Tâm Quang Từ Đắc sưu tầm
(trích Pháp Thoại của Hoà Thượng)
Tháng 5/2000
Tập “Cẩm Nang Tu Phật” nầy khởi đầu chỉ là quyển sổ tay của chúng tôi, ghi lại những lời hay, ý đẹp, trích từ các quyển sách Đường Về Xứ Phật (tập I-VI), Những Lời Phật Dạy, Hành Thập Thiện, và tài liệu đánh máy 26 trang (của đạo hữu Minh Kiên ghi lại hai cuồn băng Thiền Căn Bản I) của Hòa Thượng Chơn Như. Một số huynh đệ ở miền Nam California tán thán việc làm ấy và khuyến khích chúng tôi đánh máy và phổ biến cho bạn bè cùng đọc. Thiết nghĩ đây cũng là một dịp để giúp cho các huynh đệ tìm về giáo lý Nguyên Thủy, tu tập đúng như lời Phật dạy và cũng là một cách báo ơn Phật và đền ơn Hòa Thương Chơn Như, người đã từ bi chỉ dạy cho chúng ta con đường mà Thầy đã đi qua, chúng tôi phát tâm đánh máy tập “Cẩm Nang Tu Phật” nầy.
Để giúp các bạn làm quen với giáo lý Thiền Nguyên Thủy, chúng tôi tập trung ở những trang đầu giải thích các thuật ngữ như: Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Tứ Thánh Định, Định Vô Lậu, vv... Về các loại Định, xin xem trang 35, 36. Một số chữ viết tắt dùng trong tập nầy:
Số La Mã I, II, IV là Quyển Đường Về Xứ Phật I, II,IV Số thường đứng sau số La mã để chỉ số trang dẫn chứng trong sách. Thí dụ:
II/157-159: trích quyển Đường Về Xứ Phật, quyển II, từ trang 157 đến 159.
NLPD: Những Lời Phật Dạy TCB I: Thiền Căn Bản I, tài liệu đánh máy, ghi lại từ băng giảng Thiền Căn Bản I của Hòa Thượng.
(Những chữ in nhỏ trong dấu ngoặc) : chú thích riêng của người sưu tập Chúng tôi là những cư sĩ đã bất hạnh không được tu tập đúng chánh pháp –mấy chục năm tu học và hành trì đủ mọi pháp môn, từ Tịnh, sanh Mật, rồi qua Thiền. Khi đọc Kinh, thấy “Như thị ngã văn ...” thì tin là Kinh của Phật thuyết (nào ngờ một số Kinh đã được người sau sáng tác) , khi đọc các kinh sách của các bậc tôn túc và học giả uyên thâm (nhưng không phải hành giả) , thấy lý luận sắc bén, mạch lạc, có chứng cứ hẳn hòi thì ai cũng phải tin theo. Thế là chúng tôi cứ đọc, nhồi nhét thật nhiều để bàn thảo với bè bạn, chứng tỏ rằng mình “tu” nhiều, hiểu rộng. Không ngờ đó chỉ là “tưởng giải”, là “nhai lại đờm dãi của người xưa”, như Hòa Thượng Chơn Như đã nói.
Nói Thiền cũng chỉ là”khẩu đầu Thiền”, nói Tịnh mà tâm mình chẳng bao giờ tịnh, nói mình là Đại Thừa mà tâm địa hẹp hòi, nhỏ nhen hơn người Tiểu Thừa, tu tập lâu năm mà Tham, sân Si vẫn còn đủ, ngã mạn càng cao ... Nghĩ lại càng thêm xấu hổ.
Bây giờ, sau khi đọc thật kỹ, suy nghĩ và hành trì theo pháp môn Nguyên Thủy do hòa Thượng Chơn Như giảng dạy, triển khai, hướng dẫn tường tận, qua hai cuồn băng Thiền Căn Bản I, nhất là sau khi nghiền ngẫm đối chiếu sáu quyển Đường Về Xứ Phật, chúng tôi càng thấy thắm thía. Chúng tôi bắt đầu thực tập thiền xả tâm (thay vì ức chế tâm) “ngăn ác, diệt ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện ” (Tứ Chánh Cần).
