ngai vàng vậy?”. Nhà vua mỉm cười đáp: “Hạt hoa giống ta giao cho mỗi đứa trẻ đều là những hạt giống bị luộc chín”. Nghe xong lời của nhà vua, những cậu bé bưng trên tay những chậu hoa rực rỡ đều xấu hổ, mặt đỏ và cúi đầu im lặng”.
Câu chuyện trên đây chỉ cho chúng ta vượt qua nhân quả; vượt qua nhân quả chỉ có LÒNG THÀNH THẬTmà thôi. Câu chuyện trên đây tuy đơn sơ, nhưng rất thấm thía cho cuộc đời, vì con người thường hay phạm vào lỗi lầm này. Theo đức Phật dạy: “Nhân quả chỉ có vượt qua”, mà vượt qua nó bằng ĐỨC THÀNH THẬT. Cho nên, mình làm điều gì ác hay thiện, chỉ có đức thành thật thì sẽ vượt qua mọi nhân quả ác, thiện. Quý vị nên nhớ lời này mà Phật đã dạy: “Đứng lại thì chìm xuống. Tiến tới thì trôi dạt. Chỉ có vượt qua”.
II- Đức LÀM CHỦ NHÂN QUẢ có nghĩa là từ hành động thân, miệng, ý của mình, trước khi làm hay nói chúng ta đều có sự suy tư tính toán mỗi hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, rồi mới nói hay làm. Đó là cách thức làm chủ nhân quả.
Làm chủ nhân quả tức là làm lợi ích cho người khác, vì thế ai cũng làm như vậy là đã làm chuyển đổi nhân quả ác trở thành nhân quả thiện; từ cảnh giới Địa ngục để trở thành cảnh giới Thiên đàng, chỉ có hành động làm lợi ích cho người, đừng vì lợi ích cho mình. Đây là một câu chuyện làm chủ nhân quả: THIÊN ĐÀNG và ĐỊA NGỤC.
“Có một người đi tham quan Thiên đàng và Địa ngục. Trước tiên anh ta tới Địa ngục. Ở đó, anh ta thấy một cảnh tượng lạ lùng: Trước mắt mọi người có rất nhiều món ăn ngon, nhưng không ai ăn được. Cho dù họ ngồi bên bàn rượu, nhưng người nào cũng còn da bọc xương, mặt mày ủ rũ.
Anh lại phát hiện ở cánh tay phải mỗi người buộc một cái đĩa, cánh tay trái buộc một con dao, chuôi dao và đĩa dài độ 4 tấc, làm cho họ không thể nào ăn được, vì vậy mà ai cũng bị đói.
Tiếp đó anh ta lại đến Thiên đàng. Cảnh tượng ở đây cũng chẳng có gì khác, chuôi dao và đĩa cũng dài 4 tấc, nhưng những cư dân Thiên đàng đều ca hát, nói cười vui vẻ.
Anh ta nghi hoặc, nhưng cuối cùng cũng tìm ra được câu trả lời. Đó là ở Địa ngục mọi người đều muốn gắp cho mình ăn, vì thế mà không ai ăn được, còn ở Thiên đàng thì mọi người đều gắp cho người đối diện với mình, và cũng được người đối diện gắp lại, vì vậy mọi người cùng giúp đỡ lẫn nhau, nên ai nấy đều có thể ăn uống rất vui vẻ”.
Đọc câu chuyện này, quý vị nghĩ sao về nhân quả? Nếu mọi người hiểu biết về nhân quả thì nên sống vì mọi người; sống vì mọi người thì cuộc sống của chúng ta là Thiên đàng quý vị ạ! Sống vì mọi người rất hạnh phúc. Tại sao vậy? Vì mọi người có an vui thì sự an vui của mình mới lâu dài.
Nhìn lại cuộc sống của chúng ta hiện giờ như thế nào? Hầu hết mọi người chỉ biết nói nhân quả, nhưng chưa thật sống với nhân quả. Cho nên, cuộc sống của loài người trên thế gian là Địa ngục, vì con người chỉ biết sống vì mình, chớ không vì người, vì vậy mà sự xung đột và chiến tranh thường xảy ra khắp trên thế giới không nước này thì nước khác. Đó là sống phi nhân quả nên loài người phải chịu mọi khổ đau, cũng chính nhân quả mình làm mình chịu.
III- Đức CHẤP NHẬN NHÂN QUẢ có nghĩa là biết NHẪN NHỤC,TÙY THUẬN,BẰNG LÒNGdù bất cứ một nhân quả nào xảy đến. Đức chấp nhận nhân quả thì phải dùng cả ba đức này thì mới gọi là chấp nhận nhân quả, thiếu một đức thì không thành đức chấp nhận nhân quả. Đây là một câu chuyện nói về đức chấp nhận nhân quả:
“Có một người đánh cá bắt được một con rùa biển. Ông ta đối xử với nó như con của mình. Thế nhưng con rùa biển không ăn, không uống và cũng không lay động. Lúc nào nước mắt nó cũng giàn giụa.
Con rùa van xin người đánh cá và nói: “Trái tim tôi ở biển cả, nơi đó có nhà của tôi, có niềm vui của tôi, xin ông hãy thả tôi ra”.
Nhưng người đánh cá không thể thả nó được, bởi vì ông rất yêu nó. Một thời gian sau, thấy con rùa yêu quý của mình ngày càng tiều tụy, người đánh cá rất đau lòng và quyết định thả nó về với biển.
Một năm sau, vào một ngày nọ, bỗng nhiên ông ta nghe có tiếng gõ cửa. Mở cửa ra, ông thấy đó chính là con rùa mà ông đã thả.
Người đánh cá liền hỏi: “Con đã có hạnh phúc rồi, sao lại còn trở lại đây làm gì?”
Con rùa liền đáp: “Hạnh phúc của tôi là do ông mang lại, tôi không thể quên được ơn đó”.
Người đánh cá nói: “Thôi, con đi đi, chỉ cần con hạnh phúc là được rồi, từ nay về sau không cần phải đến thăm ông nữa”.
Con rùa biển lưu luyến không muốn rời xa ông. Và một tháng sau, người đánh cá lại thấy con rùa biển quay lại”.
Đức chấp nhận nhân quả tức là LÒNG YÊU THƯƠNG. Ở đâu có lòng yêu thương là ở đó có sự chấp nhận nhân quả. Cho nên, chúng ta chấp nhận nhân quả là vì chúng ta yêu thương mình, yêu thương người yêu thương tất cả chúng sinh, và ngay cả hoàn cảnh xảy ra chúng ta vẫn yêu thương.
✿✿✿
Hỏi 2: Đức vượt qua nhân quả có phải là đức làm chủ nhân quả hay không?
Đáp: Không, đức vượt qua nhân quả và đức làm chủ nhân quả Thầy đã giảng ở trên, nó không phải là một đức. Để Thầy chứng minh thêm đức NHÂN QUẢ VƯỢT QUA bằng một câu chuyện buông xả:
“Thổ dân Phi châu có một tuyệt chiêu vô cùng thông minh khi đi săn khỉ đầu chó. Họ để thức ăn mà nó thích, đặt vào miệng một cái bình lớn, và cố ý để cho khỉ đầu chó núp ở chỗ xa nhìn thấy. Khi họ đi xa rồi, thì khỉ đầu chó vui mừng nhảy tới, dùng tay thò vào bình, quặp lấy thức ăn. Nhưng do miệng bình rất nhỏ, khi tay của nó nắm thành nắm thì rất khó rút ra, lúc bấy giờ, người thợ săn chỉ việc bình tĩnh đến bắt con vật, mà không lo nó bỏ chạy. Do khỉ đầu chó không thể bỏ thức ăn khoái khẩu của mình, nên càng sợ hãi và vội vàng nắm chặt lấy thức ăn, và càng không thể rút tay ra khỏi miệng bình.
Có người nghe câu chuyện liền thốt lên: “Thật là tuyệt diệu”. Chiêu này tuyệt ở chỗ con người đem tâm lý của mình suy xét tới các loài động vật khác. Kỳ thật, con khỉ đầu chó chỉ cần buông tay ra là nó có thể thoát, thế nhưng nó lại nhất định không chịu buông tay ra. Chính điều này cho thấy rằng con khỉ đầu chó giống con người, cũng có thể nói người giống khỉ đầu chó. Cử chỉ của khỉ đầu chó là một bản năng không ý thức, không rời được nó, mà con người nếu như giống khỉ đầu chó chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. Chết không buông tay, đó chỉ có thể trách họ u mê không tỉnh ngộ.
Người xưa nói: “Lùi một bước trời cao biển rộng”. Người thất tình chỉ cần chấp nhận quên người đã bỏ mình, thì đâu đến nổi làm cho bản thân hồn siêu phách lạc, lòng dạ băng giá! Người thất nghiệp chỉ cần từ bỏ cách lựa chọn nghề cứng nhắc của mình mà thay đổi, thì đâu đến nỗi suốt ngày ủ rủ, trách trời trách người đây! Con bạc chỉ cần buông tha ý nghĩ may rủi, thì đâu đến nỗi tiền đi không trở lại, khuynh gia bại sản! Con nghiện chỉ cần tránh xa chất gây nghiện, thì đâu đến nỗi thân tàn ma dại! Người hối lộ, người phá kỷ cương chỉ cần chấp nhận từ bỏ chữ “tiền”, thì đâu đến nỗi phải vào tù, thậm chí mất mạng!”.
Câu chuyện trên đây để xác định được đức vượt qua nhân quả bằng đức BUÔNG XẢ; nhờ có buông xả mà VƯỢT QUA NHÂN QUẢ. Bản chất con người không buông xả; do không buông xả mà con người phải chịu vô cùng khổ đau.
Tất cả các pháp đều vô thường, nên chúng là khổ đau, vì thế ai biết buông xả là người thoát khổ, còn ai không biết buông xả thì khổ đau không bao giờ dứt. Người tu theo Phật giáo cũng chỉ có việc buông xả mà chứng đạo.
Con người ở đời rất là u mê, chết không mang theo vật gì vậy mà sống thì ôm đồm, không dám buông xả, cứ khư khư giữ chặt, cho nên chịu khổ là phải. Vậy mà ở đây có người tu hành lại phóng dật thưa hỏi lung tung. Sao không biết buông xả xuống đi, để thân tâm được giải thoát trong trạng thái tâm bất động; chỉ được im lặng có một chút xíu là thưa hỏi Thầy lăng xăng, đó không phải là PHÓNG DẬTsao?
Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi, có ích gì?
Thở ra chẳng lại, còn chi nữa?
Vạn sự vô thường, buông xuống đi!
Bốn câu kệ này là lời nhắc nhở mọi người tu hành cần phải buông xả, thế mà quý vị có buông xả đâu, cứ thưa hỏi điều này thế kia để huân tập thêm sự hiểu biết; sự hiểu chỉ là cái tủ đựng kinh sách rỗng tuếch, chẳng có ích lợi gì.
Sợ các con không biết buông xả, cho nên Thầy dạy thêm một bài kệ nữa nói lên phương pháp tu tập, nhưng nào ngờ các con có tu tập chỗ nào đâu, cứ phóng dật lung tung, thưa hỏi những đều vơ vẩn. Nên ngậm im miệng lại, để nó mốc meo thì may ra mới chứng đạo. Nếu thấy tu không được, tâm phóng dật thì nên về trông nom con cháu, nhà cửa còn có lợi ích hơn.
Tác ý đi, hãy tác ý đi!
Bất động, thanh thản, chẳng sầu bi.
Tác ý đi, còn lo chi nữa?
Giải thoát đây rồi, tác ý đi!
Buông xuống tất cả các pháp tức là vượt qua. Xin các con hãy nhớ ghi khắc trong lòng mà cố gắng tu tập buông xả, đừng nên mượn cớ này cớ khác để hỏi Thầy. Đó là các con đã bị tâm mình lừa gạt phá hạnh độc cư, để thỏa mãn tâm phóng dật.
Một lần nữa Thầy xin nhắc lại, các con BUÔNG XUỐNG TẤT CẢ thì ngay liền tâm BẤT ĐỘNG; đó là giải thoát của Phật giáo. Bất động là VƯỢT QUA NHÂN QUẢ, các con có hiểu chưa?
✿✿✿
Hỏi 3: Tránh né nhân quả có phải là đức vượt qua nhân quả và đức làm chủ nhân nhân quả không?
Đáp: Không, đức vượt qua và đức làm chủ nhân quả khác nhau như trên Thầy đã giảng. Còn tránh né nó không phải đức hạnh, cho nên nó không phải là đức vượt qua và cũng không phải là đức làm chủ nhân quả.
Hành động TRÁNH NÉ NHÂN QUẢcó nghĩa trốn tránh nhân quả. Thầy sẽ cho vài thí dụ thì sẽ rõ.
Ví dụ 1: Có người chửi mắng mình thì bịt hai lỗ tai lại không nghe, hoặc hát radio lớn tiếng làm át tiếng chửi của người khác, hoặc đóng cửa nhà trốn bỏ đi.
Ví dụ 2: Mình lấy của không cho của người rồi đổ lỗi cho người khác lấy, hoặc mình làm lỗi mà đổ lỗi cho người khác chịu.
Ví dụ 3: Do ghen tuông mình giết người tình địch, rồi bỏ đi xứ khác tránh né tội giết người.
Ví dụ 4: Báo chí thường đăng tin tức giết người cướp của rồi bỏ xứ đi xứ khác, để công an không tìm ra thủ phạm.
Trên đây là những HÀNH ĐỘNG TRÁNH NÉ, vì những hành động này là các tính xấu xa, tính sợ hãi, tính hèn nhát, v.v...
Tránh né nhân quả là một hành động trốn chạy, hành động hèn nhát, sợ hãi, ích kỷ, hẹp hòi, không dám nhìn thẳng một sự thật. Cho nên nó không được gọi là ĐỨC, mà chỉ được gọi là TÍNHnhư: tính tránh né, tính ích kỷ, tính hèn nhát, tính hẹp hòi, tính nhỏ mọn, v.v...
Đây là một câu chuyện để xác định sự TRÁNH NÉ NHÂN QUẢ, các con nên suy ngẫm:
“Buổi sáng, tôi soi gương để cạo râu, nhìn đi nhìn lại, bỗng nhiên tôi thấy không vừa mắt. Gương mặt trắng bệch, góc trái đầy nếp nhăn. Trong gương, như tôi đang cười, đang ân cần với một người nào đó. Cuối cùng, tôi cũng nghĩ ra.
Hôm qua, ở cửa phòng thí nghiệm, gặp một giáo sư trẻ gặp vận may; anh ta thăng chức rất nhanh, không phải vì anh ta là một người quá thông minh, tài năng xuất chúng, mà anh ta là người biết cách trèo lên. Vừa bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, thủ đoạn kinh doanh của anh ta trong chốc lát đã làm cho các đồng nghiệp kinh ngạc.
Tôi và anh ta không hề có cảm tình gì, chỉ là miễn cưỡng gật đầu chào nhau. Chính lúc gặp anh ta ở cửa, cảm giác không thân thiện đó vẫn tồn tại. Nhưng anh ta nhìn thấy tôi, thì trên mặt anh ta lập tức xuất hiện nụ cười hạnh phúc, làm như vui vẻ nhiệt tình, giống như cuộc gặp ngẫu nhiên này khiến anh ta vui vẻ đến phát điên lên. Sau đó, anh ta nắm chặt lấy tay tôi và nói:
“Rất vui được gặp anh. Mấy hôm trước có dịp được đọc luận án về Châu Nam Cực của anh. Luận án của anh hay lắm! Rất tiếc chúng ta không thể cùng hợp tác về vấn đề này”.
Tôi biết anh ta đang nói dối, bởi vì công việc của tôi chẳng có liên quan gì đến anh ta. Lúc đó, tôi muốn nói một câu đáp lễ lạnh nhạt cho xong. Song, tôi gượng vui vẻ cười lại, còn tỏ ra thân mật nói:
“Nghe nói anh viết xong luận án tiến sĩ, thế thì tốt quá rồi, đừng bỏ lỡ thời gian. Giáo sư à, tôi rất khâm phục thái độ nghiêm khắc của anh!”
Tôi nói rồi liên tục lắc tay anh ta, lắc đến nỗi anh ta phát hoảng và muốn rút tay ra.
Bản thân tôi cũng không biết chuyện gì xảy ra nữa, dường như là đang nói những lời nịnh hót dưới sự gợi ý của người khác, lại còn cười rất ngọt ngào, thậm chí cả nét mặt cũng thể hiện điều đó.
Sau chuyến đó, cái mỉm cười nịnh bợ giống một tên nô tài, cái thái độ xấu xa khi nắm chặt tay anh ta lắc mà không chịu bỏ ra, và những lời nói nịnh bợ đó của tôi đã day dứt tôi suốt ngày. Tôi tự xỉ vả mình, nguyền rủa cái con người trong tôi, trong một trường hợp... Thậm chí một cái tôi khác còn mạnh hơn cả lí trí.
Đúng là vậy? Tự vệ ư? Lí trí ư? Hay là bản tính của một kẻ nô lệ.
Một giáo sư trẻ nào có tài cán gì hơn tôi cho cam, mà cũng chẳng cao siêu gì hơn tôi, hơn nữa, địa vị của anh ta trong cơ quan lại phụ thuộc vào công việc của phòng thí nghiệm chúng tôi. Tôi chẳng có gì phải cầu cạnh anh ta cả. Thế nhưng tôi lại nhiệt tình bắt tay giáo sư may mắn đó, nói những lời giả dối xu nịnh đó.
Sáng sớm, soi gương cạo râu, nhìn gương mặt trong gương của mình, tôi nhận ra gương mặt vừa thân thiết vừa đáng thương; nó mới giả dối, xu nịnh và yếu đuối làm sao, trong mỗi bước ngoặt trên đường đời đều phải tìm mọi cách để bảo vệ chính mình. Dường như phải chia đôi con người ra để xem lại, và đột nhiên, tôi cảm thấy cuồng nộ”.
Quý vị thấy chưa? Con người có hai mặt, một là thật thà, còn mặt khác thường giả dối, mà giả dối chính ngay bản thân nó nữa. Đó là tránh né một sự thật nên con người mới trở thành giả dối. Con người muốn sống thành thật với mình, với mọi người thì chỉ có sống với tâm BẤT ĐỘNG.
Sống với tâm bất động là sống vượt qua nhân quả như trên đã nói. Sống vượt qua nhân quả tức là sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Đúng vậy, sống BẤT ĐỘNG TÂMthì còn làm ai đau khổ, cho nên ai sống được là sống thoát ra mọi sự khổ đau trên đời này.
Sống bất động tức là sống BUÔNG XẢ SẠCH, vì tâm bất động đâu còn vật gì để buông xả. Cho nên, người tu tập theo Phật giáo mà không hiểu tâm BẤT ĐỘNGlà người chưa hiểu Phật giáo. Phật giáo chủ trương tu hành là phải làm chủ thân tâm. Nếu ai muốn làm chủ thân tâm mà không sống trong tâm bất động thì chẳng bao giờ làm chủ thân tâm.
Ai sống trong tâm bất động sẽ có đủ quyền năng đạo lực làm chủ sự sống chết. Bởi vậy, trong khi tu tập mọi người phải nhắm vào mục đích này. Nếu đạt được tâm bất động là đạt được tất cả.
Tâm bất động quan trọng như vậy, cho nên nói vượt qua nhân quả là nói đến tâm BẤT ĐỘNGquý vị ạ!
Chúng tôi xin nhắc lại một gương BẤT ĐỘNGtrước kẻ thù luôn luôn dùng súng đạn giết người, giết dân tộc ông, nhưng một mực ông không bao giờ lấy hận thù diệt hận thù, mà lấy lòng yêu thương trong tinh thần bất bạo động. Đó là MAHATMAGANDHI, trong câu chuyện “Khi một bậc kỳ tài từ trần” (Lòng Yêu Thương tập 1).
✿✿✿
Hỏi 4: Đức đương đầu với nhân quả, đức chấp nhận nhân quả và đức tùy thuận nhân quả có khác nhau hay không? Và nếu có, thì khác nhau như thế nào?
Đáp: Ba hành động này khác nhau.
1. ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHÂN QUẢcó nghĩa là chống lại nhân quả. Ví dụ, có người chửi mình, mình liền chửi lại; đánh mình, mình liền đánh lại.
2. CHẤP NHẬN NHÂN QUẢcó nghĩa là vui lòng nhận lấy nhân quả mà không than phiền một điều gì với ai cả. Ví dụ, có người chửi mình, mình không chửi lại, mà không phân giải hơn thiệt phải trái.
3. TÙY THUẬN NHÂN QUẢcó nghĩa là bằng mặt không bằng lòng, nên thường tìm cách phân biệt phải trái, hơn thiệt trong nhân quả, để làm cho người khác hiểu nhân quả.
Hỏi 5: Khi nào thì áp dụng đức vượt qua nhân quả, đức đương đầu nhân quả và tính tránh né nhân quả.
Đáp: Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nên áp dụng đức vượt qua nhân quả là tốt nhất, còn đương đầu và tránh né nhân quả thì không nên áp dụng. Vì đức Phật đã xác định rõ ràng: “Đứng lại thì chìm xuống (tránh né nhân quả). Tiến tới thì trôi dạt (đương đầu nhân quả). Chỉ có vượt qua (vượt lên nhân quả).
✿✿✿
Hỏi 6: Người tu sĩ cần trang bị cho mình những đức nào kể trên để không bị tác động của nhân quả, hay phải trang bị những tri kiến nào? hay chánh kiến gì để làm chủ nhân quả trong mọi trường hợp?
Đáp: Người tu sĩ Phật giáo chỉ cần trang bị cho mình những đức như sau: Đức TRI KIẾNvà đức CHÁNH KIẾNvượt qua nhân quả.
✿✿✿
Hỏi 7: Con thấy người đời lúc trẻ thường lấy công việc làm mục đích sống, để không phải ngồi không. Còn người tu thì xả bỏ mọi thứ để ngồi không giữ tâm thanh thản. Đến lúc già, khả năng suy nghĩ hay động não của người đời không còn nhạy bén, mà từ từ mất trí nhớ dần. Còn người tu hành lúc già chỉ ngồi giữ tâm hay tâm luôn thanh thản thì đầu óc có trì trệ, kém trí nhớ hay không thưa Thầy? Tại sao?
Đáp: Người đời vì chạy theo dục lạc thế gian nên sử dụng đầu óc làm việc quá nhiều, nên đến già đầu óc lẫn lộn quên trước quên sau. Còn người tu hằng ngày để đầu óc rảnh rang nghỉ ngơi trong im lặng, nên đến già đầu óc sáng suốt minh mẫn.
✿✿✿
Hỏi 8: Nếu một tu sinh đang tu tập tại Tu Viện có cha hay mẹ đến yêu cầu người tu sinh đó về nhà phụng dưỡng cha mẹ, thì người tu sĩ đó phải làm sao thưa Thầy? Về nhà hay tiếp tục tu cho xong?
Đáp: Nếu cha mẹ già yếu bệnh tật không ai nuôi dưỡng thì người tu sĩ đó phải trở về gia đình nuôi dưỡng cha mẹ, và ở trong gia đình cũng tiếp tục tu tập xả tâm như ở Tu Viện vậy. Còn ngược lại, ý cha mẹ không muốn cho con tu tập thì nên trở về thuyết phục bằng nhiều cách.
Ngày xưa, trong thời đức Phật, có một nhà thí chủ lớn nhất là ông Cấp Cô Độc, nhưng ông có một đứa con trai độc nhất lại ngộ pháp Phật, nên quyết tâm xuất gia tu hành, lìa bỏ vợ con và tất cả tài sản. Ông Cấp Cô Độc không bằng lòng. Còn đức Phật chỉ chấp nhận cho theo Ngài tu hành là phải được gia đình đồng ý, vì thế, con ông Cấp Cô Độc không thể bỏ nhà theo Phật được, nên muốn thuyết phục cha mình, vì thế nó nhịn ăn, không ăn uống vật gì cả suốt sáu ngày; thân nằm liệt giường không còn đi đứng nổi. Thấy con như muốn chết, nên ông đành bảo: “Thôi, con muốn đi tu theo Phật thì đi đi! Đừng có nhịn ăn nữa”.
✿✿✿
Hỏi 9: Khi con bị nhức cổ, con tác ý và giữ tâm thanh thản; con cảm thấy chỗ nhức các cơ gồng cứng lên rồi đột nhiên giựt mạnh, rồi từ từ nhẹ dần. Lúc đó chỗ nhức cũng có vẻ giảm đau. Vậy thưa Thầy, hiện tượng trên có phải là tưởng hành hoạt động hay không? Nếu phải thì con phải sao? Làm sao con có thể phân biệt được tưởng hành lúc nào hoạt động, lúc nào không, trong trường hợp đuổi bệnh?
Đáp: Có một hiện tượng gì xảy ra trên thân tâm con đều là tưởng, dù đó là tưởng trị bệnh như con đã trình ở trên đều là sai cả. Trạng thái trị bệnh là một ý chí ngút ngàn. Nếu người không học Phật pháp thì không bao giờ có ý chí ấy. Ý chí ấy chỉ là TÂM BẤT ĐỘNG, dù bất cứ một ác pháp nào đến với tâm bất động cũng không làm cho TÂM ĐỘNG được; đó mới gọi là ý chí.
Thầy của các con
Tâm Thư Ngày 25-7-2009
Câu hỏi của Tuyết Đào: Kính bạch Trưởng Lão, xin Người chỉ cho con pháp môn phù hợp với đặc tướng của con. Hơi thở của con thường gián đoạn (Con bị bệnh viêm xoang sàn đã 19 năm nay). Nó chỉ “mềm mỏng, điều hòa” khi con bắt chéo chân ngồi lặng yên một góc nào đó. Da của con xanh tái vì sự chuyển hóa không tốt của máu.
Đáp: Kính gửi Tuyết Đào. Con hãy tu tập nhiếp tâm trong cánh tay đưa ra, đưa vào trong 1 giờ, nhưng muốn đạt được 1 giờ, thì phải bắt đầu tu tập từ 5 phút, rồi tăng dần lên 10 phút, rồi tăng lên 15 phút, rồi tăng lên 20 phút, rồi 25 phút, rồi 30, 40, 50 phút rồi 1 giờ. Nhớ lưu ý khi tu tập như vậy không được để căng đầu, nặng đầu.
Khi nhiếp tâm trong cánh tay đưa ra đưa vào như vậy, thì bệnh viêm xoang sẽ bị đẩy lui, và tất cả những bệnh khác cũng được diệt trừ tận gốc.
Quan trọng là ở chỗ nhiếp tâm, nếu nhiếp tâm trong cánh tay đúng pháp thì thân tâm thoái mái dễ chịu, còn nhiếp tâm sai pháp thì có trạng thái cảm giác mệt mỏi, khó chịu.
Bởi tu tập là làm một việc lợi ích cho bản thân của mình rất lớn, cho nên phải có sự công phu tập luyện hết sức, chớ không phải tu tập lơ mơ mà có được những điều lợi ích lớn đó.
Nhiếp tâm, hai chữ nghe đơn giản, nhưng không đơn giản đâu quý vị ạ! Ngay từ phút đầu tiên là phải tu tập đúng pháp; cánh tay đưa ra, đưa vô phải nhịp nhàng và nhẹ nhàng, chớ không thể lúc đưa ra đưa vô như thế này, lúc lại đưa ra đưa vô như thế khác.
Nhiếp tâm có nghĩa là làm sao cho tâm chỉ còn biết duy nhất có cánh tay đưa ra đưa vô, mà không còn biết phân biệt cái gì khác nữa xảy ra bên ngoài. Trong khi nhiếp tâm dù có người đi ngang qua, dù có âm thanh tác động vào tai, nhưng tuy vẫn thấy, nghe nhưng tâm vẫn chăm chú vào cánh tay đưa ra, đưa vào không được mất.
Khi nhiếp tâm được như vậy, thì máu trong thân con sẽ lưu thông điều hòa, làm cho cơ thể con thoái mái dễ chịu, nhờ đó mà bệnh tật đều được đẩy lui ra khỏi thân.
✿✿✿
Câu hỏi của Tâm Thiện: Kính thưa Thầy, thời gian đầu con có tập đi kinh hành chánh niệm tĩnh giác, 20 bước dừng lại tác ý một lần. Con đi và cảm nhận được chân dẫm vào gạch, lên chiếu như thế nào. Tuy nhiên, con cũng bị chú ý vào hơi thở để giữ cho hơi thở đều theo nhịp. Lúc căng đầu, căng mặt thì con xả bỏ, đi quanh nhìn lên, xuống và không tập trung nữa, bớt căng, con lại đi tiếp.
Trong thời gian này, khi đi xe con cũng thường tác ý, đồng thời chú ý vào hơi thở giữ cho đều. Cho đến khi con cảm thấy hơi thở không được tự nhiên. Sáng thức dậy có ý nghĩ là hơi thở bị ngưng trệ, con phải để ý hít ra, hít vô, không thì thiếu dưỡng khí. Đôi khi, con phải rướn người hít thở sâu để bớt cảm giác căng trán, nặng mặt, khó chịu dọc sống mũi. Con nghĩ con bị ức chế hơi thở nên con không tập đi kinh hành nữa, con xả bỏ và chỉ đọc sách thôi.
Thời gian này con đang tự nghĩ là tu tập Giới và đọc thêm sách của Thầy (Tuy vậy con vẫn chưa giữ được Giới Đức Minh Mẫn Thầy ạ. Con vẫn ngồi tiếp bia cùng anh em chỗ con làm).
Do bị ức chế hơi thở (rối loạn) nên con hay có cảm giác buồn ngủ (có thể do bị thiếu Oxy lên não), đôi khi có cảm giác buồn chán không đâu, không cảm thấy tha thiết với nhiều thứ.
Hôm nay, được anh Thiện Thành khuyên con viết thư vào trình Thầy để Thầy chỉ dạy pháp hành. Con tự nghĩ: con chưa đọc được nhiều, chưa tập được pháp, chưa có đủ duyên để vào tu viện xin Thầy ban pháp tu phù hợp với đặc tướng của con, nên con không dám làm mất thời gian của Thầy. Nhưng nay đã qua hơn 3 tháng xả bỏ không tập nữa, mà con vẫn bị ức chế hơi thở, nên con viết thư này, Kính mong Thầy từ bi chỉ rõ cho con pháp hành, phá bỏ trạng thái đó và ban cho con pháp tu phù hợp với đặc tướng của con. Con xin chân thành tri ân Thầy.
Đáp: Kính gửi Tâm Thiện. Tu tập sai thì sửa lại không có gì lo ngại. Khi nào thấy hơi thở ra vô không bình thường, khó chịu thì con nên tác ý: “Hơi thở phải thở ra vô bình thường”. Khi tác ý xong, con liền hít thở ra vô một hơi thở dài rồi thở lại bình thường, nên lưu ý chỉ thở một hơi thở ra và một hơi thở vô dài mà thôi, không được thở hai, ba hơi thở dài liên tục.
Nếu thấy hơi thở bình thường thì thôi, mà hơi thở ra vô không bình thường thì nên tác ý lại câu trên.
Khi tu tập TĨNH GIÁC có hiện tượng đầu căng thì nên tu tập ít lại. Ví dụ, tu tập 30 phút bị căng đầu thì nên tu tập chừng 20 phút, hoặc 15 phút mà thôi. Con lưu ý trong khi tu tập cũng như khi xả ra, thân tâm bình thường là tu tập đúng pháp, còn có một trạng thái nào xảy ra trên thân là đều tu tập sai pháp, cần phải dừng lại, không nên tu tập nữa.
Khi đang tu tập hay khi xả ra mà tâm luôn luôn còn thích tu, là tu tập đúng pháp, còn xả ra mà thấy mệt nhọc lừ đừ là tu sai pháp, nên dừng lại.
Nhiếp tâm trong hơi thở dễ bị rối loạn hô hấp, vậy các con NÊN TU TẬP VỚI CÁNH TAY ĐƯA RA ĐƯA VÀO, thì không sợ rối loạn hơi thở.
Ở đây các con nên lưu ý, nhiếp tâm là mục đích tập TỈNH THỨC, nó chỉ là pháp trợ đạo cho pháp xả tâm, chớ không phải là pháp xả tâm. Pháp môn tu chính của con là pháp XẢ TÂM,LY DỤC LY BẤT THIỆN PHÁP. Cho nên, hằng ngày chỉ cần tu tập xả tâm để tâm được bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.
Thăm và chúc các con tu tập xả tâm tốt.
Kính ghi
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 01-10-2009
Kính gửi quí phật tử! Kính thưa quí vị! Những người phật tử vào Tu Viện với mục đích là tu tập để làm chủ SINH,GIÀ,BỆNH,CHẾT, cho nên phải sống đúng giới hạnh: ĂN,NGỦvà ĐỘC CƯcho trọn vẹn; còn chưa sống được như vậy thì nên trở về trụ xứ của mình mà luyện tập sống cho đúng giới hạnh; chừng nào sống được như vậy mới vào Tu Viện tu học tiếp TÂM LY DỤC,LY BẤT THIỆN PHÁP. Người nào không sống đúng giới hạnh, thường vi phạm một trong ba giới hạnh trên đây thì xin vui lòng rời khỏi Tu Viện.
Tu Viện là nơi để cho những người quyết tâm về tu hành cầu giải thoát, chớ không phải là nơi để cho những người về an dưỡng, đi tới, đi lui như đi chợ. Đừng mượn nhà của Tu Viện để ở, mượn cơm của Tu Viện để ăn, ăn rồi lại tập trung đi nói chuyện tào lao, lại còn đi dạo làng trên xóm dưới vào quán mua bánh trái, đường sữa về ăn thêm. Trong khi mọi người ăn chỉ một ngày một bữa, còn mình thì ăn thêm lặt vặt thật là xấu hổ! Những người ăn uống phi thời như vậy là phá hoại Tu Viện.
Để đảm bảo sự an ninh yên ổn cho Tu Viện, khi mọi người đến đều phải đăng ký lý lịch, hộ khẩu tạm trú, tạm vắng. Đó là để bảo vệ tự do tín ngưỡng tu hành của mọi người trong Tu Viện.
Bổn phận của người công dân là phải tuân hành luật pháp của Nhà nước. Còn riêng những người nào tránh né không đăng ký hộ khẩu tạm trú, tạm vắng, thì Tu Viện cần phải mời những người này ra khỏi. Đó là để bảo vệ cho những người khác tu hành. Nếu những người này không chấp nhận rời khỏi Tu Viện, thì những người có trách nhiệm đăng ký hộ khẩu tạm trú, tạm vắng nên báo cáo cho ngành An ninh Nhà nước biết, để kịp thời ngăn chặn những người phá hoại Tu Viện.
Vì bảo vệ Tu Viện để mọi người được yên ổn tu hành, nên Thầy cho phép các con phải làm việc kiểm tra chặt chẽ đối với những người đến, đi, ở trong Tu Viện mà không khai báo, hoặc đến ở năm, mười ngày rồi lại đi về; về trong năm, mười ngày rồi lại đến; cứ đến, đi như vậy làm cho người đăng ký rất khó làm việc. Những người này không chấp nhận cho họ ở trong Tu Viện. Nhất là những người đến ở đăng ký một tháng hoặc hai tháng, nhưng chỉ ở có năm, mười ngày rồi lại bỏ ra về. Đi và về như vậy chứng tỏ những người này không có thiện chí tu hành. Họ không phải là những người tu hành thật sự; cần phải mời họ ra khỏi Tu Viện, vì họ là những người phá hoại Tu Viện, đến làm động những người khác tu hành. Họ xem Tu Viện là nơi du lịch nên muốn đến, muốn đi lúc nào cũng được. Những hạng người này cần phải cảnh giác, nhất là những người quen mặt rồi sinh ra lờn mặt. Tu Viện hiện nay không chấp nhận những hạng người này ở trong Tu Viện. Nhân tiện đây, Thầy xin mời một số người không giữ hạnh độc cư, thường lén lút nói chuyện, lấy cớ bệnh đau để đi ra, đi vào trị bệnh. Đó là những hành động phá độc cư của Tu Viện.
Nếu vào Tu Viện thì phải bền chí tu tập ngày đêm để làm chủ bệnh, thì còn có thì giờ đâu rảnh rang mà đi nói chuyện. Bởi vậy, chỉ có những người vào Tu Viện nhưng không quyết tâm tu tập nên ăn không ngồi rồi, vô công rỗi việc, mới đi từ thất này tới thất khác kiếm người đồng bệnh nhiều chuyện. Đó là những hành động phá hoại Tu Viện. Những người này nên rời khỏi Tu Viện; đừng để Thầy nêu tên tuổi, đuổi ra khỏi Tu Viện thì xấu hổ lắm; rồi đây không còn nhìn mặt người khác được.
Người tu hành thì phải giữ gìn đức hạnh và siêng năng tu tập cho ra người tu hành, thì mới được xem là đệ tử của TU VIỆN CHƠN NHƯ. Khi thấy mình chấp hành nội qui không nghiêm chỉnh thì nên rời khỏi Tu Viện, đừng để bị đuổi mà mang tiếng muôn đời. Một em bé học sinh bị đuổi học, nhưng vì em còn bé thơ nên mọi người tha thứ và xem đó là một em bé “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn các phật tử không còn là em bé, mà là người lớn, có đủ trí tuệ hiểu biết, đến Tu Viện tu tập làm chủ sự sống chết, nhưng cớ sao lại đi nói chuyện phá hạnh độc cư, phá nội qui Tu Viện? Một em bé làm sai, cô giáo hay cha mẹ bắt phạt, đôi khi bị cô giáo đuổi. Còn phật tử phạm vào nội quy, phá hạnh độc cư của Tu Viện, đi nói chuyện thì phạt thế nào?
Một người lớn như các phật tử không lẽ phạt quì hương, hay đánh năm, mười roi, mà chỉ có bị phạt là đuổi ra khỏi Tu Viện. Quý phật tử có biết không?
Một người công dân tốt trong một đất nước thì phải chấp hành luật pháp nghiêm chỉnh, không hề vi phạm pháp luật của Nhà nước. Còn người công dân thường vi phạm pháp luật của Nhà nước, người công dân như vậy là người công dân có tiền án, tiền sự; không xứng đáng là người công dân trong nước độc lập.
Ở trong Tu Viện cũng vậy, tất cả phật tử phải thi hành nội qui Tu Viện nghiêm chỉnh. Ai vi phạm nội qui Tu Viện, thường đi tới, đi lui nói chuyện lén lút là những người phá hoại Tu Viện, cần phải mời ra khỏi Tu Viện. Nhất là những người nào ở trong Tu Viện hai, ba tháng rồi không đăng ký tạm trú; nếu không đăng ký thì mời ra khỏi Tu Viện.
Tu Viện là nơi để cho mọi người về đây học tập đạo đức nhân bản - nhân quả, và nhất là tu tập để làm chủ sự sống chết, vì thế nếu ai vi phạm nội qui, phá hạnh độc cư thì Tu Viện không chấp nhận. Đây là một bức thư cảnh báo cho quý phật tử biết, để tránh những điều vi phạm nội qui Tu Viện.
Kính ghi
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 07-10-2009
Kính gửi: Quý phật tử. Kính thưa quý vị! Thời nào cũng vậy, luôn luôn có những người hay vọng ngữ thường tự khoe mình chứng đạo. Nhưng muốn chứng đạo đâu phải dễ, người nào muốn chứng đạo đều phải đi vào cửa giới luật. Nếu giới luật sống không đúng, dù chỉ là một giới luật nhỏ nhặt thì họ cũng không chứng đạo.
Cho nên chỉ cần xem GIỚI LUẬT, và quá trình tu tập của họ phải 5 năm hay 10 năm sống ĐỘC CƯtrong thất, không tiếp duyên với bất cứ một người nào, thì mới tin họ chứng đạo.Xét trong giới luật Phật, thấy người nào còn phạm giới và chưa có thời gian công phu tu tập, thì biết ngay đó là chưa chứng đạo.
Người nào hay NÓI VỀ TIỀN KIẾPcủa mình, của người này, của người kia, họ không phải là người chứng đạo, họ là MAtrong đạo Phật; là người đang bị bệnh thần kinh rối loạn ý thức. Xin quý phật tử lưu ý, đừng để bị những người này lừa đảo.
1- Người TỰ KHOE MÌNH CHỨNG ĐẠO LÀ VỌNG NGỮ, phạm giới thứ 4, chưa chứng đạo.
2- Người KHÔNG SỐNG ĐỘC CƯ, không phòng hộ sáu căn, thì ý căn sẽ phạm tất cả giới luật, không chứng đạo.
3- Người còn ĐI ĐÂY ĐI ĐÓlà phóng dật, thường ĂN UỐNG PHI THỜIlà phạm giới thứ 9, không chứng đạo.
4- Người nào còn CẤT GIỮ TIỀN BẠClà phạm giới thứ 10, không chứng đạo.
Cho nên, khi còn phạm giới thì làm sao gọi là Thánh tăng được; thì làm sao gọi là đắc pháp với Thầy được; thì làm sao gọi là nhập tầng thiền thứ nhất (Sơ Thiền) được.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 07-10-2009
TÂM KHÔNG NIỆM
Kính gửi: Liễu Châu. Con nói tâm con “im re” không niệm. Vậy sao tê chân, hoặc chuyển sang đi kinh hành con đều biết?
1- Biết tê chân là khởi niệm.
2- Biết chuyển sang đi kinh hành là khởi niệm.
Như vậy, con tu sai mà không biết mình tu sai.
Nếu thật sự con không còn khởi niệm, thì con trở thành cục đá, gốc cây.
Đạo Phật là đạo TRÍ TUỆ, vì thế trước các ác pháp tâm không giận hờn phiền não, là nhờ hiểu biết nhân quả, cũng như đứng trước các dục mà không bị lôi cuốn, đắm mê, chớ không phải không niệm.
Tịnh mà không niệm là sai, là không hiểu nghĩa của tịnh.
Tịnh mà không niệm là ức chế ý thức.
Niệm tịnh (thanh tịnh) là những niệm đem lại sự an vui, yên ổn cho mình và cho mọi người.
Nếu con bảo tâm con không niệm, sao con biết mọi vật xung quanh con?
Con hiểu sai chữ niệm, vì chữ niệm có hai nghĩa rất rõ ràng:
1- Niệm là sự tư duy, suy nghĩ, đó là niệm thô.
2- Niệm chỉ là biết mọi vật xảy ra xung quanh con, đó là niệm vi tế.
Vậy biết niệm nào đúng và niệm nào sai?