“Thiền xả tâm là một thứ thiền tu hành trong bất cứ oai nghi nào cũng đều giữ gìn thân được khinh an, và tâm được thanh thản, an lạc, vô sự. Thiền xả tâm là một thứ thiền tu hành có giải thoát liền, càng tu càng cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, an ổn..” (NLPD / 154 -158) Chúng tôi tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và Định Vô Lậu một thời gian (theo kinh Tứ Niệm Xứ) thấy thân tâm an lạc, thảnh thơi, không còn lo âu, phiền muộn như trước. Pháp Như Lý Tác Ý (trang 13-15) tuyệt vời như thế mà xưa nay chúng ta chưa từng nghe thấy. Chúng ta đã xem thường kinh Nguyên Thủy, vì cho rằng Tiểu Thừa là ích kỷ, vì sau khi chứng A La Hán là nhập Niết Bàn, còn người Đại Thừa thì phát tâm Bồ tát “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”. Tai hại hơn nữa, chúng ta đã không biết, không thực hành được mà lại xem thường Tứ Thiền. Chúng ta đâu có ngờ là A La Hán cũng là bậc có từ bi, trí tuệ và giác ngộ như Phật .
Tập sách nầy chỉ là phần trích ra từ các sách của Hoà Thượng và sắp xếp theo chủ quan của chúng tôi. Xin quý vị hoan hỷ chỉ dạy thêm để được hoàn hảo hơn. Xin ị hãy cùng chúng tôi đọc nhiều lần, suy gẫm, rồi thực hành, quý vị sẽ thấy lời Phật dạy thật tuyệt vời. Vậy mà bấy lâu nay không có người hành trì và chứng ngộ như Phật và các đại đệ tử của Ngài, chỉ vì kinh điển của Đức Thế Tôn đã bị bóp méo, và “tam sao thất bổn”.
Thật là đại phước cho những ai có cơ duyên được gần gủi, tu tập trực tiếp với Hòa Thượng Chơn Như. Hòa Thượng đa thực tập hoàn toàn theo kinh điển của Phật giáo Nguyên Thủy và đã chứng ngộ Tứ Thiền, Tam Minh. Trước đó, Thầy đã bỏ ra gần hai chục năm trời tu tập đủ các pháp môn vẫn không có kết quả, không giải thoát sanh già, bệnh chết (chỉ được “tưởng tuệ” và kiến giải 1.700 công án mà thôi).
Để chấm dứt, chúng tôi xin trích lại đây mấy câu nói của Hòa Thượng Chơn Như:
“Nếu quý vị biết dùng pháp Như Lý Tác Ý, hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hàng ngày, hằng tháng, hằng năm, thì sự khổ đau sẽ không đến với quý vị, và sẽ chấm dứt vĩnh viễn. Đây là pháp môn mầu nhiệm tuyệt vời. Nếu siêng năng tu tập và giữ đúng giới luật, đừng vi phạm một lỗi lầm nhỏ nào, ăn ngủ, độc cư, sống trầm lặng một mình, thường biết sống nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì kết quả pháp hướng có đủ đạo lực điều khiển, truyền lệnh, làm chủ thân tâm (làm chủ nhân quả), giải thoát sanh già bệnh chết hoàn toàn”.
Kính chúc quý vị thực tập chuyên cần và đạt kết quả như nguyện.
Quận Cam
Mùa Xuân, năm 2000
Tâm Quang Từ Đắc
TỨ CHÁNH CẦN:
Tứ là bốn, chánh cần là siêng năng, cần mẫn, chân chánh. Đây là bốn phép chân chính mà người tu Phật phải siêng năng, cần mẫn tu tập từng giây, từng, phút, từng giờ, không được biếng trễ, hay dễ dãi, lơ đểnh.