NIỆM THÔ có hai niệm:
1- Niệm đúng là sự tư duy suy nghĩ những điều thiện.
2- Niệm sai là sự tư duy suy nghĩ những điều ác.
NIỆM VI TẾ có hai niệm:
1- Niệm là chỉ biết mọi vật xung quanh con, mà không bị lôi cuốn theo mọi vật là đúng.
2- Niệm là chỉ biết mọi vật xung quanh con, mà bị lôi cuốn theo mọi vật là sai.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 17-10-2010
TIẾP NHẬN NGƯỜI VÀO TU VIỆN
Kính gửi các con! Có những điều quan trọng trong sự tiếp nhận người vào Tu Viện tu tập:
1. Người phá hạnh độc cư dù chỉ một lần cũng nên mời họ ra khỏi Tu Viện.
2. Từ những cư sĩ đến những tu sĩ dù là Hòa Thượng, khi đến Tu Viện đều phải trình pháp môn tu tập của mình, nếu không mà tự tu thì cũng nên mời họ ra khỏi Tu Viện.
3. Tu Viện là nơi tu hành chánh pháp của Phật, nếu ai đến đây mượn chỗ tu hành thì mời ra khỏi Tu Viện.
4. Nếu những cư sĩ hay những tu sĩ được chấp nhận cho ở trong Tu Viện tu tập thì phải ăn mặc đồng phục như nhau, không nên viện cớ vì hệ phái này hệ phái khác, mà phải hiểu đây chỉ có những tu sĩ Phật giáo Việt Nam mà thôi.
5. Tu Viện chấp nhận những người quyết tâm tu giải thoát, còn những người đến đây xin tu một ngày, hoặc hai, ba ngày, hoặc một tháng, hai, ba tháng rồi về, thì không nên nhận, hãy cho họ về ngay. Vì để những người này sẽ làm bận rộn Tu Viện phải lo chỗ ăn, chỗ nghỉ, giấy tờ tạm vắng, tạm trú và những lý lịch rất là phiền phức.
6. Khi những cư sĩ hay tu sĩ mới đến tu tập, thì con nên đọc cho họ nghe những điều trong bức thư này, để ngay đó họ rời khỏi Tu Viện mà các con khỏi phải khai báo giấy tờ.
7. Tu Viện cần có những người có chí tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết, chớ không chấp nhận những cư sĩ hay tu sĩ đi lang thang.
8. “Pháp bất vị thân”; ở Khu Tiếp nhận, con phải cứng rắn nói thẳng, nói thật và mời những người tu thử, tu chơi ra về, để các con được an ổn tu hành.
9. Những cư sĩ hay tu sĩ đến đây đảnh lễ, thật tâm cầu pháp tu hành thì chấp nhận, còn những cư sĩ hay tu sĩ tính tình ngang bướng, thường đem những kiến giải bã mía ra tranh luận hơn thua thì mời ra khỏi Tu Viện.
10. Giờ giấc ở đây đã qui định, người nào tu sai giờ giấc thì mời ra khỏi Tu Viện.
11. Ăn uống phi thời thì nên mời ra khỏi Tu Viện.
12. Ngủ phi thời thì nên mời ra khỏi Tu Viện.
13. Thất phải mở cửa trong giờ tu tập, không được treo chăn màn hay đóng đinh treo y, áo, nếu làm sai, xin mời ra khỏi Tu Viện.
14. Giường nằm trong thất không được di dời, nếu di dời sẽ mời ra khỏi Tu Viện.
15. Thất phải giữ gìn vệ sinh từ nơi ngủ nghỉ, và phòng vệ sinh phải sạch sẽ.
16. Trên tường không được dán giấy, viết chữ, không được đóng đinh treo hình ảnh, dù là hình ảnh của Phật.
17. Xung quanh thất phải dọn dẹp sạch sẽ, không trồng hoa kiểng; người nào làm sai thì sẽ mời ra khỏi Tu Viện.
18. Người mới đến đây chưa hiểu pháp tu hành thì nên hỏi thầy Gia Hạnh.
19. Pháp tu hành ở đây là pháp tu hành thực tế, nếu tu hành thì sẽ có giải thoát ngay liền. Những người tu thử, tu chơi thì nên rời khỏi Tu Viện.
20. Tu Viện chỉ mong những người có chí lớn, có quyết tâm tu chứng đạo để làm sáng tỏ Phật giáo.
Hai mươi điều trên đây con nên đọc cho những người mới đến, để họ lượng sức mình có tu tập được thì quyết tâm bền chí ở lại tu hành, còn không thì hãy ra về.
Kính ghi
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Tháng 01-2011
Đúng như tựa đề của bài pháp này, nên đức Phật dạy: “Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy!”. Có nghĩa là Phật pháp không có dụng công tu tập như các pháp môn ngoại đạo, chỉ cần hiểu biết tính chất của các pháp thế gian là VÔ THƯỜNG,VÔ NGÃthì người có trí liền BUÔNG XẢsạch các pháp. Nhờ buông xả sạch các pháp thế gian, nên không có pháp nào làm ĐỘNG TÂMhọ được.
Khi tâm buông xả sạch các pháp thế gian, thì tâm luông luôn ở trong trạng thái BẤT ĐỘNG,THANH THẢN, AN LẠC,VÔ SỰ- một trạng thái giải thoát mà người tu sĩ Phật giáo nào cũng đều tha thiết muốn sống được với nó. Nhưng muốn sống với nó phải bằng cách nào đây?
Để trả lời câu hỏi này, thì chúng tôi xin quý vị hãy lắng nghe và suy tư cho chín chắn thì mới biết rõ: từ lâu mọi người đều hiểu không đúng chánh pháp của Phật, nên dụng công tu tập từ ngày này qua ngày khác mà kết quả chẳng có gì. Chính sự hiểu sai Phật pháp mà quý vị tốn rất nhiều công sức tu tập, nhưng xét lại chẳng có lợi ích gì cho bản thân, mà còn xa lìa Phật pháp, vì thế tu mãi mà không tìm thấy GIẢI THOÁT.
Có những người tu tập nhiều năm, gần như suốt cả cuộc đời, thế mà vừa nghe bạn đồng tu gõ cửa và nói rằng: “Con khuyên thầy đứng dậy đi đi!”; vừa nghe lời khuyên nhủ của bạn đồng tu, thay vì nói lời cảm ơn, nhưng ngược lại, thầy này nói: “Ngồi không được à?”. Nghe nói vậy, vị thầy đi kiểm tra liền bỏ đi.
Sau khi vị thầy đi kiểm tra quay lại, thì vị thầy kia ra giữa đường chặn lại và nói: “Thầy có nhìn thấy tôi ngủ gật bao giờ chưa? Nếu tôi ngủ gật, tôi sẽ rời khỏi Tu Viện ngay lập tức. Người ta đang ở trong định, mà thầy làm vậy là phá người ta, là xâm phạm nhân quyền. Tôi có thể ngồi 5 - 6 tiếng đồng hồ. Trưởng Lão cho phép tu trong 4 oai nghi. Thầy đi kiểm tra theo dõi tôi thế nào tôi biết hết”. Lúc bấy giờ, thầy đi kiểm tra nói: “Con thấy thầy mắt nhắm và gật”. Khi nói xong lời này, thấy mình không thể khuyên được vị thầy đó, nên thầy đi kiểm tra xá và nói: “Con xin sám hối thầy”. Khi đó, vị thầy kia mới đi vô thất.
Qua những sự đối đáp này, đã làm cho mọi người biết vị thầy đó tu hành không xả được tâm, mà ức chế tâm nên mới bộc phát cơn sân dữ dội như vậy. Thật đáng thương thay, bỏ hết cuộc đời để tu tập, mà giờ đây tâm tánh vẫn còn như người thế gian. Do thấy sự tu tập này, mà Thầy viết bức tâm thư gửi các con, để các con xét lại sự tu tập của mình, ngõ hầu sự tu tập của các con không còn sai lạc nữa.
Sự giải thoát của Phật pháp rất đơn giản, chỉ cần sống TỰ NHIÊNvới tâm BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC vàVÔ SỰ; sống mà không có sự tu tập gò bó thân tâm thì mới thấy sự giải thoát chân thật của đạo Phật. Còn ngược lại, dụng công tu tập làm gò bó thân tâm để tâm BẤT ĐỘNG, thì làm sao thấy sự GIẢI THOÁT. Phải không thưa quý vị?
Từ lâu mọi người hiểu sai Phật pháp, nên cố gắng tu tập, vì thế mà không có một vị sư, thầy nào làm chủ SINH,GIÀ,BỆNH,CHẾTnhư Phật.
Dù sử dụng trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi mà tâm vẫn tự nhiên như người NHÀN DU,VÔ SỰ; đó là người đã BUÔNG XẢsạch. Vì thế, họ không còn tu tập một pháp môn nào nữa cả...
Bởi vậy, người nào hiểu đúng Phật pháp là phải cảm nhận được tâm BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC vàVÔ SỰ. Nhờ có cảm nhận được tâm như vậy, nên họ đã trở thành CON TÊ NGƯU MỘT SỪNGluôn luôn sống MỘT MÌNH.
Ngược lại, người nào không cảm nhận được tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, thì nên theo pháp NHƯ LÝ TÁC Ýđể hằng ngày ngăn và diệt tất cả ác pháp, thì mới mong BUÔNG XẢtất cả các pháp thế gian, nhưng phải bền chí trong một thời gian dài.
Khi sống được với tâm BẤT ĐỘNG, thì ngũ triền cái và thất kiết sử không làm sao tác động được, vì thế, không cần phải tu tập pháp môn ly dục, ly ác pháp mà tâm vẫn tự ly dục, ly ác pháp. Như vậy, chỉ cần sống với tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là tâm đã XẢ SẠCH. Hiểu như vậy mới thấy Phật pháp rất nhiệm mầu.
Đối với BỆNH TẬTvà tất cả các ÁC PHÁP, khi gặp tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, nó đều lìa xa khỏi thân tâm ngay tức khắc. Như vậy, bệnh tật và tất cả các ác pháp không còn tác dụng vào thân tâm được nữa, đó là trạng thái Niết Bàn trong cuộc sống, chớ không phải đợi chết mới vào Niết Bàn. Vì thế, đức Phật dạy: “Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy!”.
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 31-5-2011
Kính gửi các con!
Người tu sĩ bị hôn trầm nhiều là người tu sĩ lười biếng, bởi Phật có dạy pháp đối trị tâm lười biếng đó, nhưng những người tu sĩ ngồi thiền gục tới gục lui, là do đã tập thành thói quen theo sự nhịp nhàng, an lạc của THÂN,TÂM, nên ý thức không biết thân đang gục. Vì thế, người gác thiền báo cho biết sự tu sai đó, thay vì hành giả nghe nói mình tu sai thì cố gắng sửa sai.
Người tu tập lâu năm vẫn tu sai pháp, gục là do tướng hôn trầm, thùy miên, vô ký cản lối. Khi tướng này hiện ra, nếu người tu sĩ không siêng năng phá nó bằng pháp môn THÂN HÀNH NIỆM, thì sự tu hành của họ sẽ hoài công, vô ích, và khi ngồi thiền có cảm nhận an lạc, là rơi vào trạng thái tưởng rồi cứ gục tới, gục lui.
Bất cứ người nào, từ cư sĩ đến tu sĩ, dù là chức vụ Thượng Tọa hay Hòa Thượng trong Giáo hội, về Tu Viện tu tập đều phải nghe lời người hướng dẫn chỉ dạy trong từng khu, để được kiểm nghiệm sự tu tập của quý vị. Trong Phật giáo có 3 pháp môn cơ bản cho người mới vào tu tập:
1- Sống HẠNH ĐỘC CƯ là phương pháp sống một mình. Khi vào Tu Viện xin tu tập, trong Tu Viện cấp cho một cái thất; khi nhận thất tu tập thì không đi sang thất khác nói chuyện, chỉ sống một mình trong thất, dù cha mẹ, anh chị em, bạn bè thân hữu tới thăm cũng không giao tiếp.
2- Pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý là một pháp môn ngồi chơi, khi tâm có niệm khởi thì liền tác ý... theo sự hướng dẫn. Ví dụ: “Tâm như cục đất, ly dục ly ác pháp đi”.
3- Pháp môn THÂN HÀNH NIỆM là pháp môn phá hôn trầm, thùy miên, vô ký. Người muốn tu tập phá hôn trầm, thùy miên, vô ký thì hãy siêng năng tu tập pháp môn này để phá sạch tâm si mê, và nên nhớ:
Không phải lúc nào cũng đi kinh hành, mà còn phải đi THÂN HÀNH NIỆM khi bị hôn trầm, thùy miên, vô ký; còn bao nhiêu giờ khác thì ngồi chơi như người vô sự, đừng tu tập pháp môn nào khác nữa.
Người siêng năng tu tập chuyên cần, không bao lâu sẽ đạt được kết quả giải thoát, vì pháp này là con đường tắt của Phật giáo do kinh nghiệm tu hành mà thầy truyền lại cho các con, vì biết mình trụ thế không còn bao lâu nữa. Vậy các con phải tinh cần, đừng bỏ phí thời gian.
“Tấc bóng thời gian, một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tấc bóng thời gian khó hỏi han”
Trong các con, người nào SỐNG MỘT MÌNH trọn vẹn THÂN, KHẨU, Ý từ 3 tháng đến 6 tháng, sẽ được Thầy trực tiếp hướng dẫn tu tập; còn sống chưa được thì được quý thầy cô hướng dẫn tu học từ cấp 1 đến cấp 8, theo đúng chương trình BÁT CHÁNH ĐẠO.
Sau cùng, Thầy có lời thăm và chúc các con có đầy đủ ý chí, nghị lực, quyết tâm tu hành tìm cầu sự giải thoát nơi chính mình, để trở thành những đệ tử ưu tú của Thầy.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Thư Trả Lời Các Câu Hỏi
Hỏi 1 (Câu hỏi của Tịnh Trí): Thầy kính mến! Từ khi tu tập thiền theo phương pháp Thầy hướng dẫn, mỗi lần đi ra đường con cảm thấy rất ngộp thở, cảm giác như là sắp tắt thở, và lúc nào cũng như là cần hơi thở lắm vậy. Có nhiều lúc con nghĩ là phải gọi xe đưa đi bịnh viện. Khi đi mua sắm với vợ thì con cảm thấy rất mệt, và phải nằm trong xe để bà xã con đi vô trong trước. Không biết là tại sao? Con bắt đầu ngồi thiền từ lúc 15 tuổi, và bây giờ là 40 tuổi, chưa bao giờ con bị trong trạng thái này. Lúc trước con ngồi thiền là ngồi theo phương thức Yoga, có nghĩa là con ngồi với trạng thái thả lỏng, không suy nghĩ gì.
Nhưng khi đọc phương pháp của Thầy, thì con có cảm giác là phương pháp của Thầy có một cái gì đó sáng suốt và làm cho mình tự chủ bản thân mình hơn, cho nên con quyết tâm hành theo phương pháp của Thầy. Nhưng con cứ bị rớt vào tình trạng này hoài. Con không làm việc và đi đâu được hết, cứ bước ra đường là bị ngộp thở, ngồi lái xe không cũng ngộp. Về nhà nằm nghỉ hoặc ngủ một giấc thì hết trạng thái bị ngộp, mà ngủ thì phải uống thuốc ngủ thì mới ngủ được, còn không để lâu không ngủ con sợ bị nguy hiểm. Có đôi lúc con tự nhủ: “Thôi, chết đi cũng được”. Con biết những cảm giác này là tạm thời; một là do cơ thể; hai là do tâm mình, nhưng lại không biết trị bằng cách nào. Xin Thầy chỉ điểm!
Thường thì khi ngủ dậy là con bắt đầu ngồi thiền; đây là thói quen từ xưa đến nay. Thiền giúp con trong công việc nhiều lắm. Thường con ngồi thiền đến khi nào thấy mỏi thì con ngưng; con không biết thời gian là bao lâu.
Khi ngồi thiền từ xưa tới nay con hay nhắm mắt ngồi thiền, như vậy có đúng không thưa Thầy?
Con hiện giờ như là sống trong cõi địa ngục. Con vạn lần cầu xin Thầy cứu con! (Email tháng 11 năm 2009 - fongquach@yahoo.com)
Đáp: Những trường hợp xảy ra như ngộp thở, tức ngực, nặng đầu là tu lâu một pháp. Phật có 37 pháp tu tập từ thấp đến cao, chớ đâu có tu tập một pháp mà chứng đạo được.
Nhiếp tâm và an trú chỉ là giai đoạn mới tu. Khi nhiếp tâm chừng 30 phút thì thay đổi pháp.Do con tu một pháp hơi thở nên ngộp thở là phải.
Muốn hết ngộp thở thì đừng tu tập thiền nữa là hết.
Mục đích của đạo Phật là tâm không phiền não, giận hờn, ham muốn, chớ không có thiền định gì cả. Vì thế, đức Phật dạy ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện, chớ đâu có dạy chúng ta ngồi thiền nhập định. Ngồi thiền nhập định là các Tổ Trung Hoa dạy. Do dạy không đúng pháp, nên người sau tu tập thành bệnh.
Con muốn tu tập theo pháp Thầy thì ngồi chơi xem tâm mình có còn ham muốn, giận hời gì không? Nếu không thì đó là tâm bất động, còn có niệm THAM,SÂN,SIlà tâm còn động, còn các niệm khác ngoài tham, sân, si là tâm không động.
✿✿✿
Hỏi 2 (Câu hỏi của tu sinh): Kính thưa Thầy! Thầy dạy tu sinh chúng con tại Tu Viện Chơn Như tu tập giai đoạn 1 là tu tập nhiếp tâm và an trú tâm trên thân hành ngoại (đi Kinh Hành, đi Thân Hành Niệm), hoặc trên thân hành nội (19 đề mục Định Niệm Hơi Thở). Vậy thời gian tu tập bao lâu, và kết quả như thế nào mới xong giai đoạn 1? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp:Thời gian tu tập không phải lâu. Người nào dở thì tu tập tối đa là 3 tháng. Còn người giỏi chỉ cần 1 tuần lễ là tu tập xong giai đoạn 1. Nhưng làm sao biết người nào là giỏi; người nào là dở?
Người giỏi là khi nhiếp tâm thì tâm không phóng niệm này niệm kia lăng xăng. Còn khi tu tập nhiếp tâm mà cứ niệm này niệm kia lăng xăng thì người đó là dở.
✿✿✿
Hỏi 3 (Câu hỏi của tu sinh):Đối với phật tử tu tập tại gia, hoặc tu sĩ còn tiếp duyên, chưa độc cư chuyên tu miên mật thì tu tập các pháp trú tâm, gom tâm trên thân hành của giai đoạn 1 này trong thời gian bao lâu? Kính xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Trong các pháp tu tập nhiếp tâm, an trú tâm của giai đoạn 1, có pháp Định Niệm Hơi Thở thì các con phải hết sức thận trọng. Nó là pháp tu tập trên thân hành nội, nên rất nguy hiểm nếu tu tập không đúng. Nếu các con không ở tại Tu Viện Chơn Như, thì tốt nhất không nên tu tập hơi thở, vì không có vị thầy hướng dẫn, kiểm tra sự tu tập của các con.
Đối với các pháp tu tập trên thân hành ngoại như đi Kinh Hành hay đi Thân Hành Niệm, các con cũng chỉ nên tu tập tối đa là 6 tháng, không nên tu tập kéo dài thời gian cả năm. Nhất là tu tập một pháp trong nhiều năm là sai, là dính mắc vào pháp tu. Tu như vậy rất dễ lọt vào tưởng nên rất khó tiến tu sau này.
Các con nên nhớ, chỉ tu tập nhiếp tâm và an trú tâm kéo dài nhiều nhất là 6 tháng, đối với người phật tử tại gia. Thay vì người chuyên tu họ tu tập một ngày 4 thời; mỗi thời tu tập 3 tiếng, thì người tu tập tại gia nên thu xếp mỗi ngày tu tập 1 hoặc 2 thời; mỗi thời tu tập từ 30 phút đến 1 tiếng, không nên tu nhiều.
Các con nếu muốn tu tập làm chủ được các nỗi khổ đau trên thân tâm thì phải tu tập có căn bản giai đoạn 1 của người cư sĩ. Còn nếu các con tu tập cho lấy có, tu thử hay tu chơi thì chỉ uổng phí công sức và thời gian mà thôi.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Gửi Quý Tu Sinh
Nếu là trường học thì phải có kỷ luật rõ ràng, nghiêm túc.
Nếu về Tu Viện chỉ để hỏi pháp hoặc thọ Bát Quan Trai thì phải có thời gian nhất định, cụ thể rõ ràng.
Còn về tu học thì phải chấp hành đúng Thanh Quy; có như vậy thì kết quả tu học mới có chất lượng, không uổng công người chỉ dạy để cho mọi việc được tốt đẹp.
Nếu Thầy không chấn chỉnh Tăng đoàn và Cư sĩ đoàn, thì không biết chừng nào có người chứng đạo. Tu sĩ mà sống thiếu giới luật đức hạnh, oai nghi chánh hạnh không có thì tu tập được cái gì?
Cho nên, THỜI KHÓA TU TẬP TRONG THỜI ĐỨC PHẬT và tập THANH QUY TU VIỆN CHƠN NHƯ được nhuận lại trong lúc này, là để đưa ra kịp thời và gạt bỏ những người không có ý chí quyết tâm tu tập giải thoát, thường phá hạnh độc cư. Mình đã tu tập không được, lại còn lôi thêm một số người khác cũng tu tập không được; thật là xót xa!
Từ lâu, Thầy cứ nghĩ rằng mọi người khi vào Tu Viện là quyết chí tu tập cho đến khi giải thoát, nhưng nào ngờ, nghiệp lực thói quen lâu đời, nên quá khó khăn buông bỏ cái ăn, cái ngủ, cái nói chuyện, v.v... nên sống độc cư chịu không nổi.
Nhập thất mà ra, vào như vậy là nhập thất để có tiếng là nhập thất tu hành, chớ có tu hành được những gì đâu. Tâm chưa xả sạch chướng ngại pháp mà vào thất là chưa thông hiểu phương pháp tu hành.
Muốn nhập thất tu hành là để đi đến làm chủ SANH,GIÀ,BỆNH và CHẾT, thì phải có người trắc nghiệm xem mình tu tập tâm Tỉnh Thức đến mức độ nào thì mới được vào thất tu tập, chớ không phải muốn vào thất thì vào.
Khi nhập thất tu tập thì người tu sĩ giới luật không còn vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào, những oai nghi chánh hạnh phải được tròn đủ, hạnh độc cư phải nghiêm chỉnh không đi nói chuyện bất cứ một ai cả. Nếu tu tập giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, hằng ngày sống đúng những oai nghi chánh hạnh, ăn uống tiết độ không phi thời, thường đi kinh hành nhưng lại xả tâm theo pháp TỨ CHÁNH CẦN thường ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, luôn luôn giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự; những người tu tập đúng như vậy thì không bao giờ nhập các định tưởng và bị các pháp tưởng. Họ sẽ thực hiện đúng tâm vô lậu và đầy đủ Tam Minh.
Còn nếu họ không giữ gìn giới luật đức hạnh nghiêm chỉnh, không phòng hộ 6 căn, thì dù có tu tập pháp nào đi nữa họ cũng sẽ rơi vào các pháp tưởng. Nhất là cũng dễ nhận ra người bị nhập vào tưởng pháp, vì họ nói nhiều.
Sau cùng, thầy có lời thăm và chúc các con có đầy đủ ý chí, nghị lực, quyết tâm tu hành tìm cầu sự giải thoát nơi chính mình, để trở thành những đệ tử ưu tú của Thầy.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Tâm Thư Gửi Quý Tu Sinh
Kính gửi tu sĩ và cư sĩ! Kính thưa quý vị! Có hai điều Thầy xin nhắc nhở quý vị.
· Điều thứ nhất:
Tu tập theo Phật giáo vốn là làm vệ sinh tâm mình, cho nên Phật dạy là LY DỤC,LY ÁC PHÁP, chớ không phải ức chế ý thức, làm cho nó tê liệt không khởi niệm như các nhà sư Đại thừa và các nhà sư Đông Độ Trung Quốc.
Vệ sinh tâm mình mà đời sống của quý vị không vệ sinh, xung quanh chỗ quý vị cư ngụ như đống rác không hề quét dọn một chổi; bên ngoài chỗ ở không làm vệ sinh thì bên trong tâm của quý vị làm vệ sinh cái gì?
Nhìn bên ngoài đời sống mà biết được sự tu tập sai đúng của quý vị; tu làm Phật, không lẽ Phật ở bẩn thỉu vậy sao? Nhìn chỗ quý vị ở tu là biết ngay quý vị có tu được không.
Xin quý vị cần lưu ý: đây là điều thứ nhất.
· Điều thứ hai:
Tu hành có phải là làm một việc gì lén lút mà phải đóng cửa kín mít? Tu hành là một việc làm quang minh chánh đại, chớ đâu phải phòng the của đôi tân hôn mà che màn giăng lưới.
Tu như vậy có ích lợi gì? Quý vị hãy bỏ dẹp đi, còn nếu không bỏ dẹp được thì nên về giúp cha mẹ, quét nhà, nấu cơm cho con, cho cháu còn có ích lợi cho đời; chớ tu như vậy chẳng đi đến đâu cả, mà còn mang nợ đàn na thí chủ; mà còn mang tiếng trốn tránh lao động, làm ký sinh trùng ăn bám xã hội.
Tu là làm vệ sinh tâm như trên đã nói, vậy làm vệ sinh tâm như thế nào?
Khi trong tâm quý vị có cọng rác bẩn nào thì quét nó đi, quét đi thì tâm quý vị sẽ không còn rác bẩn nữa, và như vậy gọi là làm vệ sinh; còn không có rác bẩn thì thôi, cớ sao lại cứ quét mãi, như vậy quý vị có phải là người khùng không?
Tu là làm cho thân tâm mình không bị ô nhiễm thêm vật chất cuộc đời, cớ sao quý vị để thân tâm mình ô nhiễm gạo lức muối mè, hay bất cứ điều gì khác? Có gạo lức muối mè thì không đau nhức, không gạo lức muối mè thì thân đau nhức, như vậy đau nhức là vì gạo lức muối mè, chớ đâu phải thân quý vị đau nhức; quý vị đã bị nhiễm gạo lức muối mè. Muối mè đâu phải chỉ là vật duy nhất bổ dưỡng; người ta khéo đặt ra làm cho tư tưởng quý vị bị ảnh hưởng gạo lức muối mè. Những kiến thức gạo lức muối mè như vậy là những kiến thức làm mê hoặc lòng người. Giải thoát của đạo Phật là buông xuống hết, cớ sao lại thêm vào gạo lức muối mè?
Giải thoát của Phật giáo rất là đơn giản, đâu có gì cầu kỳ khó khăn, đâu có gì ngoài cuộc sống của con người? Họ cũng ăn, cũng làm việc bình thường. Nhưng họ khác hơn người thường là luôn luôn lúc nào cũng làm chủ tâm mình; vì thế đời sống của họ vui vẻ, an lạc; không có một việc gì làm cho họ buồn phiền, giận hờn hay cay cú.
Người nào có duyên, sáng nghe Phật thuyết thì chiều đã hoàn toàn giải thoát, chớ có tu tập cái gì nhiều đâu; chỉ cần buông xuống, không hơn thua ai cả là giải thoát. Cho nên đạo Phật duy nhất chỉ biết LY DỤC,LY ÁC PHÁPlà giải thoát ngay liền.
Xin quý vị cần lưu ý: đây là điều thứ hai.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Hỏi 1: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được biết, về việc trao Y Bát như thế nào.
Đáp: Đọc hết trong tạng kinh Nikya, không thấy chỗ nào đức Phật trao Y Bát và chỉ định người thừa kế Phật làm Tổ thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, v.v... Lúc sắp Niết Bàn, Phật dạy các đệ tử: “Này các tỳ kheo, hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành; đừng lấy ai làm Thầy, làm chỗ nương tựa, mà phải tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi”. Việc TRUYỀN TRAO Y BÁTtrong kinh sách Đại thừa là do các Tổ dựng lên câu chuyện NIÊM HOAtrên núi Linh Thứu, Tổ Ca Diếp mỉm cười. Câu chuyện này trong kinh Pháp Hoa để tạo nguyên nhân sản xuất ra cuốn sử 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa, lấy YBÁT(vật hữu hình) làm ẤN CHỨNG, tạo niềm tin cho tín đồ với mục đích TRUYỀN TÂM ẤN (vật vô hình).
✿✿✿
Hỏi 2: Đức Phật khi còn tại thế, có trao y bát cho các đệ tử và truyền tâm ấn không?
Đáp: Không! Y bát là những vật dụng tầm thường trong đời sống hằng ngày, đâu có gì quan trọng trong việc tu hành, nhất là giới luật đức hạnh nhân bản - nhân quả lại không cho phép tu sinh dính mắc vào những vật dụng thuộc về pháp hữu vi. Vả lại, Phật giáo có cái nhìn như thật, nên các pháp hữu vi đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta cả. Cho nên, việc trao y bát và truyền tâm ấn là một việc bịa đặt của người sau. Chúng ta là những người tu theo bốn chân lý của Phật giáo, thì không nên tin vào những điều ảo tưởng, mơ hồ không thật, trừu tượng ấy.
✿✿✿
Hỏi 3: Y bát còn có ý nghĩa gì cao siêu mà con chưa hiểu, xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con.
Đáp: Y là những vật dụng dùng để mặc cho kín thân, và bát là vật dụng dùng để ăn uống hằng ngày do phật tử cúng dường. Khi y rách hay bát bể, thì phật tử cúng dường thay cái khác. Cho nên, những vật dụng tầm thường như vậy không có gì là cao siêu và thần thông cả. Các tăng sinh nên hiểu: “Đạo Phật là đạo như thật đạo của con người, cho nên nó không có gì là cao siêu huyền bí cả. Nó chỉ cho con người biết đâu là đạo đức của con người, để làm con người sống thật là con người; và đâu không phải là đạo đức con người, để mọi người biết đó là con thú vật mang hình người”. Nhờ biết sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh, nên con người sống được bình an, yên vui và hạnh phúc hơn các loài động vật khác. Ngược lại, con thú vật sống trong khổ đau và thường tranh đấu làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh...
Đạo Phật là đạo như thật, nên những gì cao siêu, thần thông hoặc nói về thế giới siêu hình thì không phải là của Phật giáo, mà của các tôn giáo khác. Bởi những tôn giáo xây dựng trên thế giới siêu hình là không phải tôn giáo của con người; nó là tôn giáo của thần tiên, của thế giới ảo tưởng. Những người đầu óc giàu tưởng tượng như các nhà Đại thừa và Thiền tông, mới biến chiếc y thượng của Tổ phủ trùm một khu đất rộng lớn cò bay thẳng cánh, và cái bát dùng thọ thực hằng ngày thu hết cả dòng họ Thích của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vào mà không chật. Đó là một ảo tưởng tuyệt vời của các Tổ ngày xưa huyền thoại dựng nên.
✿✿✿
Hỏi 4: Tổ đường có phải là Giảng đường hay không? 100 giới chúng học có giới 67 cấm không thọ thực trên Giảng đường. Vậy Tăng đoàn thọ thực trong Giảng đường có phạm giới hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Một ngôi chùa nào cũng đều có những nơi thờ riêng biệt:
1. Nơi thờ tượng Phật ngồi thiền dưới cội bồ đề gọi là ĐIỆN PHẬT, còn gọi là ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN.
2. Nơi thờ tượng Phật khổ hạnh trên núi Tuyết gọi là TỔ ĐƯỜNG.
3. Nơi thờ tượng Phật thọ trai gọi là TRAI ĐƯỜNG.
4. Nơi thờ tượng Phật đang thuyết giảng kinh Tứ Diệu Đế cho năm anh em Kiều Trần Như, gọi là GIẢNG ĐƯỜNG.
Ở đây, Tu Viện không có Giảng đường, không có Trai đường, chỉ có điện Phật và Tổ đường, vì thế, tu sinh mượn Tổ đường làm Giảng đường để học hỏi triển khai tri kiến giải thoát; mượn Tổ đường làm Trai đường để học hỏi triển khai oai nghi tế hạnh về ăn uống, có ngày có giờ định kỳ, chứ không phải lúc nào, ngày nào cũng ăn ngả, nằm ngồi trên Tổ đường, thì các con lấy giới luật ra hỏi. Ở đây, mượn Tổ đường để học tập ăn uống, chứ không phải lấy Tổ đường làm chỗ ăn uống. Chỗ ăn uống của tu sinh nơi gốc cây, bóng mát, nơi khe suối, trong am thất của tu sinh, v.v... Cho nên, mượn Tổ đường học tập thọ trai thì không có lỗi gì cả. Và đó cũng là nói lên được sự tiết kiệm tiền của đàn na thí chủ, không xây cất nhiều nhà cửa; thay vì cất Trai đường, thì nên cất thất cho tu sinh ở để che mưa nắng, lợi ích nhiều hơn. Phải không quý vị?
✿✿✿
Hỏi 5: Bát dùng để ăn cơm có phải là Bát Chánh Đạo không?
Đáp: Không! Bát là một vật dụng dùng để ăn cơm, uống nước thì làm sao là Bát Chánh Đạo được. Bát Chánh Đạo là một chương trình giáo dục đào tạo con người từ phàm phu, tu hành chứng quả vô lậu A La Hán, thì có liên hệ gì với vật dụng dùng để ăn uống đâu. Tội nghiệp thay cho những người giàu tưởng tượng, lấy bát ăn cơm mà gọi là Bát Chánh Đạo! Tội nghiệp thay, họ không hiểu Bát Chánh Đạo là gì. Chỗ này đáng thương, mong rằng họ sẽ không lầm lạc nữa.
✿✿✿
Hỏi 6: Chẳng may làm vỡ mất bát, thì con đường Bát Chánh Đạo có mất theo không? Người tu sĩ làm vỡ bát, có còn tu theo đạo giải thoát của Phật được nữa không?
Đáp: Bát vỡ là một việc tự nhiên, vì các pháp hữu vi thì hữu hoại. Trong cuộc đời tu hành của Phật có biết bao lần bể bát, vậy mà Phật vẫn tu chứng quả giải thoát và dạy người Bát Chánh Đạo, và Thầy cũng bao lần bể bát, mà vẫn triển khai Bát Chánh Đạo dạy các tu sinh tu học. Vậy bát vỡ có mất Bát Chánh Đạo chỗ nào đâu? Cho nên các pháp đều vô thường, bể bát là một việc quá tầm thường trong các pháp thế gian, còn Bát Chánh Đạo là pháp xuất thế gian, đâu nên lấy pháp thế gian so sánh với pháp xuất thế gian. Con hỏi câu này có ý nghĩa gì?
✿✿✿
Hỏi 7: Khi thọ thực có được uống nước không? Khi thọ thực uống nước có phạm giới không?
Đáp: Không có giới luật nào cấm uống nước trong khi ăn. Vậy các tu sinh khi ăn cần uống nước, hay uống nước canh là một việc sinh hoạt bình thường, không có phạm vào những oai nghi đức hạnh và giới luật nào hết. Chỉ khi nào ăn cơm mà uống rượu thì phạm giới.
✿✿✿
Hỏi 8: Câu kinh: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”; câu này có phải Phật thuyết hay không?
Đáp: Câu “Ưng Vô Sở trụ nhi sinh kỳ tâm” này trong kinh KIM CANG. Kinh Kim Cang thuộc về kinh sách Đại thừa. Kinh này do các Tổ thuyết và biên soạn. Phật không có thuyết kinh này. Kinh này là kinh tưởng, không phải là kinh dạy tu tập giải thoát chuyển đổi nhân quả, làm chủ sinh tử luân hồi. Chúng ta theo Phật giáo không nên tu theo kinh sách Bà La Môn, loại kinh sách này sẽ làm mất hạt giống lành trong Phật giáo.
Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, đó là dạy chúng ta diệt ý thức, mà diệt ý thức thì chúng ta trở thành đời sống thực vật, chứ có giải thoát được những gì? Cho nên kinh này dạy chúng ta tu hành để trở thành gốc cây, cục đá, v.v... Tu hành để trở thành cục đá, gốc cây vô phân biệt như vậy, thì tu hành có ích lợi gì? Chúng ta hãy suy ngẫm cho kỹ, kẻo uổng phí một đời người.
✿✿✿
Hỏi 9: Câu chuyện Thất Chơn Nhân Quả của Trung Hoa như thế nào?
Đáp: Câu chuyện Thất Chơn Nhân Quả là câu chuyện huyền thoại của Tiên đạo, nói chuyện tu đắc đạo của pháp vô vi. Nó đâu có liên hệ gì đến pháp môn tu hành của Phật giáo, tại sao con hỏi nó làm gì? Giáo pháp này không phải là nền đạo đức nhân bản - nhân quả, thì nó có ích lợi gì cho các con?
Các con đừng mơ mộng hão huyền theo Tiên đạo, các con tu tập sẽ được những gì với pháp môn này? Nó sẽ mang lợi ích gì cho bản thân các con? Tu hành phải chọn đúng chánh pháp có lợi ích thiết thực cho bản thân rồi mới tu, chứ nếu các con còn mơ mộng Tiên đạo, thì theo Phật giáo tu hành để làm gì? Hãy về đi mà tìm Tiên đạo tu hành.
Vì Tiên đạo là Tiên đạo, và Phật đạo là Phật đạo. Tiên đạo và Phật đạo không có liên hệ nhau chút nào cả. Tiên và Phật là hai ngả đường không thể đi chung với nhau được. Các con đừng nghe theo các nhà hòa đồng tôn giáo như Thông Thiên Học, tu Tiên rồi mới tu Phật, có nghĩa Tiên thấp hơn Phật. Hiểu Phật giáo và Lão giáo như vậy là không hiểu gì cả. Thiền sư Vạn Hạnh là một nhà sư Đại thừa, lấy ba tôn giáo Nho, Lão, Phật phối hợp lại, thành một tôn giáo Việt Nam. Trong bài kệ của Ngài có câu: “VẠN HẠNH DUNG TAM TẾ”. Như vậy, chứng tỏ Thiền sư chưa nắm vững nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo, chưa biết Phật giáo có một giáo lý đạo đức chân thật của loài người, nên Ngài đã biến Phật giáo thành một tôn giáo có nền giáo lý cao siêu, theo kiểu Đại thừa thần giáo.
Theo Thầy hiểu: Nhân đạo (Nho giáo), Tiên đạo (Lão giáo), Phật đạo (Phật giáo) là ba tôn giáo này không thể sắp xếp theo thứ bậc từ thấp lên cao. Mỗi tôn giáo có một ý nghĩa riêng, một đạo đức riêng, nhằm giáo dục và xây dựng con người với mục đích độc lập riêng: như Nho giáo để phục vụ cho chế độ cai trị phong kiến; như Lão giáo phục vụ cho cá nhân tiêu cực yếm thế; như Phật giáo phục vụ cho nhân loại. Xem qua giáo lý đạo đức của ba tôn giáo này với mục đích phục vụ khác nhau, nên không bao giờ giống nhau được.
Nhân đạo (Nho giáo) dạy con người tề gia, trị nước, bình thiên hạ. Giáo lý và đạo đức Nho giáo phục vụ cho chế độ quan, vua. Còn Tiên đạo dạy con người tu tập pháp vô vi yếm thế tiêu cực, bỏ đời, sống trong rừng trong núi tiêu dao ích kỷ, chỉ lo cho cá nhân của mình, còn loài người ra sao cũng mặc. Ngược lại, đạo Phật dạy người tu học đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, là để mọi người LÀM LỢI ÍCH CHO NHAU, và mỗi người ai cũng làm chủ sự sống chết của mình và chấm dứt sự luân hồi tái sinh.
Ba tôn giáo không có một mục đích chung, nên làm sao mà dung hợp được. Phật giáo vì loài người; Lão giáo vì cá nhân; Khổng giáo vì giai cấp thống trị. Vì thế, chúng ta học Phật là muốn làm chủ những sự khổ đau trên thân tâm của mình, chứ không phải học Phật để làm Tiên, làm Phật, v.v...
✿✿✿
Hỏi 10: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ cách lạy lễ như thế nào đúng, và như thế nào sai?
Đáp: Lạy đứng, lạy ngồi, lạy quỳ đều được cả. Tất cả những lạy lễ này đều do đạo Bà La Môn và đạo Nho. Còn Phật giáo chỉ lạy lễ như thế nào mà mang đầy đủ ý nghĩa tôn kính là được.
Mỗi dân tộc trên hành tinh này đều có nghi lễ tôn kính khác nhau, khi chào hỏi bằng cách chấp tay cúi đầu chào, bằng cách khoanh tay cúi đầu chào, bằng cách ôm nhau hôn, bằng cách hai tay nắm nhau, v.v... Khi lạy lễ cũng vậy, đứng lạy, quỳ lạy, ngồi lạy và nằm lạy, v.v... Riêng ngồi cũng có nhiều cách ngồi, như ngồi theo người Nhật Bản, người phụ nữ Việt Nam, người Trung Hoa, người Ấn Độ, v.v...
Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa theo Nho giáo, nên lạy đứng; chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ theo Bà La Môn giáo, nên lạy quỳ, lạy ngồi, lạy nằm. Đối với Phật giáo, lạy đứng, lạy ngồi hay lạy quỳ, lạy nằm đều là hành động tôn kính lễ nghĩa, không có gì phải dạy thêm. Đạo Phật không có vẽ vời cách lạy riêng biệt; đạo Phật quan trọng là chỗ sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Cho nên chúng Tăng lạy lễ như thế nào cũng tốt, nhưng khi sống trong Tăng đoàn thì phải lạy lễ cho giống nhau, đừng người lạy cách này, người lạy cách khác thì trong Tăng đoàn khó coi.
Ví dụ: Lạy đứng thì phải lạy đứng hết, còn quỳ lạy thì phải quỳ lạy hết, còn ngồi lạy thì ngồi lạy hết, hay nằm cũng vậy, phải lạy giống nhau. Lạy như vậy mới gọi là Tăng đoàn hòa hợp chúng.
✿✿✿
Hỏi 11: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ, thế nào là “Nhị nguyên”?