TỨ NIỆM XỨ:
Tứ là bốn; niệm là nhớ, là suy tư, là pháp; xứ là nơi, chốn, chỗ . Tứ niệm xứ là bốn chỗ đặt pháp môn tu tập, trao dồi, làm cho bốn chỗ đó thanh tịnh, trở thành giải thoát, không còn ô nhiễm các pháp thế gian.
TỨ THÁNH ĐỊNH:
Thánh là bậc trong sạch, thanh tịnh không còn nhiễm ô thế tục, dính mắc dục lạc thế gian; định là sự bất động của tâm, sự yên lặng của thân tâm, sự vắng lặng của không gian, sự ngưng hoạt động trong thân và sự thanh tịnh của tâm.
Tứ Thánh Định là pháp môn của bậc thánh đạt được sự thanh tịnh, yên lặng, và bất động của các hành nơi thân, thọ, tâm và pháp.
TỨ NHƯ Ý TÚC: (Bốn Phép Như Ý) Như ý là theo ý muốn của mình; túc là đủ, đầy đủ. Đây là pháp thực hiện tâm muốn điều gì thì thực hiện đầy đủ điều ấy. Tứ Như Ý Túc là:
1/. Dục như ý túc : Lòng mong muốn đạt được đạo quả giác ngộ.
2/. Định như ý túc (Tâm/Niệm như ý túc): tâm chuyên chú vào đạo quả giác ngộ.
3/. Tinh tấn như ý túc: chí kiên trì tiến tới đạo quả giác ngộ.
4/. Quán như ý túc (Tư duy như ý túc): Tham cứu, suy tư, quán chiếu về thực tại để đạt được đạo quả giác ngộ.
THANH TỊNH TÂM:
Khi tâm thanh tịnh thì tâm có đủ đạo lực điều khiển sự sống chết và luân hồi:
1/. Tâm thanh tịnh là tâm ly dục, ly ác pháp.
2/. Tâm thanh tịnh là tâm đoạn dứt lậu hoặc.
3/. Tâm thanh tịnh là tâm đoạn dứt các kiết sử, vén sạch màn vô minh, ngũ triền cái.
4/. Tâm thanh tịnh là tâm bất động trước các pháp.
5/. Tâm thanh tịnh là tâm của đạo Phật.
6/. Tâm thanh tịnh là mục đích, cứu cánh của đạo phật.
7/. Tâm thanh tịnh là giới hạnh nghiêm túc của một vị tỳ kheo.
8/. Tâm thanh tịnh là tâm tuyet thông, đạo thông của một vị tỳ kheo.
TU ĐỊNH VÔ LẬU CÓ RƠI VÀO TÙY MIÊN KHÔNG ?
Hỏi: Trong khi tu định vô lậu để thấu rõ thân tứ đại nầy là vô thường, quán xét từ đầu đến chân, rồi từ chân đến đầu, quán đi, quán lại, quán tới, quán lui, rồi chuyển sang quán thân bất tịnh, vv.. Quán cho tới hết thời gian, quán liên tục như vậy có rơi vào tùy miên không? Xin Thầy chỉ dạy.
Đáp : Quán xét tư duy của định vô lậu, mục đích là sự tìm hiểu sự thật của các pháp để thấu rõ các kiến chấp lầm lạc của loài người từ xưa đến nay (cho rằng các pháp đều có thật; sắc, thọ, tưởng là ngã, là của mình, là tự thể bản ngã, là có, là không, vv..) Do sự quán xét để thấu rõ lý của các pháp, không lầm chấp, nên sự quán xét ấy không thể gọi là tùy miên. Tùy miên có nghĩa là một trạng thái miên man, suy tư liên tục, chuyển từ cái nầy sang cái khác mà mất sự chủ động. Còn quán xét vô lậu thì có tâm chủ động điều khiển từng đề mục quán.
TỌA THIỀN, NGỌA THIỀN Tọa Thiền là ngồi thiền, hoặc bán già, hoặc kiết già. Ngọa Thiền có nghĩa là nằm thiền, nằm theo kiểu kiết tường.