Đáp: NHỊ NGUYÊN và NHẤT NGUYÊNlà ảnh hưởng giáo lý Đại thừa, pháp môn BẤT NHỊ thuộc kinh Duy Ma Cật. Chúng ta tu hành theo Phật giáo là phải sống như thật, vì đạo Phật là đạo như thật của loài người; nó không bao giờ dùng triết lý bất nhị. Cho nên đạo Phật là đạo chân lý, đạo sự thật, chứ không phải là đạo triết lý. Đạo triết lý là ngoại đạo, chỉ những người chưa thông suốt Phật giáo nên mới đem triết lý Bất Nhị mà áp dụng trong Phật giáo. Đó là một điều hết sức làm sai lạc. Bởi vì mọi người ai ai cũng sống trong NHỊ NGUYÊN, chứ chưa có mấy ai sống trong NHẤT NGUYÊNbao giờ. Đó là một triết lý ảo tưởng, do các nhà Đại thừa dựng lên để tranh luận hơn thua, bài bác giáo lý của hệ phái khác hay của các tôn giáo khác. Bây giờ các con thưa hỏi nó, để dùng bài bác người khác phải không? Đạo Phật không chấp nhận tranh luận hơn thua, bài bác nhau, dùng triết lý BẤT NHỊbài bác nhau thì xấu lắm các con ạ! Đó là lối sống không thật với chính mình, vì mình có sống được với NHẤT NGUYÊNbao giờ chưa, mà đem NHẤT NGUYÊNbài bác người khác là NHỊ NGUYÊN.
Ngày xưa, trong thời đức Phật còn tại thế, chúng tỳ kheo vấn chiếc y NHỊ NGUYÊN nhiều nhất, vì vải đi xin nhiều màu, chứ đâu có một màu như chúng ta bây giờ. Cho nên, dùng Nhất Nguyên để chỉ trích người khác Nhị Nguyên thì không nên, vì khi chúng ta khởi tâm phân biệt thấy hai màu, là chúng ta đã ở Nhị Nguyên rồi. Đã ở Nhị Nguyên còn nói ai Nhị Nguyên được sao? Phải không các con?
Còn không khởi tâm phân biệt, thì chúng ta chẳng khác gì gốc cây, cục đá. Tu để trở thành gốc cây, cục đá thì giải thoát hay sao?
Cho nên, Nhị Nguyên chỉ là một thứ triết lý để tranh luận hơn thua, chứ chẳng có lợi ích thiết thực gì cả.
✿✿✿
Hỏi 12:Kính bạch Thầy, tu sinh có duyên đi ra ngoài, có được vấn y thượng, mang dép không?
Đáp:Được, nếu không mang dép, đi chân trần trên đường tráng nhựa thì chân sẽ bị phòng dộp. Vả lại, trong giới luật của Phật không có cấm mang dép, mà chỉ cấm mang dép đi vào nơi Giảng đường, điện thờ Phật, nơi tháp thờ Phật. Trong 100 giới chúng học, Phật cho mang dép chớ không có cấm. Vậy vấn y thượng, mang dép là có tri kiến minh mẫn, vì thời đại chúng ta đi ra đường là đường cao ráo tráng nhựa, không như ngày xưa trong thời đức Phật đi đường đất lầy lội, thế mà Phật còn không có cấm mang dép, thì ngày nay tại sao lại có giới luật cấm mang dép là sao? Vị Tổ nào cấm? Nếu vị Tổ nào cấm, tức là vị Tổ đó không thức thời, không có đủ tri kiến minh mẫn. Vậy làm Thầy, Tổ mà không sáng suốt thì rất tội nghiệp. Các sư bên Nam tông nguyên thủy đi đâu thì mang theo dù, khi nắng khi mưa đều có dù che. Cho nên, đạo Phật không chủ trương đầu trần, chân đất.
✿✿✿
Hỏi 13:Kính thưa Thầy, Khi mặc y thượng đại tiểu tiện như thế nào, lúc ở trong tu viện cũng như khi đi ra ngoài?
Đáp:Trong giới luật dạy về oai nghi đi đại, tiểu tiện thì phải cởi y thượng ra, xếp lại bỏ vào túi bát, chỉ còn mặc y trung và y hạ mới đại, tiểu tiện, dù ở trong tu viện cũng như ra ngoài tu viện, hoặc trên đường di chuyển đều phải cởi y thượng ra. Mặc y thượng mà đại tiểu tiện thì bất tiện mà còn phạm giới về oai nghi tế hạnh.
Khạc nhổ, đại tiểu tiện phải trong phòng vệ sinh, không được khạc nhổ, đại tiểu tiện bên ngoài, trong ao hồ, trên cỏ, nếu khạc nhổ, đại tiểu tiện bên ngoài, trong ao hồ, trên cỏ thì phạm giới. Nếu khạc nhổ, đại tiểu tiện bên ngoài, trong ao hồ, trên cỏ thì phải chọn nơi kín đáo, rồi đào một cái lỗ nhỏ, để khạc nhổ hay đại tiểu tiện rồi lấp lại thì không phạm giới, còn tiêu tiểu xung quanh thất mình mà không vào phòng vệ sinh và không đào lỗ là phạm giới, là người thiếu đức vệ sinh môi trường sống, là không xứng đáng đoàn viên của Tu Viện Chơn Như.
✿✿✿
Hỏi 14:Kính thưa Thầy! Khi tu sinh đã thọ thực xong, bát đã đậy nắp, lại có người cúng dường thêm bánh, trái cây có được ăn nữa không?
Đáp:Không, khi đã ăn xong uống nước rồi mà còn ăn nữa là tham ăn, người ngoài đời người ta còn không ăn như vậy, huống chi chúng ta là tu sĩ. Người tu sĩ đi tìm cầu sự giải thoát sao lại không làm chủ cái ăn, nếu ăn thêm được thì giới luật đâu có cấm. Người ăn thêm được xem là ăn hai lần; ăn hai lần thì phạm giới luật.
✿✿✿
Hỏi 15:Kính thưa Thầy! Người tu sĩ có thể dùng đũa gắp thức ăn được không?
Đáp:Được, không có giới luật nào cấm dùng đũa gắp thức ăn, như vậy, dùng muỗng, đũa, nĩa, v.v... không có phạm giới. Mỗi nước trên thế gian này về ăn uống có những hành động khác nhau như: Người Ấn Độ dùng tay bốc cơm ăn, giống như những đồng bào thiểu số sống trong rừng sâu, bộ lạc; người Việt Nam, người Trung Hoa dùng đũa ăn cơm; người Pháp dùng nĩa, dao, muỗng ăn cơm, v.v... Ăn uống như thế nào giữ gìn vệ sinh là tốt nhất.
Còn ăn uống đó là quyền tự do, ai muốn ăn cháo hỗn tạp thì trộn, còn ai không muốn ăn trộn thì cứ để tự nhiên rồi dùng đũa gắp mà ăn, không được phê bình nhau, vì trong giới luật Phật không có cấm ăn riêng loại cứng, loại mềm. Ai muốn ăn sao cũng được, nhưng ăn phải lưu ý: phải ăn trong chánh niệm tĩnh giác, ăn phải nhai chậm chạp, khoan thai nhẹ nhàng, không được ăn uống vội vàng hấp tấp; ăn để biết từng tâm niệm của mình còn dục hay đã hết dục.
Dùng đũa gắp thức ăn cũng là một phương pháp tu tập chánh niệm tĩnh giác. Bởi tu tập chánh niệm tĩnh giác là tu trong tất cả hành động cuộc sống của con người. Cho nên giới luật Phật không theo văn hóa phong tục của nước Ấn Độ, mà chỉ cấm những oai nghi tế hạnh thô tháo của con người.
✿✿✿
Hỏi 16:Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ cách thức ăn uống.
Đáp:Trong giới đức chánh niệm tĩnh giác, khi ăn uống phải chánh niệm tĩnh giác, nhẹ nhàng khoan thai trong mỗi hành động khi nhai, khi nuốt, khi gắp, khi múc thức ăn, không nên phát ra tiếng kêu, không nên khua bát, khua đũa.
Nói chung, tất cả những hành động từ khi đi khất thực, ôm bát như thế nào cho đúng oai nghi của người đi khất thực, khoan thai nhẹ nhàng, đừng có những hành động của người ăn xin đưa bát trước bụng, đứng trước cửa nhà người hoặc trước những gian hàng buôn bán, đó là sự bắt buộc người ta cúng dường giống như người ăn mày. Người khất sĩ không làm những hành động luồn cúi ăn xin cho được miếng ăn.
Về vấn đề ăn uống như thế nào cũng tốt, nhưng phải chánh niệm tĩnh giác trong từng hành động ăn, trong khi ăn phải nghiêm chỉnh, không được nói chuyện, cười đùa trong bữa ăn.
✿✿✿
Hỏi 17:Kính thưa Thầy, trước khi cúng thực phẩm chúng ta phải làm sao?
Đáp:Về phần cúng là tượng trưng cho lòng biết ơn của chúng ta đối với những người đã chết, còn riêng người chết thì đã tiếp tục tái sinh luân hồi, còn đâu mà ăn hay hưởng hơi thực phẩm của con người. Chúng ta có thân mới ăn uống để nuôi thân, còn họ đã mất thân thì ăn uống để làm gì?
Trước khi cúng dường những thực phẩm như bánh, trái cây, kẹo, mứt, chúng ta chỉ sắp lên khay hay nắp bát, ngay ngắn có thứ tự, để tỏ lòng thành kính biết ơn. Chỉ khi nào ăn chúng ta mới lột vỏ trái cây, lột giấy bánh mứt, còn nếu lột trước cũng không sao, nhưng phải giữ vệ sinh. Tùy tiện mỗi người khi ăn như thế nào cũng tốt, nếu đem bánh, mứt, kẹo, trái cây: cam, quít, bưởi, chuối, mít trộn chung trong cơm, canh, đồ chiên, đồ xào, đồ nấu để ăn cũng không sao, vì trong giới luật Phật không có cấm, ăn như thế nào cũng được. Cúng như thế nào cũng được, nhưng chúng ta phải giữ gìn đúng nề nếp văn hóa văn minh, đừng sống theo kiểu ăn lông ở lỗ thiếu vệ sinh của người tiền sử.
Đạo Phật lúc nào cũng hợp với thời đại, dù thời đại đó có văn minh đến đâu thì đạo Phật vẫn đi trước. Vì thế đạo Phật không bao giờ lỗi thời, chỉ có những người không hiểu đạo Phật là chân lý của loài người; không hiểu nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo mới thấy nó lỗi thời mà thôi. Vì thế, những oai nghi tế hạnh của Phật giáo cần phải học.
✿✿✿
Hỏi 18:Kính thưa Thầy, “THỌ BÁT” nghĩa là gì? Và ích lợi về việc Thọ Bát như thế nào?
Đáp:THỌ BÁT là ăn cơm trong bát, ăn theo hạnh của Phật, ăn theo hạnh của người khất sĩ. Thọ Bát có nghĩa muốn ăn một vật gì đều bỏ vào bát rồi mới dùng muỗng, đũa lấy thức ăn bỏ vào miệng rồi mới ăn, không được ăn những món ăn lấy ngoài bát, như lột chuối rồi cắn ăn, hoặc lấy bánh cầm nơi tay rồi đưa vào miệng ăn, ăn như vậy không được gọi là THỌ BÁT, cho nên, dù bánh, kẹo, mứt, trái cây đều được lột vỏ, giấy, lá rồi bỏ vào bát múc ăn.
Lợi ích về việc Thọ Bát là ăn uống rất cẩn thận, không giống như loài động vật, không ăn cào ăn cấu. Thọ Bát là ăn uống có oai nghi tế hạnh nhẹ nhàng, khoan thai, từ tốn, tĩnh giác, v.v... từ hành động bỏ thực phẩm loại cứng, loại mềm vào bát, rồi cũng nhẹ nhàng dùng muỗng múc ăn từ tốn một cách nghiêm trang chậm chạp. Thọ bát có nghĩa là ăn trong sự tu tập tĩnh giác xả tâm, chứ không phải ăn uống như người thế gian.
✿✿✿
Hỏi 19:Kính thưa Thầy! Ba muỗng cơm hòa chúng là sao?
Đáp:Trong đạo Phật có LỤC HÒA, chứ không có TAM HÒA. Vậy con nên hỏi sư Trưởng đoàn. Tam Hòa xuất phát từ hệ phái Khất sĩ, vậy các con nên hỏi để học thêm ba muỗng cơm hòa chúng. Trong kinh sách Phật không thấy Phật dạy.
✿✿✿
Hỏi 20:Kính bạch Thầy! Mỗi tháng có hai ngày cạo tóc, đó là giới luật của Phật hay là thường lệ cạo tóc như vậy thành thói quen, nếu lỡ không cạo có phạm lỗi gì không?
Đáp:Mỗi tháng có hai ngày cạo tóc không phải là “GIỚI LUẬT”, mà là “LỆ”, vì thế nếu quên không cạo tóc cũng không sao cả, nhưng khi sinh hoạt trong Tăng đoàn thì phải cạo tóc đúng kỳ để sự sinh hoạt có hình sắc hòa hợp. Ngày xưa sáu năm khổ hạnh Phật không có cạo tóc râu, còn Thầy những năm tháng quyết liệt tu hành nên không có thì giờ cạo tóc râu, khi chứng đạo xong về thăm Hòa thượng Thanh Từ thì ít ai nhận ra Thầy được.
✿✿✿
Hỏi 21:Một người tu sĩ có cất giữ tiền bạc để đi xe, tàu được hay không? Có người nói: Thầy hoan hỷ tùy thuận cho chư Tăng cất giữ tiền bạc.
Đáp:Không! Giới luật Phật đã cấm: “NGƯỜI TU SĨ KHÔNG NÊN CẤT GIỮ TIỀN BẠC”. Cất giữ tiền bạc là phạm giới. Người tu sĩ cất giữ tiền bạc không xứng đáng là đệ tử của Phật. Nói Thầy tùy thuận là không đúng, vì Thầy không tùy thuận về sự cất giữ tiền bạc, và cũng không phạt vạ bắt lỗi ai hết. Bởi đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện giữ giới luật, chứ không ai bắt buộc. Ai tu hành giữ gìn giới luật Phật nghiêm chỉnh thì được lợi ích cho họ, còn ai tu hành phạm giới thì tu hành chỉ phí công, chẳng có lợi ích gì mà còn làm hại Phật giáo. Giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì tu hành có lợi ích cho mình, làm rạng danh Phật pháp, chứ riêng Thầy có lợi ích gì. Cho nên Thầy không phạt vạ, chỉ nhắc nhở khuyên bảo; ai nghe cũng tốt, không nghe cũng tốt.
Hỏi 22:Hình ảnh ngồi thọ thực như thế nào?
Đáp: Theo bản đồ ngồi thọ thực dưới đây thì sẽ rõ:
TƯỢNG PHẬT | ||
Trưởng đoàn | Phó đoàn | |
Chúng tăng …... | Chúng tăng …... |
Trưởng đoàn ngồi đầu dãy chư Tăng bên tay trái; Phó đoàn ngồi đầu dãy chư Tăng bên tay phải.
✿✿✿
Hỏi 23: Tọa cụ dùng như thế nào?
Đáp: Tọa cụ là một miếng vải có chiều dài 2m; chiều ngang 0,8m dùng để trải ra để nằm; xếp đôi lại để ngồi thiền hoặc thọ thực. Thường chúng tăng dùng chiếc y thượng đã rách không dùng nữa nên bỏ ra, được vá may lại làm thành tọa cụ. Tọa cụ của Phật và chúng Thánh tăng ngày xưa là chiếc y thượng rách, dùng xếp lại để nằm hoặc ngồi, chứ không như tọa cụ của các sư Khất sĩ và các Thiền sư bây giờ, là một chiếc gối mềm hoặc một miếng vải có kích thước 45cm x 60cm dùng để ngồi thiền hay thọ thực.
Nếu chúng tăng dùng tọa cụ thì nên dùng một miếng vải cũ có chiều dài kích cỡ thước tấc như trên đã dạy, để thực hiện đời sống sống du tăng rày đây mai đó, lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà. Còn chiếc tọa cụ có kích thước 45cm x 60cm thì chỉ dùng để ngồi, nên không phù hợp.
Khi ông A Nan trả lời vua A Xà Thế về việc sử dụng y áo, tọa cụ và vải lau chân của chư tăng bằng chiếc y thượng, đã khiến cho nhà vua kính phục đức hạnh tiết kiệm của chúng Thánh tăng trong thời đức Phật. Người tu sĩ Phật giáo sử dụng những vật tùy thân càng ít càng tốt, càng thể hiện rõ nét HẠNH THIỂU DỤC TRI TÚC.
✿✿✿
Hỏi 24: Ngày họp Tăng đoàn và ngày thỉnh nguyện sự sinh hoạt ý nghĩa giống nhau. Tại sao vậy?
Đáp: NGÀY HỌP TĂNG ĐOÀN là để họp mặt học hỏi nhau những oai nghi tế hạnh còn thiếu sót. Nhất là về những bài học đức hạnh trong lớp chưa thông suốt, được nêu ra và trao đổi với nhau những ý nghĩa hay đẹp và những đức hạnh cao thượng để cùng nhau cùng sống, cùng thực hiện một đời sống thánh thiện.
NGÀY THỈNH NGUYỆN SÁM HỐI là ngày kiểm thảo những lỗi lầm sai trái, để cố gắng khắc phục sửa sai để trở thành người tu sĩ tốt; người tu sĩ chứng quả vô lậu. Cho nên hai ngày ấy nó có ý nghĩa khác nhau, đâu có giống nhau được.
Học tập đạo đức, sinh hoạt đoàn và thỉnh nguyện chỉ có một buổi trong ngày, còn nửa ngày mặc sức mà giặt y áo.
✿✿✿
Hỏi 25: Tất cả các tu sinh khi không hiểu một điều gì, hỏi thầy Giảng viên hoặc sư Trưởng đoàn không trả lời được, có được quyền viết thư hỏi Thầy không?
Đáp: Được, khi không hiểu một điều gì, quý tăng sinh được quyền viết thư thưa hỏi Thầy, được trình lên thầy Giảng viên hay sư Trưởng đoàn.
✿✿✿
Hỏi 26: Sư Trưởng đoàn có nhiệm vụ gì trong đoàn?
Đáp: Sư Trưởng đoàn có nhiệm vụ hướng dẫn những oai nghi tế hạnh trong giới luật Phật thuộc hệ phái Khất sĩ, và làm gương hạnh cho chúng tăng nương theo mà sống cho đúng oai nghi tế hạnh của Phật và chúng Thánh tăng ngày xưa. Vì giới luật Trưởng đoàn được giảng dạy cho đoàn viên.
Hỏi 27: Tu sĩ thỉnh nguyện sám hối mà cứ phạm lỗi mãi thì làm sao? Có phạt vạ gì không?
Đáp: Người tu sĩ phạm giới tuy thỉnh nguyện sám hối, hứa hẹn cố gắng sửa lỗi mà cứ lỗi nào tật nấy không sửa, thì người tu sĩ như vậy thiếu đức xấu hổ, không còn cách nào giúp họ được, chỉ còn cách khuyên họ về sống đời Cư sĩ, vì làm Tu sĩ như vậy sẽ là hình ảnh phỉ báng Phật pháp. Người không biết xấu hổ vì những lỗi lầm của mình là người không thể theo Phật giáo tu hành, vì đạo Phật là đạo ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện, cho nên người lầm lỗi là người làm khổ mình khổ người, là người làm ác. Làm ác mà không chịu sửa thì người ấy còn dùng vào đâu được nữa. Phải không các tăng sinh?
✿✿✿
Hỏi 28: Trong những buổi thỉnh nguyện sám hối, tăng sinh nào được thỉnh nguyện sám hối trước?
Đáp: Trong buổi thỉnh nguyện phát lồ sám hối, người Trưởng đoàn phát nguyện trước, kế người Phó đoàn và sau đó theo thứ tự tăng sinh; người nào ngồi trước thỉnh nguyện trước; người ngồi sau thỉnh nguyện sau.
✿✿✿
Hỏi 29: Nghi thức Thọ Trai theo sư Trưởng đoàn có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Nghi thức Thọ Trai nên làm theo sự hướng dẫn của sư Trưởng đoàn, vì sư Trưởng đoàn sẽ hướng dẫn theo đúng oai nghi tế hạnh nghi thức thọ trai của người Khất sĩ. Vậy các tăng sinh hãy làm theo gương hạnh của Trưởng đoàn.
Đến đây, Thầy xin thăm và chúc Tăng đoàn ngày càng lớn mạnh.
Thầy của các con
Thích Thông Lạc
✿✿✿
BỆNH THẦN KINH
1- Muốn nhận xét một người bình thường có bệnh tưởng hay không, thì nên xét qua giấc mộng, lòng tin của họ có thế giới siêu hình, đi ban đêm thường thấy ma, nằm ngủ bị mộc đè, ma đè, khi ngủ thường hay nói chuyện lảm nhảm trong miệng, v.v...
Các nhà ngoại cảm, đồng, bóng, cốt Cô, cốt Cậu và những người tâm sinh lý không bình thường, thiếu ý thức chủ động nên thường sống trong tưởng, cảm nhận người cõi âm đến sống với họ như vợ chồng (nam gọi là đàn bố, nữ gọi là đàn dưới).
2- Những người bệnh thần kinh đều là bệnh tưởng, vì thân tâm họ không bình thường (rối loạn thần kinh). Rối loạn thần kinh về tâm nhiều thì gọi là bệnh điên, ít thì gọi là “mát”; về thân nhiều thì tử vong, ít thì bán thân, miệng méo, quai hàm giựt, tay run, v.v... Những bệnh này đều do thần kinh không bình thường, nên thần kinh ý thức không còn hoạt động bình thường, không còn tự chủ điều khiển, nên được gọi chung là bệnh tưởng. Cho nên, một người chạy theo lòng ham muốn thường làm khổ mình, khổ người, không tự chủ được ý thức để tâm tham, sân, si sai khiến ý thức, thì người ấy gọi là người vô minh, người người ngu si. Còn những người thân tâm thường sống trong mơ mộng, ảo giác, hư tưởng, v.v... là những người bệnh tưởng. Đối với Phật giáo, những người này được xem họ là những người điên.
Ví dụ: Không có cõi Cực lạc, Thiên đàng, Niết bàn như thật, mà họ tưởng là có các cõi ấy như thật, nên thường sống trong hư tưởng, cầu về các cõi đó, đó là những người bệnh thần kinh (điên).
Không có thần thông thật, mà chỉ có năng lực do tâm thanh tịnh ly dục, ly ác của người xả tâm diệt ngã. Năng lực ấy dùng để làm chủ sự sống chết. Còn những người tu tập cầu mong có thần thông là những người bị bệnh tưởng. Vì thần thông đều do tưởng uẩn lưu xuất. Đó là những trò ảo thuật để lừa đảo người; để thực hiện tâm tham danh vĩ đại như cậu bé Ram Bahadur Bamjan người Ấn Độ ngồi thiền 6 tháng không ăn uống. Đó là một loại thiền tưởng của ngoại đạo, chứ Phật giáo không có những loại thiền này.
Thiền của Phật giáo không sống trong tưởng, nên thường đem lại lợi ích cho con người. Vì thiền của Phật giáo là thiền quán dùng để ly dục, ly ác pháp; dùng để cuộc sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Cho nên thiền Phật giáo là thiền như thật, chứ không phải là loại thiền tưởng như cậu bé nói trên đang nhập. Thiền như cậu bé này đang tu chẳng ích lợi gì cho ai cả. Càng tu tập, cậu bé này càng rơi vào bệnh tưởng (tưởng không ăn uống). Đó là một loại bệnh thiền, thiền “điên”.
3- Người bị bệnh rối loạn thần kinh thân, dù là bệnh nặng như bệnh bán thân vẫn tu tập pháp Như Lý Tác Ý và pháp Thân Hành Niệm bằng cách nương vào hơi thở, hoặc nương vào hành động đưa tay ra vào theo như lời Phật đã dạy: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”,hoặc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”.
Trước khi tác ý hai câu này, thì nên tác ý câu lệnh: “Thọ là pháp vô thường, cái bệnh bán thân này phải lìa khỏi thân ta”.
Trong khi tu tập như vậy thì phải sống đúng tám giới (Bát Quan Trai), thì bệnh sẽ bình phục lại như xưa, không còn bị bán thân, không còn bị méo miệng và không còn bị run tay nữa.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Hỏi 1: Muốn đắc đạo ngay trong kiếp sống này, thì cần phải hội đủ các yếu tố, điều kiện nhân duyên nào?
Đáp: Muốn đắc đạo ngay trong kiếp sống này, thì cần phải hội đủ các yếu tố, điều kiện nhân duyên như sau:
1. Phải có ý chí dũng mãnh;
2. Phải có nghị lực kiên cường;
3. Phải bền lòng, không nản chí trước những khó khăn;
4. Phải gan dạ, và nhất là phải có lòng tin nơi Phật, Pháp, Tăng tuyệt đối.
Khi hội đủ các yếu tố trên, dù có đứng trước cái chết con cũng không hề nao núng bỏ pháp, do đó, chỉ trong một kiếp này con đạt được đạo.
✿✿✿
Hỏi 2: Đắc đạo và đắc pháp có cùng nghĩa với nhau không?
Đáp:Đắc đạo khác với đắc pháp, vì đắc đạo là thành tựu sự giải thoát toàn diện, còn đắc pháp thì mới đạt được từng phần của đạo. Cho nên đắc đạo, đắc pháp không giống nhau.
Ví dụ: Con học xong chương trình Tiểu học thì phải thi tốt nghiệp Tiểu học. Khi tốt nghiệp Tiểu học xong, con phải thi vào Trung học. Khi tốt nghiệp Trung học xong, con phải thi vào Đại học. Khi tốt nghiệp xong Đại học thì con mới hoàn thành kiến thức của chương trình giáo dục.
Đắc pháp cũng giống như thi tốt nghiệp của mỗi cấp. Cho nên mới thi tốt nghiệp cấp Tiểu học mà cho rằng học hết chương trình giáo dục là sai, không đúng được. Do đó, đắc pháp không thể gọi là đắc đạo được.
Pháp của Phật có tám lớp: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; và gồm có ba cấp: Giới, Định, Tuệ. Cho nên, học và tu tập xong lớp Chánh kiến thì mới đắc pháp lớp Chánh kiến. Đắc pháp lớp Chánh kiến thì không thể gọi là đắc đạo được. Đến đây có lẽ con đã hiểu rõ rồi chớ?
✿✿✿
Hỏi 3: ĐắcSơ Quảcó giống Sơ Thiền không?
Đáp:Sơ Quả tức là Tu Đà Hoàn; Tu Đà Hoàn là quả Nhập Lưu; Nhập Lưu tức là vào dòng Thánh; vào dòng Thánh thì phải ly dục, ly ác pháp; mà đã ly dục, ly ác pháp thì nó tương đương với Sơ thiền. Cho nên kinh dạy:“Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc”. Vì vậ, Sơ Quả tức là Sơ Thiền.
Do tu tập Sơ Thiền mới đắc được Sơ Quả, ngoài Sơ Thiền thì không bao giờ có Sơ Quả. Trong Sơ Thiền có trạng thái Sơ Thiền Thiên. Đó là trạng thái ly dục ly ác pháp.
✿✿✿
Hỏi 4:Trong các tích chuyện của kho tàng chân lý (Dammapada), có nhắc đến một cô gái nọ trẻ đẹp, giàu có. Khi gặp Phật nghe pháp đắc Sơ Quả, mà cô đã có chồng và con.
Cũng một số gia đình gặp Phật, vợ hoặc chồng đều đắc quả như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, v.v... mà qua Thầy dạy tiến trình tu tập để đạt Thánh quả phải sống nghiêm chỉnh giới luật... Đặc biệt, phải đoạn trừ ái kiết sử và ngũ triền cái. Vậy những thành phần có gia đình mà đắc Thánh quả đó có mâu thuẫn với lộ trình tu tập không ạ?
Đáp:Trong các chuyện tích (tiền thân Đức Phật) người cư sĩ nghe pháp đắc Sơ Quả, đó là do sự kiết tập sai của các Tổ.
Người cư sĩ nghe pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh thì có, chứ không thể đắc Sơ Quả được. Vì Sơ Quả là quả Thánh, không thể nghe xong bài pháp mà thành Thánh được. Vì tập khí con người quá nhiều, phải nhiệt tâm, nhiệt quyết tu tập hết sức mình mới quét sạch tập khí nhiều đời, chứ không phải là một việc dễ làm như trong chuyện tích nói. Các bạn lấy kinh nghiệm tu tập của mình thì biết rất rõ. Cho nên không thể nào tin một điều nói không thực tế.
PHÁP NHÃN THANH TỊNHlà gì? Pháp nhãn thanh tịnh là một tên khác của CHÁNH KIẾN; chánh kiến tức là cái thấy biết không làm khổ mình, khổ người; có nghĩa là cái thấy biết nhẫn nhục và xả tâm. Ở đời, người ta nhẫn nhục bằng cách chịu đựng, chứ không phải nhẫn nhục bằng cách xả tâm để ly dục, ly ác pháp. Do thấu suốt lý lẽ cuộc đời, biết nhẫn nhục mà xả tâm, vì thế mới gọi là pháp nhãn thanh tịnh.
Người còn Ái Kiết Sử, Ngũ Triền Cái mà vào dòng Thánh thì làm sao vào được! Có tương ưng chỗ nào đâu mà vào.Khi đọc kinh đến đây, thì con nên tư duy suy nghĩ rằng: những bài kinh này không phải là kinh của Phật thuyết, mà là kinh của Ma thuyết.
✿✿✿
Hỏi 5:Thưa Thầy, các sư Nam tông dạy rằng: Nếu đắc Sơ Thiền (Tu Đà Hoàn) thì vẫn còn có gia đình chồng con, vợ con và được hưởng phước báo như chư Thiên, sung sướng đầy đủ, v.v... nhưng vẫn luân hồi tái sanh trong 7 kiếp, đến kiếp thứ 7 thì tu tập đắc quả A La Hán. Đúng thế không thưa Thầy?
Thưa Thầy tôn kính! Trôi lăn trong bao kiếp luân hồi, cũng như long đong, lao đao trong kiếp sống, nay được đến với Thầy, con tâm nguyện được thành tựu trên bước đường tu đạo. Đây là cơ hội và duyên lành của con.
Nhưng con vẫn cảm thấy duyên và động lực chưa có thể thúc đẩy con. Con rất cần sự gia lực nơi Thầy!
Đáp:con hãy tư duy, khi vào dòng Thánh thì làm sao còn DÂM DỤC được, mà vẫn còn có gia đình chồng con, vợ con được?
Còn DÂM DỤClà còn có chồng con, vợ con; còn có chồng con, vợ con là còn phàm phu; còn phàm phu thì chỉ có chứng quả HƯỚNG LƯU, nghĩa là mới hướng về Thánh quả, chứ chưa dự vào dòng Thánh (NHẬP LƯU) được.
Giảng như các sư Nam tông là giảng theo chữ nghĩa kiến tưởng giải của tà kiến ngoại đạo, không đúng nghĩa của Phật dạy.
Nếu nói Phật dạy: “Chứng quả Tu Đà Hoàn còn phải bảy kiếp nữa mới chứng quả A La Hán”, lời dạy này cũng có ý đúng, nhưng chúng ta phải hiểu: Nếu một người nhập vào dòng Thánh (Tu Đà Hoàn) mà cứ giữ tâm ở tại trạng thái ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền này, để thọ hưởng cảnh giới Sơ Thiền Thiên, mà không chịu tiến lên tu tập nữa để chứng quả A La Hán, thì trạng thái này chỉ kéo dài được 7 kiếp. Trong thời gian 7 kiếp ấy, tâm không bị lui sụt thì người ấy đủ năng lực Bảy Giác Chi để nhập Tam Thiền, Tứ Thiền và thể hiện Tam Minh, chứng quả A La Hán.
Câu này còn có nghĩa là một người ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ Thiền suốt 7 ngày sẽ chứng quả A La Hán;nếu 7 ngày chưa chứng thì 7 tháng; nếu 7 tháng chưa chứng thì 7 năm.
Còn nếu lui sụt lại làm người, và làm người thì có chồng con, vợ con như những người khác là một sự thường tình của thế gian. Lúc bấy giờ không còn nhập vào dòng Thánh nữa. Nhập vào dòng Thánh tức là Thánh, mà Thánh sao lại có chồng con, vợ con giống như người thế tục vậy???!!!
Cho nên, vì những điều trên đây, mọi người chưa tu chứng quả A La Hán thì nên im lặnh như Thánh, không được giảng thuyết, làm sai ý Phật, khiến cho Phật giáo suy đồi, và như thế thì Phật giáo sẽ mất gốc, thì tội ấy về ai các bạn có biết không?
Khi nào giữ hạnh độc cư trọn vẹn, thì con đường tu tập mới đủ mọi động lực tiến tới chứng đạo.
Nhưng giữ gìn độc cư thường bị hôn trầm, thuỳ miên, vô ký và loạn tưởng tấn công; nó là những tên giặc cứng đầu nhất, cần phải lưu ý để diệt trừ cho bằng được.
Khi giữ hạnh Độc Cư thì Hôn Trầm, Thuỳ Miên, Loạn Tưởng và còn bao nhiêu ác pháp cản trở sẽ tấn công tới tấp, khiến cho con đường tu tập của các bạn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do sự khó khăn đó, các bạn thiếu ý chí sẽ bỏ cuộc tu hành. Và như vậy sẽ lỡ dở, đời chẳng ra đời; đạo chẳng ra đạo.
Chúc con tu tập xả tâm tốt, nhớ xả tâm kỹ, chóng đạt thành sự giải thoát.
Thầy của con
✿✿✿
Tâm Thư Năm 2002
TRÁI ĐẤT, SỰ SỐNG VÀ THỜI GIAN
Hỏi 1:Kính thưa Thầy, ngoài trái đất ra, trong vũ trụ còn có sự sống nào khác không?
Đáp:Trong vũ trụ mênh mông vô tận như thế này, mà chỉ có một hành tinh sống như trái đất thì thật là không có.
Nếu nói có mà mọi người chưa ai biết, thì mọi người có cho mình nói dối không? Vì nói như vậy có ai tin không? Nói mà không có ai tin là nói dối. Nếu tin mà không biết là mê tín.
Một khi chúng ta tin một điều gì thì chúng ta phải biết điều đó rất rõ ràng. Một người trí thức không cho phép họ tin một cách mơ hồ; tin một cách mơ hồ là mê tín. Như hiện giờ, có một số nhà tri thức Việt Nam của chúng ta tin mơ hồ, như họ đang tin tánh nghe, tánh thấy, tánh biết là Phật tánh, điều này có mơ hồ hay không? Có.
Kinh Đại thừa dạy rằng: “Tánh nghe, tánh thấy, tánh biết thường hằng”. Vậy khi ta ngủ say, tánh nghe, tánh thấy, tánh biết có thường hằng không?
Tánh nghe, tánh thấy và tánh biết, v.v... là sáu thức trong thân tứ đại của chúng ta, khi tứ đại tan rã thì tánh nghe, tánh thấy, tánh biết cũng tan biến theo, không còn nghe, thấy, biết, như trong giấc ngủ của chúng ta, cho nên tin như vậy là mê tín.
Người nói chân thật là người nói một điều gì mà mọi người đều phải nhận biết điều đó rõ ràng. Biết rõ ràng mà tin là chánh tín, tin mà không biết rõ ràng là mê tín như đã nói ở trên.
Điều có thật, nói ra mà mọi người không biết thì nói làm chi, nói như nói láo. Phải không hỡi cháu?
Nói ra điều gì mà mọi người nghe, thấy, biết rõ ràng thì mình nói, còn ngược lại, mọi người không nghe, thấy, biết thì không nên nói.
✿✿✿
Hỏi 2:Các nhà khoa học cho rằng: “Trái đất thành hình cách đây 5 triệu năm, mặt trời thành hình cách đây 6 tỷ năm. Có đúng không?
Đáp:Căn cứ vào những dụng cụ tối tân của khoa học để đo đạc, các nhà khoa học xác định thời gian trái đất và mặt trời mà mọi người còn nghi ngờ, thì phỏng như Thầy xác định bằng trí tuệ siêu thời gian của trái đất và mặt trời, thì có ai tin không?
Cho nên Thầy nói: “Nói cái gì người ta nghe, thấy, biết được rõ ràng thì hãy nói; còn nói mà không ai thấy nghe, biết, rõ ràng mà nói, là có nói láo;nói phải có bằng chứng cụ thể, còn không thì nhất định không nói”.
✿✿✿
Hỏi 3:Đến một lúc nào đó, mặt trời cháy hết nhiên liệu, tắt đi, thì cuộc sống trên trái đất có còn tồn tại không? Tất cả chúng sanh trên trái đất sẽ đi về đâu?
Đáp:Các nhà khoa học rất thiển cận, chỉ biết đi tìm nguyên nhân diệt của mặt trời và trái đất, mà không biết đi tìm nguyên nhân sinh của nó, vì thế mới đoán mò, cho rằng: “Đến một lúc nào đó mặt trời đốt hết nhiên liệu tắt đi...”. Đành rằng các pháp đều vô thường do nghiệp báo nhân quả luân hồi sinh diệt, thì mặt trời và trái đất cũng là pháp vô thường, nhưng sự vô thường ấy đối với sự hiểu biết còn bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. Nếu vượt ra ngoài không gian và thời gian, thì sự vô thường sinh diệt ấy không còn nữa, mà là một chuỗi nối tiếp của nhân quả.
Các nhà khoa học không tự hỏi: “Trước khi chưa có mặt trời và trái đất, thì cái gì sanh ra mặt trời và trái đất?”
Trong vấn đề này, văn minh cổ đại và các tôn giáo có nói đến, nhưng lại nói trong tưởng tri, thành ra không đúng sự thật. Chỉ có Phật giáo là không đả động đến vấn đề này, nhưng Phật giáo biết rất rõ. Nếu biết nguyên nhân sinh ra mặt trời và trái đất, thì các nhà khoa học không còn lo sợ mặt trời cháy hết nguyên liệu, sẽ bị tiêu diệt và ảnh hưởng sự sống còn trên trái đất. Vì nguyên liệu đốt cháy của mặt trời sẽ không bao giờ cạn, do sự sinh diệt tuần hoàn từ nơi những từ trường trong không gian sinh ra.
Chúng ta nên biết, trong không gian vũ trụ do các từ trường hợp tan, tan hợp mà sinh ra các tinh tú, hành tinh, định tinh, v.v... Các từ trường ấy luôn luôn sinh diệt không bao giờ dứt, cũng giống như các nhà máy sản xuất nhu yếu phẩm. Sản xuất và tiêu thụ tức là sinh diệt.
Hiểu được luật sinh diệt của từ trường vũ trụ, thì không có sự đốt cháy hết nguyên liệu của mặt trời.
Nếu người ta biết được như vậy thì không có ngày tận thế. Do không biết như vậy, nên có một số tôn giáo tưởng và các chiêm tinh gia mới tuyên bố năm 2000 là năm tận thế. Nhưng nay đã đến năm 2002 và sắp đến năm 2003, mà có thấy tận diệt đâu. Phải không hỡi cháu?
Nếu mặt trời và trái đất có tận diệt là do con người. Con người mà mãi chạy theo vật chất, không biết buông xả, làm những điều ác khổ mình, khổ người khổ chúng sanh, những hành động ấy sẽ thải ra những từ trường ác làm ô nhiễm môi trường sống, thì lúc bấy giờ mới là tận diệt.
Cho nên, chuyện tận diệt chúng ta đừng lo, mà hãy lo giữ gìn môi trường sống thanh tịnh; thanh tịnh ở đây phải hiểu là con người sống có đạo đức. Sống có đạo đức thì phóng ra từ trường thiện; từ trường thiện sẽ làm cho môi trường sống thanh tịnh. Môi trường sống thanh tịnh thì làm gì mặt trời cháy hết nhiên liệu.
Nếu mặt trời tắt đi thì cuộc sống trên hành tinh này làm sao còn tồn tại được. Đó là một định luật trong sự liên hệ giữa mặt trời và trái đất không thể tách lìa ra được. Mặt trời tắt thì quỹ đạo trái đất không còn nữa. Chỉ cần trái đất đứng lại trong năm, mười phút thì sự sống trên hành tinh này không còn nữa. Sự sống trên hành tinh này không còn nữa thì cháu hỏi tất cả chúng sanh đi về đâu?
Con người từ nhân quả sinh ra, sống trong nhân quả, chết cũng về nhân quả. Nhưng nhân quả không có không gian và thời gian thì con người có đi về đâu, mà chỉ có sinh diệt mãi mãi theo hướng luân hồi nhân quả. Nhưng chúng ta đừng hiểu sinh diệt nhân quả là sự mất còn, mà phải hiểu là một sự nối tiếp của nhân quả liên tục.
✿✿✿
Hỏi 4:Những người tu hành sau khi chứng quả và khi nhập diệt, họ còn có biết những gì đang diễn ra trên trái đất này không?
Đáp:Người tu chứng là người đang sống trong tâm bất động; tâm bất động là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Khi ở trong trạng thái đó, chúng ta có biết mọi sự đang diễn biến quanh ta không?
Cháu cứ thử xem, hãy giữ gìn Tâm Bất Động, tức là trong trạng thái Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự, thì mọi sự đang diễn biến quanh cháu, cháu sẽ thấy biết rất rõ ràng, và còn biết rõ ràng hơn những người khác.
Theo cháu nghĩ: người tu chứng cũng như người nhập Niết bàn thì không còn biết những gì đang diễn biến xảy ra trên trái đất. Không đâu cháu ạ! Người tu chứng cũng như người nhập Niết bàn đều ở trong trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự cũng như cháu đang giữ vậy, nhưng lại khác hơn nhiều. Cháu thì cảm giác thân tâm nặng nề, còn bị chi phối trong không gian và thời gian. Còn người tu chứng cũng ở trong trạng thái đó mà thân thì khinh an nhẹ nhàng, tâm thì hân hoan hỷ lạc, không gian và thời gian không chi phối họ được. Vì thế họ biết rất rõ, không những sự diễn biến quanh họ, mà còn bất cứ thời gian nào và nơi nào, không những trên hành tinh này mà cả vũ trụ không gian nữa.
✿✿✿
Hỏi 5:Họ có biết trước những điều gì xảy ra với con người, như một số nhà chiêm tinh học không?
Đáp:Họ là người đã biết rất rõ sự hoạt động của nhân quả, vì nhân quả không có không gian và thời gian, nên thời gian quá khứ và tương lai của mọi người làm sao mà họ chẳng biết; họ biết rõ như thấy chỉ lòng bàn tay của họ vậy. Nhưng họ không muốn mình là thầy bói, nhà chiêm tinh, vì danh lợi họ đã lìa xa.