Thiền không phải ở chỗ ngồi hay nằm, mà chính ở chỗ tâm ly dục, ly ác pháp, ở chỗ tâm bất động trước các pháp . Thiền chuyên ngồi sẽ đưa hành giả thành “cóc” tọa thiền. Thiền chuyên nằm sẽ đưa hành giả thành “rắn” ngọa thiền.
Tọa thiền là hình thức tu tập để gom tâm và nhiếp phục chớ không phải tọa thiền để làm Phật, để được giải thoát. Còn ngọa thiền là một hình thức tu tập lười biếng, dễ rơi vào thùy miên, vô ký, mộng tưởng, vv..
SỔ TỨC QUÁN VÀ ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ có giống nhau không:
Sổ Tức Quán và Định Niệm Hơi Thở khác nhau rất xa. Sổ tức quán là ức chế tâm bằng cách đếm số. Định niệm hơi thở là dùng pháp như lý tác ý nên nhẹ nhàng diệt tầm, tâm tỉnh thức hoàn toàn, không bị loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên, vô ký.
Sổ tức quán do ức chế tâm diệt tầm tứ, nhưng chẳng đưa hành giả đến đâu. Chỉ lanh quanh ở mê hồn trận của xúc tưởng hỷ lạc, nên chẳng có ích lợi gì cho người tu.
Định niệm hơi thở là pháp môn giúp cho hành giả tu tập nhập các loại định khác để đạt được viên mãn cứu cánh, cho nên nó là pháp môn có hiệu quả và lợi ích lớn.
Hành giả tu tập mà bỏ định niệm hơi thở thì kết quả chẳng có ích gì. (II / 152) TẠI SAO NGƯỜI TA GỌI TỨ THÁNH ĐỊNH LÀ THIỀN TIỂU THỪA, THIỀN PHÀM PHU, THIỀN NGOẠI ĐẠO ?
Tứ Thánh Định là một loại Thiền rất đặc biệt mà từ xưa, trước khi có đạo Phật cho đến ngày nay, chưa ai thông hiểu cách thức tu tập cơ bản của nó, và cũng không có một học giả nào tưởng giải ra được, ngoài Đức Phật. Ngài đã phát hiện ra cách tu tập thiền định nầy rất cụ thể và rõ ràng. Tiếc thay, các nhà học giả không có tu tập và thực hành được, các ngài không tưởng giải ra được, cho nên các ngài lập luận quăng ném nó ra ngoài kinh điển phát triển (Đại Thừa). Những nhà viết kinh điển Đại Thừa cũng không sao giải thích được Tứ Thánh Định nầy, nên họ bịa đặt ra cái tên Tiểu Thừa Thiền, Phàm phu Thiền; và độc ác hơn nữa, họ gọi đó làThiền ngoại đạo! Đến bây giờ cũng chẳng có nhà học giả nào triển khai Tứ Thánh Định được, nên gặp Tứ Thánh Định là họ lờ đi. Kinh sách thì các nhà học giả viết rất nhiều về Tứ niệm Xứ, Tứ Diệu Đế, Sổ Tức Quán, Thập Nhị Nhân Duyên. Chưa hề có cuốn sách nào nói về Tứ Thánh Định rõ ràng.
Tứ Thánh Định là pháp môn làm chủ được “sanh , lão, bệnh, tử” , tức là p háp môn giải quyết kiếp sống con người, chấm dứt đau khổ và luân hồi. Đây là một pháp môn tuyệt vời, có đạo lưc kinh khủng, tịnh chỉ hơi thở và các hành trong thân một cách tài tình. Vậy mà có mấy ai biết được pháp môn quý vô giá nầy? Người ta không hiểu, không thực hành được mà dám gọi là Tiểu Thừa thiền, phàm phu thiền, ngoại đạo thiền! (II / 151)
TẠI SAO PHẬT GIÁO LẤY GIỚI LUẬT LÀM PHÁP MÔN ĐẦU TIÊN ĐỂ TU TẬP, CÒN CÁC NHÀ ĐẠI THỪA (BẮC TÔNG) VÀ THIỀN TÔNG THÌ CHÚ TRỌNG VÀO THIỀN ĐỊNH VÀ TRÍ TUỆ ĐỂ TU TẬP ?