✿✿✿
Hỏi 6:Thời gian lâu vô hạn, nên mỗi chúng sanh sẽ tiến dần về cõi Phật, như thế sẽ tồn tại một thời điểm và tất cả chúng sanh đều tu thành Phật (dù có thể vô cùng lâu). Thưa Thầy, liệu có thời điểm như thế không? Lúc đó, cuộc sống trong vũ trụ sẽ như thế nào?
Đáp:Cháu không hiểu về từ trường môi trường sống, nên mới có câu hỏi như vậy. Vì còn có những từ trường môi trường sống là còn có chúng sanh; còn có chúng sanh thì làm sao thành Phật hết được. Dù cho thời gian có lâu xa, xa lơ, xa lắc vô cùng tận, khi mà từ trường môi trường sống còn thì không có gì thay đổi cả. Nghĩa là chúng sanh từ trong nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, chết về nhân quả, và cứ như vậy tiếp tục mãi mãi nên gọi là luân hồi. Câu nói trên đây có nghĩa là chúng sanh từ môi trường sống sinh ra, từ đó sống trong môi trường sống và chết thì lại về với môi trường sống. Nhờ biết nguyên nhân sinh ra con người là môi trường sống như vậy, môi trường sống còn là con người còn, môi trường sống mất là con người mất. Vì thế, chúng sanh không có đấng hóa nào tạo ra cả. Môi trường sống là cha mẹ của chúng sanh.
Môi trường sống là nơi tạo tác của những từ trường nhân quả. Khi môi trường sống hết, thì từ trường nhân quả cũng hết. Nhưng làm sao môi trường sống hết được, khi nhân quả của môi trường sống là nhà máy sản xuất từ trường?
Cho nên, hành tinh có thể tan hoại chỗ này, nhưng từ trường môi trường sống không bị tan hoại, vì thế nó lại kết hợp chỗ khác tạo thành hành tinh mới. Nhờ thế, chúng ta biết hành tinh có thể tan hoại vì nó có sắc tướng, cái gì có sắc tướng là có vô thường, có vô thường là có tan hoại. Từ trường nhân quả không tan hoại, nên hành tinh tụ tán liên tục không hề dứt. Luật nhân quả cũng theo đó mà chi phối và phóng xuất từ trường.
Hiện giờ, chúng ta thấy có sự thay đổi thời tiết nắng, mưa, gió, bão bất thường, lũ lụt, động đất, đất sụp, núi lở là những hiện tượng rất bình thường của môi trường sống theo luật nhân quả, chứ có gì mà gọi là tận thế. Phải không hỡi cháu?
Nếu có thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, chiến tranh, v.v... là do từ trường nhân quả ác trong môi trường sống tạo ra. Còn nếu như mưa, gió thuận hòa, bão tố, lũ lụt, thiên tai, động đất không có, v.v... cũng là do từ trường nhân quả thiện trong môi trường sống mà có.
Cho nên, những câu hỏi của cháu là những câu hỏi mò trong tưởng.
Thăm và chúc cháu mạnh khỏe, học tập tốt.
Kính thư
Thầy của cháu
✿✿✿
Hỏi : Có lần Thầy bảo cho chúng con biết: “Đạo Phật không có tám mươi bốn ngàn pháp môn”. Vậy con mong Thầy chỉ dạy để mọi người cùng hiểu đúng chánh pháp của đức Phật, không bị 84.000 pháp môn của ngoại đạo lừa đảo. Con còn nghe người ta bảo: “Tu pháp môn niệm Phật (Tịnh Độ), kiếp sau đầu thai lên làm người nam, tiếp tục tu tập dễ hơn”. Có đúng như vậy không thưa Thầy?
Đáp: Tám mưới bốn ngàn pháp môn của Phật giáo chính là do các nhà Đại thừa tự đặt ra để lồng ghép giáo pháp của mình vào pháp môn của đạo Phật để đánh lận tín đồ Phật giáo.
Pháp môn niệm Phật A Di Đà là một pháp trong 48.000 ngàn pháp của Bà La Môn, chứ Phật giáo không có dạy pháp môn này.
Chính đức Phật A Di Đà cũng là một vị Phật tưởng tượng do các vị học giả nghĩ tưởng sinh ra, và dựng lên một thế giới siêu hình Tây Phương Cực Lạc.
Niệm Phật để sanh được làm người nam thì đều này không thể xảy ra được. Vì niệm Phật không thể tương ưng với nam tính. Tại sao vậy?
Các bạn cứ suy ngẫm: bản chất con trai thì thì gan dạ, hiếu động, không sợ hãi, cơ bắp khỏe mạnh, thích mạo hiểm, không rụt rè, không e thẹn, không làm duyên làm dáng, không thích trang điểm làm đẹp, giọng nói ào ào như sóng bổ, không nói thỏ thẻ như con gái, v.v... Nếu con gái muốn tái sanh làm con trai, thì phải tập sống như con trai, vì có tập sống như con trai thì sẽ tương ưng, kiếp sau sẽ làm con trai. Sự kiện này có thể xảy ra được. Còn không tập sống như con trai, thì làm sao sinh làm con trai được. Sự kiện này không thể xảy ra được, phải không các bạn?
Tối ngày cứ ngồi niệm danh hiệu A Di Đà Phật, niệm như vậy để không có niệm khởi (thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật, dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền...). Tâm không niệm khởi thì tâm tương ưng với cây đá, và như vậy khi chết sẽ tái sinh làm cây đá, chứ làm sao làm người nam được. Cho nên, lối tu tập này không thể tương ưng với cõi Tây Phương Cực Lạc, thì làm sao cầu vãng sanh về cõi ấy được, phải không các bạn? Tu tập như vậy chỉ có tương ưng với cây đá, thì sẽ sinh làm cây đá mà thôi; lý ấy logic rất khoa học, không ai phủ nhận được.
Xưa, có một ngoại đạo tu hạnh con bò, đến xin đức Phật xác định mình tu như vậy có cộng trú với Phạm thiên được không? Nghe hỏi như vậy, đức Phật bảo:
- Thôi! Thôi!!! Đừng có hỏi Ta như vậy.
Vị tu sĩ ngoại đạo van xin đức Phật ba lần, nhờ xác định tu hạnh con bò có đúng như vậy không? Đức Phật mới bảo:
- Tu hạnh con bò thì sẽ thành con bò, chứ làm sao thành Phạm thiên được.
Bởi vì Phạm thiên đâu có sinh hoạt, ăn ngủ giống như con bò. Phạm thiên là những người sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Do đó, hạnh con bò làm sao tương ưng với hạnh của Phạm thiên được.
Nghe dạy lời này, vị tu sĩ ngoại đạo không cầm được nước mắt, khóc nức nở và đảnh lễ Phật, xin được tu hành theo giáo pháp và giới luật.
Cho nên muốn sinh ra làm con trai thì phải tập sống như con trai; điều này có thể chấp nhận.
Niệm danh hiệu Phật Di Đà là một vị Phật không có thật. Niệm một vị Phật không có thật, nên tương ưng với cái không thật, cái không thật là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì làm sao thành người nam được. Cho nên lời dạy: “Tu pháp môn niệm Phật kiếp sau đầu thai lên làm người nam, tiếp tục tu tập dễ hơn”, đây là lời lừa đảo, lường gạt người nhẹ dạ, non lòng.
Niệm Phật như trong kinh nguyên thủy dạy tức là sống như Phật, làm như Phật, ăn như Phật, ngủ như Phật, đi như Phật, ngồi như Phật, nói như Phật, im lặng như Phật, v.v... Có sống như vậy, làm như vậy, nên mới tương ưng với Phật, vì thế sống cũng tương ưng và đến khi chết cũng tương ưng, nên thành Phật. Còn niệm Phật như Tịnh Độ tông dạy thì thành cây đá, chứ không thể làm Phật, sinh làm người nam được.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Thường mọi người từ xưa cho đến ngày nay, cứ theo nghi thức thờ cúng tổ tiên ông bà là cúng tế cho những vong linh ông bà tổ tiên về thọ hưởng những thực phẩm, mâm cao cỗ đầy. Những điều cúng tế như vậy đều đầy vẻ mê tín, mù quáng, lạc hậu.
Trong thời đức Phật còn tại thế, mọi người được sự truyền thừa của tổ tiên cho rằng có 33 cõi Trời; mỗi cõi Trời có tên tuổi hẳn hoi như: cõi trời Quang Âm Thiên, Sơ Thiền Thiên, Nhị Thiền Thiên, Tam thiền Thiên, Tứ Thiền Thiên, v.v... Trong kinh Trường Bộ tập I, có một bài kinh tựa đề “Pháp Môn Căn Bản”, đức Phật dạy: “Ba mươi ba cõi Trời là cõi tưởng”(Ba mươi ba cõi Trời là tưởng tri chứ không phải liễu tri), tức là ba mươi ba cõi Trời không có thật, chỉ do người ta tưởng tượng ra.
Theo như lời đức Phật dạy thì thế giới siêu hình không có; mà đã không có thì làm sao có linh hồn; mà đã không có linh hồn thì việc cúng tế là việc làm sai. Cho nên, làm cỗ bàn linh đình để cúng tế vong linh ông bà tổ tiên là một việc làm không sáng suốt. Nhất là phật tử, khi đến ngày giỗ, ngày Tết cần phải tránh làm những mâm cao cỗ đầy để cúng tế ông bà tổ tiên. Đó là đi ngược lại lời dạy của đức Phật.
Quý vị đừng bảo rằng: “Xưa bày nay làm”. Chúng ta là những người sống trong thời đại khoa học, có trình học thức, có trình độ văn hóa đạo đức mà còn làm theo những điều mù quáng, lạc hậu của tổ tiên chúng ta sao? Đâu phải những gì của ông bà tổ tiên để lại là đúng hết sao?
Ông bà tổ tiên để lại một nền tư tưởng văn hóa, nhưng có cái đúng và cũng có những cái sai. Cái đúng thì chúng ta chấp nhận, nhưng những cái sai phản khoa học thì mạnh dạn dẹp bỏ, để đỡ hao tốn công sức và tiền của. Như quý vị biết, trong những ngày giỗ, ngày Tết người ta đốt không biết bao nhiêu giấy tiền vàng mã, quần áo, kho đụn, nhà cửa, xe cộ, v.v... toàn bằng giấy. Tính ra hằng năm người ta có thể tiêu phí về việc này có trên tiền tỷ.
Nếu đạo Phật không có thế giới siêu hình, thì tại sao hiện giờ trong các chùa quý thầy lại dạy phật tử cúng tế cầu siêu, cầu an, đốt tiền vàng mã, v.v...? Quý vị đừng hỏi tại sao, mà phải hiểu rằng: Đây là một TÔN GIÁO MÊ TÍNlấy tên là Phật giáo, chứ Phật giáo chân chánh đúng nghĩa không có dạy những điều mê tín, lạc hậu như vậy.
Việc cúng bái ông bà tổ tiên trong ngày giỗ, ngày Tết là một việc làm có ý nghĩa có tình cảm đạo lý, có đạo đức văn hóa hẳn hoi. Nhưng cúng bái như thế nào đúng và cúng bái như thế nào sai? Cúng bái như trên là sai (mê tín, lạc hậu, mù quáng).
Khi đến ngày tư, ngày Tết, ngày giỗ chạp thì con cháu đều tề tựu tập trung về nơi nhà thờ tổ tiên của dòng họ.
Nơi đó, trong ngày giỗ, trên bàn thờ đặt một bức ảnh của người đã chết ngay giữa, kế đó chưng một dĩa trái cây, thắp hai ngọn đèn cháy sáng (đèn gì cũng được). Không nên thắp hương, nếu có thắp hương để tượng trưng cho lòng biết ơn của con cháu thì mỗi người chỉ nên thắp một cây hương mà thôi. Không nên dọn thực phẩm ăn uống trên bàn thờ.
Đến giờ tưởng niệm, con cháu đều tề tựu trước bàn thờ, sau khi đảnh lễ xong, mỗi người đều an vị vào chỗ ngồi, thì người trưởng tộc nói lên những hồi tưởng để tưởng nhớ công ơn của người đã khuất đối với gia đình, dòng họ và xã hội đất nước.
Sau khi nghe xong sự tích công lao của ông bà thì mọi người trở về phòng ăn, và đều thọ bữa cơm đơn sơ đạm bạc không thịt, cá, chỉ có thực phẩm thực vật của mọi người trong dòng họ mang đến.
Đây là sự cúng bái tổ tiên ông bà trong ngày tư, ngày Tết, ngày giỗ chạp đúng ý nghĩa tình cảm, lễ nghĩa cung kính tôn trọng có văn hóa, có đạo đức.
✿✿✿
Hỏi: Kính thưa Thầy! Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con biết những cách thức lạy lễ như thế nào đúng và như thế nào sai? Ba lạy ý nghĩa như thế nào? Bốn lạy ý nghĩa ra sao? Khi lạy 3 lạy phải đứng lên lạy xuống 3 lần, hay chỉ quỳ xuống lạy một lúc 3 lạy?
Khi lạy úp hai bàn tay là nghĩa gì? Ngửa hai bàn tay là nghĩa gì? Bàn tay đưa ngang, bàn tay đưa thẳng là nghĩa gì? Kính ngưỡng mong Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con.
Đáp: Văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam thường chịu ảnh hưởng đạo đức Tam cang, Ngũ thường và Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín của Nho giáo Trung Hoa, và đạo đức nhân bản - nhân quả “Tam Bảo” của Phật giáo Ấn Độ. Hai dòng đạo đức này có khác nhau.
Lễ là một hành động đạo đức nói lên sự tôn trọng, cung kính của con người đối với con người.
Nho giáo dạy bốn lạy:
1. Lạy thứ nhất là lạy trời;
2. Lạy thứ hai là lạy đất;
3. Lạy thứ ba là lạy vua;
4. Lạy thứ tư là lạy tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
Phật giáo dạy ba lạy:
1. Lạy thứ nhất là lạy Phật bảo;
2. Lạy thứ hai là lạy Pháp bảo;
3. Lạy thứ ba là lạy Tăng bảo.
Chúng ta lạy phải đứng thẳng, chắp hai bàn tay để trước ngực rồi đưa lên trán và trả trở về trước ngực, hai chân quỳ xuống lạy, nếu người nam lạy xong lạy thứ nhất thì đứng thẳng lên rồi lạy tiếp lạy thứ hai, thứ ba. Còn người nữ lạy thứ nhất xong đến lạy thứ hai và lạy thứ ba thì quỳ gối xuống lạy, chứ không nên đứng như người nam. Khi đặt hai bàn tay úp xuống, các ngón tay đưa thẳng về phía trước là lạy người đã chết; còn đặt hai bàn tay úp xuống, các ngón tay để ngang nhau là lạy người còn sống. Đặt hai bàn tay ngửa, các ngón tay đưa thẳng về phía trước là lạy sám hối với người đã chết; còn đặt bàn tay ngửa, các ngón tay nằm ngang nhau là lạy sám hối với người còn sống.
Đây là ý nghĩa của sự tôn kính lạy lễ của dân tộc Việt Nam. Một nền văn hóa truyền thống từ nhiều thế kỷ để lại cho dân tộc chúng ta có những đạo đức cao thượng và tốt đẹp, nhưng khoa học phát triển tiến bộ, hiện đại hóa, phục vụ nâng cao đời sống vật chất đầy đủ tiện nghi cho đời sống, khiến người ta quên mất đạo đức của ông cha, mà còn cho những đạo đức đó lỗi thời. Thật là đáng đau buồn. Phải không các bạn?
✿✿✿
Nằm hay ngồi trong tư thế nào cũng được, nhưng nếu gan dạ thì nên ngồi kiết già hay bán già lưng thẳng; mắt mở, nhìn phía trước cách chỗ ngồi khoảng hơn một thước. Khi thân ngồi ngay thẳng, tâm yên ổn mới tác ý như sau:
“Tất cả bệnh tật đều vô thường, vậy thân bệnh này phải phục hồi, không còn bệnh tật nào cả. Tất cả bệnh tật này hãy đi đi!!! An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. (Hoặc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”)
Khi tác ý như vậy xong thì chú tâm vào hơi thở hít vô và hơi thở ra đúng năm hơi thở (hoặc cánh tay đưa ra, đưa vô năm lần) rồi lại tác ý lần thứ hai như câu trên đã dạy. Cứ như vậy tiếp tục đuổi bệnh trong 30’ rồi nghỉ độ 10’. Khi nghỉ xong 10’ rồi lại tiếp tục đuổi bệnh trong 30’ nữa.
Khi đuổi bệnh phải siêng năng tác ý như vậy, thì chỉ trong thời gian ngắn bệnh tật sẽ chấm dứt và thân không còn một bệnh tật nào cả.
Pháp NHƯ LÝ TÁC Ýđuổi bệnh là do đức Phật dạy: “Có Như Lý Tác Ý, bệnh tật khổ đau (lậu hoặc) chưa sinh sẽ không sinh, mà đã sinh thì bị diệt”, nhưng muốn được hiệu quả đẩy lui bệnh ra khỏi thân, thì bệnh nhân phải NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ TÂM TRONG THÂN HÀNH(hơi thở ra, hơi thở vô, cánh tay đưa ra, đưa vào hay chân bước đi kinh hành). Trong những thân hành, nên chọn một thân hành mà tập luyện nhiếp tâm, an trú cho được, thì đẩy lui bệnh rất hiệu quả.
Dụng pháp NHƯ LÝ TÁC Ýđuổi bệnh không có tốn hao tiền thang thuốc và bác sĩ. Vậy mong sao quý vị hãy tự cứu mình ra khỏi biển khổ của kiếp làm người.
Kính ghi
Tu Viện Chơn Như
✿✿✿
Hỏi: Kính thưa Thầy! Câu: “Thanh thản, an lạc và vô sự”, con phải thực hành “VÔ SỰ” như thế nào đúng? Xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Đáp: VÔ SỰ VỀ TÂMcó nghĩa là tâm không phóng dật, không nghĩ ngợi suy tư một điều gì. Tâm không làm một việc gì khác, có nghĩa là không nghe băng, không đọc kinh sách, không xem ti vi, không ngửi mùi thơm, không nếm vị, không xúc chạm và không khởi niệm ác, ấy là tâm thanh thản, cho nên khi đi, đứng, nằm, ngồi đều thanh thản. Thanh thản là một niệm thiện vô lậu; niệm thiện vô lậu là niệm Bất Động của tâm.
Về THÂN VÔ SỰthì thân không đau nhức, không mỏi mệt, không hôn trầm, thùy miên, v.v... Thân không làm một sự việc gì, có nghĩa là thân không ăn, không nhai, không nuốt, không uống, v.v... ấy là THÂN AN LẠC. Thân an lạc là niệm Vô Sự của thân.
Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là mục đích giải thoát của Phật giáo. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự ấy đâu phải là một điều khó tu. Khó tu là vì các bạn không chịu buông xả. Đời có gì đâu, các pháp đều vô thường, nay còn mai mất. Vậy mà các bạn không chịu buông xuống để mà chịu khổ, chịu đau, chịu phiền não. Thật là điên đảo.
Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi, có ích gì?
Thở ra chẳng lại, còn chi nữa?
Vạn pháp vô thường, buông xuống đi!
***
Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Tâm hồn thanh thản, chẳng sầu bi.
Cuộc đời ngắn ngủi trong chớp mắt.
Còn có vui gì, chẳng bỏ đi?
***
Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Trò đời như mộng, có còn chi?
Tứ đại trả về cho tứ đại.
Thanh nhàn, an lạc lúc phân ly.
Con hãy cố gắng xả tâm, buông xuống cho thật sạch, đời người chẳng còn có gì đâu mà tiếc, mà thương, mà giận hờn, mà buồn phiền con ạ! Nếu quyết tâm tìm đường thoát khổ thì hãy buông xuống, buông xuống cho trắng bạch như vỏ ốc, cho tâm hồn phóng khoáng như hư không, thì không bao lâu nữa sẽ đạt được mục đích cuối cùng: “Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự”.
Kính thư
Thầy của các con
✿✿✿
Kính thưa quý phật tử! Hôm nay chúng tôi viết bức tâm thư này gửi đến quý vị, là vì muốn cho quý vị được an tâm khi có ông, bà, cha, mẹ, cô, bác, dì, chú, cậu, mợ, vợ, chồng, anh, chị, em, con và cháu đang tu tập tại Tu Viện Chơn Như.