Đạo Phật thấy suốt được lý nhân quả nên tất cả giáo pháp của mình đều xây dựng trên nền tảng của thiện pháp (sơ thiện, trung thiện và hậu thiện).
Giới luật của đạo Phật gồm có: giới bổn, giới đức, giới hạnh, giới tuệ và giới hành. Nói đến giới tức là nói đến thiện, nói đến thiện tức là nói đến sự an vui, thanh thản của tâm hồn, mà đã an vui thanh thản là giải thoát cái khổ của cuộc đời.
Muốn được an vui thanh thản trong đời không gì hơn là sống đúng giới luật.
Nhờ giới luật mà tâm mới ly đươc ác pháp, và lòng ham muốn của mình . Tâm ly được ác pháp và lòng ham muốn thì tâm trong sạch và thanh tịnh. Vì thế Đức Phật dạy:
“Giới sanh định”. Khi tâm đã có định, thì định là một sự nghỉ ngơi của thân và tâm.
Do sự nghỉ ngơi nầy tâm được lóng sáng, nên tâm rất sáng suốt, không còn bị kiến chấp, ngã chấp, thấy suốt lậu hoặc của con người là khổ.
Nhờ sự thấu suốt nầy mà hành giả giải thoát hoàn toàn khỏi lậu hoặc. Đó là lý do Đức Phật dạy: “Định sanh tuệ”.
Cho nên trong Tứ Thánh Định, Đức Phật dạy rằng: “ ly dục, ly ác pháp, nhập sơ thiền”; tức là do ly dục sanh hỷ lạc. Khi nào tâm định trên thân, thân định trên tâm thì hành giả hướng đến tam minh sẽ thấu rõ túc mạng minh, thiên nhãn minh, và lậu tận minh. Ba minh nầy đã viên mãn tức là trí tuệ giải thoát của đạo Phật đã hiển hiện, hành giả hoàn toàn giải thoát, “làm chủ sanh tử”, chấm dứt luân hồi.
Ngược lại, đạo Phật Đại Thừa Bắc Tông lấy kiến thức học tập làm trí tuệ (sự hiểu biết), còn Thiền Tông nhắm diệt trừ vọng tưởng làm trọng và cho rằng không cần giữ giới (“Tâm bình chẳng cần giữ giới, hạnh thẳng nào dụng tham thiền”, Lục Tổ, Pháp bảo Đàn Kinh). Thế nên, ngày nay, nhiều người than phiền về oai nghi và đức hạnh của các vị tỳ kheo và tỳ kheo. Một số tu sĩ sống đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, cũng có vợ, con, danh lợi giống như người thế gian. (II/ 152, 153)
“Ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp”, đó là lời dạy tu tập thiền định của đạo Phật, một thứ thiền ly dục, ly ác pháp, để khắc phục tâm tham ưu của hành giả để đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh già bệnh chết, và chấm dứt sanh, thử, luân hồi.
Ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện là pháp môn “Tứ chánh cần, là tấn lực, là định tư cụ, là giới luật của đạo phật”. Đây là pháp môn vô lậu đệ nhất của đạo Phật. Khi một hành giả bước chân vào đạo Phật mà được hướng dẫn tu tập ngay liền pháp môn này, thì chắc chắn phải thấy kết quả giải thoát không có thời gian chờ đợi. Người được hướng dẫn pháp môn này là người có phước duyên đầy đủ với đạo giải thoát sâu xa nhiều đời.