Kính thưa quý vị! Đi tu không phải là một việc làm khổ mình như các tôn giáo khác từng dạy như: khổ hạnh, ép xác, phải làm cho cơ thể kiệt quệ, tàn tạ; đi tu cũng không phải vào chùa ngồi tụng kinh, niệm Phật ê a theo tiếng chuông, tiếng mõ trong một ngày đêm bốn thời; đi tu cũng không phải ngồi thiền, niệm thần chú, bắt ấn, vẽ bùa, sái đậu thành binh, kêu ma, điều khiển âm binh, âm tướng; đi tu cũng không phải như tập luyện võ công, khí công, khinh công, yoga, nhân điện, xuất hồn, vô vi, v.v... Chính đi tu là tập luyện cách thức ngồi chơi vô sự, vì con người ít ai ngồi chơi vô sự được. Ngồi chơi vô sự nên thân tâm an nhàn, thanh thản, không bận rộn việc gì cả. Tuy là ngồi chơi nhưng lúc nào cũng phải quan sát lại tâm mình, xem tâm mình còn có buồn khổ, phiền não, lo toan, sợ hãi, giận hờn, thương ghét, lo lắng, tham tiền, tham bạc, tham danh, tham lợi, tham ăn, tham ngủ, tham bài bạc, tham rượu chè, tham đi la cà từ chỗ này đến chỗ khác, tham mặc quần này áo kia, tham trang điểm làm đẹp, làm dáng, tham xe cộ, tham nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, v.v... khi tâm còn khởi những niệm tham như vậy, thì mau mau tác ý câu: “TRÊN THẾ GIAN NÀY CÁC PHÁP ĐỀU VÔ THƯỜNG,KHÔNG CÓ PHÁP NÀO LÀ TA,LÀ CỦA TA;TẤT CẢ CÁC PHÁP ĐÓ ĐỀU LÀ PHÁP ÁC,HÃY BUÔNG XUỐNG,BUÔNG XUỐNG CHO THẬT SẠCH ĐỂ CHO TÂM BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC VÀ VÔ SỰ”.
Bao giờ tâm trở lại bất động thì mới thôi tác ý, còn có niệm thì còn tác ý, hết niệm thì ngồi im lặng chơi như người vô sự. Chính đi tu chỉ có làm một việc đó mà thôi. Cho nên, đời sống và tâm hồn rất thoải mái, dễ chịu, không có làm những việc gì cực khổ, nhọc nhằn, mệt mỏi gì cả. Chỉ suốt ngày đêm ngồi chơi, nghe lại tâm mình trong trạng thái IM LẶNG,THANH THẢN,AN LẠC vàVÔ SỰ.Thật là tuyệt vời, ai đã sống được như vậy thì thế gian này không còn đau khổ nữa; ai đã sống được như vậy thì thế gian này là Thiên Đàng.
Đi tu không có nghĩa là làm cho mình trở thành những người vong ơn, bội nghĩa, quên ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha. Chính đi tu không những đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục mà còn đền đáp công ơn của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, làm cho cả dòng họ chấm dứt đau khổ.
Kính thưa quý vị, không lẽ một người đi tu mà cả dòng họ chấm dứt khổ đau được hay sao?
Đúng vậy, một người đi tu là làm chấm dứt khổ đau cho cả dòng họ của người đi tu. Có nghĩa là người đi tu theo con đường của Phật giáo là phải tuyệt đường dâm dục; không còn dâm dục, và như vậy thì không còn sinh con đẻ cháu nữa thì làm sao còn đau khổ. Có phải vậy không thưa quý vị?
Chính còn sinh con đẻ cháu mới còn khổ đau. Quý vị cứ suy ngẫm có đúng không? Nếu đi tu như vậy có chấm dứt một dòng họ đau khổ không? Điều đó chắc chắn là chấm dứt khổ đau cả một dòng họ, không còn ai dám phủ nhận lời dạy này được. Một sự giải thoát khổ đau thật sự như vậy quý vị ạ! Thế mà quý vị đành lòng cản trở, không cho những người thân của mình đi tu sao? Hay là quý vị muốn để cho những người thân của mình phải chịu khổ đau muôn đời muôn kiếp.
Có người lại hỏi: Như vậy dòng họ của người đi tu ấy đâu còn? Kính thưa quý vị! Còn chứ sao lại không? Mà còn đông hơn gấp trăm vạn lần. Quý vị không tin thì nên xem xét lại đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài chỉ có một đứa con trai duy nhất, tên là La Hầu La. Sau khi tu chứng đạo, Ngài trở về thăm vua cha và vợ con, lúc bấy giờ La Hầu La còn rất bé, chạy theo Phật và xin gia tài; đức Phật trao cho một bình bát và hướng dẫn cho La Hầu La tu tập. Cuối cùng, La Hầu La chứng thánh quả A La Hán và nhập diệt trước Phật. Như vậy, quý vị nghĩ rằng đức Phật chấm dứt dòng họ Thích sao? Không đâu quý vị ạ! Bây giờ quý vị nhìn xem dòng họ Thích ở khắp nơi trên thế giới, không có một dòng họ nào trên thế gian này đông như vậy được. Có đúng như vậy không thưa quý vị?
Kính thưa quý vị! Đi tu không có nghĩa là làm cho mình trở thành những thầy phù thủy, những đồng, cốt, bóng, chàng, thầy pháp, thầy bùa, thầy ngải, thầy cúng, thầy địa lý, thầy chiêm tinh, thầy thuốc, các nhà ảo thuật, các ông Lạt Ma, v.v... Nhưng đi tu cũng không phải để thành Phật, thành A La Hán, thành Tiên, thành Thánh, thành Thần hay thành bất cứ một thứ gì cả.
Vậy đi tu để làm gì? - Để làm chủ bốn sự đau khổ: SINH,GIÀ,BỆNH,CHẾTvà để CHẤM DỨT TÁI SINH LUÂN HỒI.Cho nên, mục đích đi tu của đạo Phật là không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Nhất là tâm luôn luôn bất động trước các ác pháp và các cảm thọ bệnh tật khổ đau, dù cho bệnh tật khổ đau có đau nhức đến đâu họ vẫn thản nhiên. Bởi vì họ biết rất rõ: Các pháp đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, nên nó đến rồi nó đi rất tự nhiên; đó là theo quy luật Vô Thường của Nhân Quả. Cho nên, không còn có một lộ trình Nhân Quả nào khác được nữa.
Ở đây, còn có một lộ trình duy nhất không theo quy luật Nhân Quả, đó là TÂM BẤT ĐỘNG,THANH THẢN,AN LẠC vàVÔ SỰ.Người tu sĩ của Tu Viện Chơn Như hằng ngày chọn lấy con đường này, chọn nếp sống với tâm này. Vì thế, người tu sĩ Chơn Như không còn đau khổ nữa, giải thoát hoàn toàn. Quý vị là ông bà, cha mẹ, cô bác, dì cậu, chú thím, anh chị em hay con cháu, hãy an tâm vì có những người thân của mình tu hành như vậy. Đó là một điều rất mừng. Mừng cho những người thân của mình đã vượt thoát mọi khổ đau của kiếp làm người, và rất hãnh diện vì có những người thân sống trong thế gian rất bình thường mà lại phi thường.
Sau cùng, chúng tôi xin gởi lời thăm và chúc quý vị được dồi dào sức khỏe và an khương.
Kính thư
Trưởng lão Thích Thông Lạc
✿✿✿
Tâm Thư Ngày 01-12-2012
Kính gửi các con! Hôm nay, Thầy có vài lời nhắc nhở đến các con.
Trước tiên, Thầy xin nhắc lại 3 điều kiện hết sức quan trọng trong cuộc đời tu hành của người tu theo Phật, hay đến với Tu Viện Chơn Như.
· Điều thứ nhất:Khi đến với đạo Phật, thì các con đã hiểu “Đạo Phật là Đạo Giải Thoát”. Vậy GIẢI THOÁT NHƯ THẾ NÀO? - Đây, các con hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, ba y, một bát, đời sống trắng bạch như vỏ ốc, tâm hồn phóng khoáng như hư không...”. Cho nên, khi đến với Tu Viện Chơn Như, thì các con phải sống đúng BA HẠNH: Ăn, Ngủ, Độc Cư; BA ĐỨC: Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng; đời sống THIỂU DỤC,TRI TÚC(ít muốn, biết đủ); chấp nhận đời sống GIỚI HẠNH, quyết tâm bằng mọi cách không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Đây chính là GIỚI.
· Điều thứ hai:Con đường tu tập giải thoát của đạo Phật không cần phải tu tập nhiều pháp. Đây, các con hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Bí quyết thành tựu của đạo Phật chỉ có hai điều kiện quan trọng nhất:
1. Giữ tâm không phóng dật.
2. Thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình”.
Để thực hiện được hai điều kiện này, Thầy đã chỉ dạy cho các con cách thức tu tập các pháp hành: Phòng hộ sáu căn, Như Lý Tác Ý, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm từ Nhiếp Tâm cho đến An Trú Tâm. Đó là những phương tiện tu tập, phải thiện xảo khéo léo áp dụng đúng thời, đúng lúc thì mới giúp các con sống an ổn một mình, không còn chướng ngại. Đây chính là ĐỊNH.
· Điều thứ ba:Đạo Phật là đạo Trí Tuệ, là sự hiểu biết của ý thức hay còn gọi là Tri Kiến Giải Thoát. Đức Phật dạy: “Những ai có Giới hạnh, an trú không phóng dật, Chánh trí, chơn Giải thoát...”. Khi một người tu sĩ hay cư sĩ theo đạo Phật mà sống trọn vẹn trong giới luật, và an trú tâm không phóng dật, thì người đó đã thành Chánh Giác. Đây chính là TUỆ. Và đức Phật đã khẳng định rằng: “Giới hạnh là Trí tuệ, Trí tuệ là Giới hạnh”.
Cho nên, con đường chứng đạo không ngoài “Giới - Định - Tuệ”. Giới giúp tâm buông xả, ly dục ly ác pháp. Định giúp tâm an lạc, sáng suốt. Trí hiểu biết rộng lớn, không bị bất kỳ một pháp nào chi phối, hay còn gọi là Tuệ Giải Thoát.
Đường đi quá rõ ràng, Thầy đã vạch sẵn cho các con thấy tu hành không phải khó. Khó là chỗ các con không bền chí, không gan dạ, thiếu nghị lực, không chịu buông bỏ tâm đời thường thế gian. Vì vậy mà trải qua bao năm tháng tu tập, các con cứ dậm chân tại chỗ và phạm phải những nội quy của Tu Viện:
1-Ly gia cắt ái: lìa bỏ gia đình, không còn luyến ái. Vậy mà các con có giữ được đâu! Cứ tu được năm ba bữa, một vài tháng thì xin về thăm nhà hay xin điện thoại thăm gia đình. Đã vậy, có người dù đã nộp điện thoại, nhưng vẫn còn lén lút sử dụng điện thoại riêng (thiếu đức thành thật).
Khi có người thân, họ hàng, con cháu, bạn bè đến thăm thì mau mau ra gặp. Các con không dám mạnh mẽ dứt khoát từ chối; phạm giới, phá hạnh độc cư.
2-Cạo bỏ râu tóc: khi các con thấy râu tóc ra dài là cạo được rồi, đâu cần phải chờ đúng 14, 15 hoặc 28, 29, 30. Đợi cho đúng ngày thì phải xem lịch, không có lịch thì hỏi người này hỏi người kia để biết mà cạo tóc... Thậm chí phá độc cư bằng cách ném thư qua cửa sổ, ra dấu, ra hiệu đủ mọi cách làm mất oai nghi chánh hạnh.
Riêng người cư sĩ thì chỉ cần giữ gìn đầu tóc cho gọn gàng, có đâu tóc kẹp kiểu này kiểu kia, cột dài cột ngắn như trẻ con hoặc là xõa tóc làm đẹp; phạm giới trang điểm, làm đẹp.
3-Ba y một bát: là một y hạ, y trung, y thượng và một bình bát để xin ăn. Thời xưa đức Phật còn phải lượm vải thây ma để mặc, bây giờ Thầy cho các con mặc đồng phục mỗi người 2 bộ (người nữ được 3 bộ), và một áo tràng là đủ để mặc hằng ngày. Thế mà có người chê đồ cũ đồ mới; có người lại sửa sang, kết, đính thêm nút không giống ai; lại để dành hai, ba bộ; còn áo tràng thì hai, ba cái; phạm vào giới cất giữ.
Cái bát là để đi xin ăn. Người tu sĩ ăn trong bát, uống trong bát. Thế mà các con có người chê khen bát này lớn, bát kia nhỏ; bát này nặng, bát kia nhẹ. Thậm chí, có người đi khất thực chỉ mang cái nắp bát, rồi ăn luôn trên cái nắp bát hoặc ăn luôn trong mâm. Người thì lấy thêm chén nhỏ để sớt cơm ra ăn riêng, chứ không ăn trong bát. Đức Phật ví cái y như đôi cánh, cái bát như cái mỏ con chim. Vậy là “con chim không cần cái mỏ”; các con quá xem thường giới hạnh!
4-Trước kia Thầy có dạy các con nuôi dưỡng tâm từ bằng cách là đến giờ thọ thực, khi thấy có chúng sinh trước mắt các con, chúng đang đói khát tìm thức ăn sinh sống, thì khi ấy chúng ta mới hy sinh và chia sẻ thực phẩm do mình vừa đi xin về, để sớt một ít mang cho chúng trước khi mình dùng. Đằng này các con hiểu sai lời Thầy dạy, lấy của đàn na cho dư thừa để rồi đi tìm chúng sinh mà bố thí. Có người cất giữ thực phẩm cho đến chiều rồi mang đi nơi khác, chờ cho chó, mèo, chim, sóc... đến ăn. Nếu chúng không đến thì coi như thực phẩm ngày hôm ấy bị bỏ phí, thiu mốc.
Các con là những người tu hành, tu thì không xong, cũng không làm gì ra tiền, cho nên các con không biết quí trọng công sức cúng dường bằng mồ hôi nước mắt của những người khác. Họ cúng dường là chỉ mong hưởng được công đức tu hành của các con. Các con có nghĩ đến điều này hay không? Các con có xứng đáng hay chưa? Thật là thiếu trí tuệ và phí phạm!
5-Thiểu dục tri túc: ít muốn biết đủ. Các con thì sao? Nhìn hết trong Tu Viện, Thầy thấy rất ít người sống được hạnh này. Người nào cũng muốn dư, không muốn đủ, thậm chí sử dụng 2, 3 đôi dép, đi dép trong, dép ngoài; vớ thì hai, ba đôi, bàn chân suốt ngày không lìa đôi vớ; nón thì kiểu này, kiểu nọ; ở trong thất thì đeo khẩu trang, mang kính mát; khăn lớn, khăn nhỏ phơi đầy sào; đi đâu gặp cái gì cũng lượm mang về thất từ một cục gạch, đoạn dây, khúc nhựa, cái lọ, keo hũ, bọc giấy, bao bì, v.v... lại còn sinh niệm chế ra cây phất trần phẩy qua phất lại như mấy ông Tiên; ngồi thì kê chân kê mông, lót nệm lót gối để cho êm ái. Trong và ngoài thất các con ở nào là giàn, là kệ, dây sào, v.v... tất cả bày biện, treo móc, giăng mắc... coi chẳng ra gì, y như một cái quầy hàng xén. Cuộc đời tu hành mỗi ngày người ta buông xả xuống, còn các con mỗi ngày mỗi ôm vô thì làm sao cuộc sống của các con “trắng bạch như vỏ ốc”, tâm hồn các con “phóng khoáng như hư không”. Thật là hổ thẹn!
6-Khuya dậy thì không đúng giờ (trễ 5 - 10 phút); mùng, mền không xếp gấp gọn gàng; thức thì không tỉnh táo, ưa thích ngồi cho an, mắt nhắm lim dim ngồi gục tới gục lui; lại còn chế pháp đưa tay lên xuống, qua lại như người đang múa, không oai nghi chút nào; đi kinh hành thì lười biếng sợ mỏi chân, sợ lạnh... thích nuôi dưỡng cái thân. Thật là quá tệ!
7-Tu hành thì phải tự mình tư duy triển khai tri kiến trí tuệ để vượt lên những chướng ngại. Mỗi lần như vậy, trí lực của các con càng mạnh mẽ, vững chãi hơn, nhanh nhẹn sáng suốt hơn. Cớ sao các con lại để tâm trí mình thụ động, liệt tuệ, chỉ còn biết vay mượn tạm bợ tri kiến của người khác. Thầy cho người đến nhắc nhở, hướng dẫn giúp các con tháo bỏ những vấn đề dính mắc mà xả tâm, để rồi tiếp tục an trú tu tập. Trái lại, các con thích hội họp, thích nói chuyện cho vui và hỏi những chuyện đâu đâu không lợi ích, hỏi ngoài tầm hiểu biết của con người (hỏi về cõi chết). Đây cũng là cách thức phá độc cư; dù có tu ngàn đời, mãi mãi các con cũng không thấy đạo. Thật là vô bổ!
Tất cả những điều Thầy đã nêu trên, các con hãy tự kiểm điểm lại mình, phải lượng sức mình cho kỹ. Vào Tu Viện Chơn Như mà không chịu xả bỏ dục lạc thế gian thì tu tập có ích lợi gì hỡi các con! Nếu không đủ khả năng, Thầy khuyên các con hãy trở về với gia đình sống lợi ích cho con cho cháu. Chứ ở Tu Viện mà phạm giới, phá giới thì Thầy không thể giúp gì được cho các con, ngược lại, các con phải mang nợ đàn na tín thí, trả biết bao giờ cho hết.
Thầy đề nghị Ban Quản lý thường xuyên kiểm tra xem xét từng khu vực. Tu sinh nào vi phạm Thanh Quy của Tu Viện lần thứ nhất được nhắc nhở, lần thứ hai còn tái phạm thì chuyển ngay ra Khu Tiếp nhận để quý sư hướng dẫn thêm. Nếu vẫn vi phạm không sửa, tốt hơn chúng ta mời họ ra về. Đây là chúng ta thương họ, chớ không phải thiếu tình người đâu các con ạ!
Sau cùng, Thầy có lời khuyên đến tất cả các tu sinh đang có mặt tại Tu Viện Chơn Như: “Nếu các con không tu thì thôi, còn quyết tâm tu hành thì phải có ý chí, nghị lực vứt bỏ những thứ tầm thường của thế gian, sống đúng trọn vẹn trong Giới hạnh, nhất định không vi phạm một lỗi nào. Hãy cố gắng vượt lên làm Thánh các con ạ! Để trở thành những đệ tử ưu tú của Thầy, xứng đáng là những tu sĩ, cư sĩ của Phật giáo”.
Kính ghi
Thầy của các con
HẾT
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU SÁCH
Sách của Trưởng lão Thích Thông Lạc chỉ tặng, không bán. Bản gốc đầy đủ, phiên bản lưu hành nội bộ của một số đầu sách có đăng tải trên trang mạng của Tu Viện. Xin các bạn tìm đọc:
1- Đạo Đức Làm Người - tập I, II. (2013)
2- Sống Mười Điều Lành. (2012)
3- Những Lời Gốc Phật Dạy - 4 tập. (2011)
4- Đường Về Xứ Phật - 10 tập. (2011)
5- Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống - 2 tập. (2011)
6- Lòng Yêu Thương - tập I. (2012)
7- Lòng Yêu Thương - tập II. (2013)
8- Linh Hồn Không Có. (2010 - Quý IV)
9- Người Phật Tử Cần Biết - 2 tập. (2012)
10- Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ. (2013)
11- Giới Đức Làm Người - 2 tập. (2010)
12- Thanh Quy Tu Viện Chơn Như. (2010)
13- Mười Hai Cửa Vào Đạo. (2012)
14- Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu. (2010)
15- Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo. (2010)
16- Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Môn Nào. (2010)
17- Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh. (2011)
18- Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh. (2011)
19- Lịch Sử Chùa Am. (2010)
20- Giáo Án Rèn Nhân Cách Lớp Ngũ Giới: Đức Hiếu Sinh - tập I, II, III. (2012)
21- Giáo Án Rèn Nhân Cách Lớp Ngũ Giới: Đức Ly Tham - tập I. (2013)
22- Giáo Án Rèn Nhân Cách Lớp Ngũ Giới: Đạo Đức Gia Đình - tập I. (2012)
23- Thọ Tam Quy, Ngũ Giới. (2012 - Trích từ “Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ”)
24- Pháp Tu Của Phật (từ Tứ Chánh Cần đến Tứ Niệm Xứ) - Thời Khóa Tu Tập Trong Thời Đức Phật - Tứ Vô Lượng Tâm - (Niệm Phật) Tứ Bất Hoại Tịnh. (2013)
25- Những Bức Tâm Thư - 3 tập. (2013-2014)
26- Những Lời Tâm Huyết.
27- Phật Giáo Có Đường Lối Riêng Biệt.
28- Hướng Dẫn, Nhắc Nhở Tu Sinh Tu Học Tại Tu Viện Chơn Như.
✿✿✿
Sách này do phật tử nhiều nơi, cả trong nước và nước ngoài phát tâm ấn tống. Ước mong mọi người sẽ cùng nhau sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
NHỮNG BỨC TÂM THƯ
TẬP 3
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
-----------------------------------------
Nhà Xuất bản Tôn giáo
Số 53 Tràng Thi - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Điện thoại: (04) 37822845 - Fax: (04) 37822841
Email: nhaxuatbantongiao@gmail.com
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Nguyễn Công Oánh
Biên tập: Lê Hồng Sơn
Bìa & Trình bày: TVCN
Sửa bản in: Ngọc Phúc
Đối tác liên kết:
TU VIỆN CHƠN NHƯ
Ấp Gia Lâm - Xã Gia Lộc - Trảng Bàng - Tây Ninh
Điện thoại: (066) 389.2911 - 0979.520.554
Email: chonnhu2@gmail.com
Số lượng in: 5.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm
In tại CÔNG TY CP IN KHUYẾN HỌC PHÍA NAM
TP.HCM - ĐT: (08) 38164415
Số xuất bản: xxx-2014/CXB/xxx-xxx/TG
In xong và nộp lưu chiểu Quý xxx năm 2014
1- “vô” có nghĩa là không