Chúng tôi không đủ nhân duyên, khi bước chân vào chùa lúc tám tuổi, không được dạy tu hành theo pháp này, mà chỉ được Thầy và Tổ dạy cho hai đường công phu chiều và khuya. Rồi học thêm ứng phú đạo tràng, đánh đẩu, trống, mỏ để tụng kinh, niệm Phật, cầu siêu, cầu an, làm tuần, làm tự, cúng vong, tiễn linh, cúng sao, giải hạn, xem ngày tốt xấu xây cất nhà, dựng vợ, gả chồng, xây mồ mả; và những lúc rảnh rang thì lần chuỗi, niệm Phật, lục tự Di Đà vv…..
Đến bây giờ chúng tôi mới hiểu Thầy Tổ chúng tôi chỉ dạy cho chúng tôi một cái nghề để sống như bao nghề khác. Nhưng nghề khác thì lương thiện hơn, còn nghề của chúng tôi thì chẳng lương thiện chút nào cả. Nó là một nghề mê tín, chuyên lừa đảo, dối gạt người để ngồi mát ăn bát vàng. Chúng tôi ở trong chùa, hằng ngày mang chuông, mỏ, đẩu đi tụng kinh đám ma, hết đám nầy đến đám khác. Không tụng đám ma thì tụng kinh cầu an, cầu siêu, vv….. Quanh năm suốt tháng chúng tôi hành cái nghề này, thấy sao mà giả dối, chúng tôi suy đi nghĩ lại rất buồn khổ trong lòng, nhưng không dám nói với ai. Mà hỏi đến các Thầy Tổ thì bị la rầy, mắng và còn bảo nói bậy sẽ bị đoạ địa ngục.
Mãi cho đến khi chúng tôi được về thành phố, vì chiến cuộc ở nông thôn bất an và được học thêm giáo lý của đạo Phật. Chừng đó mới thấy giáo lý Thiền Tông hay quá, không dạy làm điều mê tín, mà chỉ dạy tu tập hết vọng tưởng để thành Phật. Theo pháp môn nầy, chúng tôi phải bỏ chín năm trời tu tập, đem hết sức tu tập, ức chế vọng tưởng không còn sanh khởi trong đầu . Nhưng nhìn lại cũng không tìm thấy sự làm chủ sanh, già, bệnh chết. Chỉ có một tưởng giải gọi là “kiến tánh”, thường tranh luận hơn thua. Sau nầy, chúng tôi nhờ giới đức làm người, làm Thánh của đạo Phật (tu tập theo Kinh điển Nguyên Thuỷ), chúng tôi sống đúng và cảm thấy tâm mình thanh thản an lạc.
Giới đức của đạo Phật không phải là pháp môn nào khác hơn “Tứ Chánh Cần”, ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Chỉ có pháp môn này mà chúng tôi làm chủ sanh, già, bệnh chết.
TU CHÁNH CẦN NHƯ THẾ NÀO?
? Thân hành niệm ngoại (trên hành động của thân). Tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Đây là pháp môn ngăn ác tuyệt vời. Tập tỉnh thức để phá vô minh, tỉnh thức trong chánh niệm. Tập tỉnh thức trong từng hành động (khi đi, biết là mình đi; khi đứng, biết là mình đứng; khi ngồi, biết là mình ngồi). Ghép lại hai danh từ thành Chánh niệm Tỉnh Giác Định. Đây là một loại định xả tâm, diệt ngã, ly dục, ly ác pháp mang đến cho hành giả từng phút, từng giây giải thoát.
? Thân hành hướng nội: Tu Định Niệm Hơi Thở (Không phải là Sổ Tức, Tùy Tức, vì đó là ức chế tâm). Thí dụ: “Quán ly tham tôi biết tôi thở vào, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” (5 lần), “Quán ly sân, tôi thở vào, quán ly sân, tôi thở ra” (5 lần) Hai pháp môn này ngăn ác, chặn ác thật tuyệt vời. Nếu hành giả siêng năng tu hành tinh tấn thì các ác pháp không xen vào tâm mình, nghĩa là tâm không phóng dật.
Tâm luôn luôn hướng vào trong thân và định vào trong thân. Tâm hồn hành giả lúc nào cũng thanh thản, và an lạc vô sự. Cuộc sống trở thành trầm lặng, thánh thiện và độc cư.
Nếu ác pháp đã sanh làm cho tâm hồn mình đau khổ, phiền toái, giận hờn, lo âu thì phải mau lo đoạn diệt.
Ngũ Cái hay Ngũ Triền Cái là năm cái màn che đậy:
1/. Tham triền cái : Tham là lòng ham muốn của mình che đậy, làm cho mình không thấy vật ham muốn đó sẽ làm khổ mình.
Thí dụ thấy một chiếc xe Dream (xe mô tô hiện đại của Nhật) khởi tâm ham muốn, tìm mọi cách làm để mua sắm nó. Đó là cái khổ thứ nhất.
Đến khi sắm được xe, chạy xảy ra tai nạn gảy chân tay. Đó là cái khổ thứ hai.
Thế mà khi lòng ham muốn nổi lên, người ta không thấy cái khổ. Cho nên gọi đó là triền cái (ngăn che không thấy khổ).
2/. Sân triền cái là lòng tức giận, ngăn che không thấy khổ. Thí dụ khi nghe người khác mạ nhục, mình tức giận rút cây, hoặc dao rựa ra đánh, hoặc chém người cho hã giận. Khi hết giận thì sự khổ phải ôm lấy, như nằm nhà thương, hoặc ở tù. Lòng sân che đậy không thấy sự khổ sẽ đến với mình đầy dẫy trong cuộc sống hàng ngày nên gọi là sân triền cái.
3/. Si triền cái là cái màn che trí tuệ làm cho nó không hiểu biết chánh pháp, tà pháp, thiện ác. Ví dụ, người ta nói thiền xuất hồn là của đạo Phật, chúng ta liền tin theo, mà không cần suy nghĩ, đó là si triền cái.
4/. Mạn triền cái là cái tự kiêu, tự đại che ngăn làm cho mình không thấy cái chỗ dở của mình. Thí dụ như mình ăn phi thời, phá giới luật, có vợ con, mà vẫn xem mình là một thầy tu, hiu hiu tự đắc, lên pháp đường thuyết giảng mà không biết xấu hỗ, thì đó là bị mạn triền cái ngăn che.
5/. Nghi triền cái là cái lòng nghi ngờ ngăn che không thấy sự thật. Ví dụ, người ta nói một số pháp môn tu tập hiện hành là mê tín, là không đúng theo lời dạy của Phật, mình không tin, nghi ngờ lời nói đó sai (vì các pháp môn nầy do các Thầy, Tổ truyền lại). Chỉ tin vào Thầy, Tổ mà không chịu tìm hiểu cho rõ ràng, đó là bị nghi triền cái che ngăn.
Thất Kiết Sử là bảy pháp trói buộc con người, khiến cho đau khổ. Bảy pháp đó gồm có:
1/. Ai kiết sử: lòng thương yêu, ưa mến, thích thú của mình đã trói buộc lại mình, làm khổ mình.
2/. Sân kiết sử: lòng sân hận, buồn tức, giận dữ của mình đã trói buộc lại mình, làm hổ mình.
3/. Kiến kiết sử: sự cố chấp cho sự hiểu biết của mình là đúng, còn tất cả sự hiểu biết khác cho là sai. Thế là nó đã trói buộc mình, làm khổ mình, và ai nói gì mình cũng chẳng nghe.
4/. Nghi kiết sử : lòng nghi ngờ tự trói buộc mình, chẳng bao giờ chịu rời bỏ khiến cho mình mất hết nghị lực.
5/. Mạn kiết sử : lòng ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, tự trói buộc mình, lúc nào cũng tự xem mình là trên hết. Chính lòng hiu hiu tự đắc nầy đã làm khổ mình mà không dứt bỏ.
6/. Hữu tham kiết sử : những vật mà mình buông bỏ chẳng được, cứ bị nó trói buộc, làm khổ mình hoài.
7/. Vô minh kiết sử: điều mình không hiểu mà cứ nghĩ rằng mình đã hiểu.
Thí dụ: không hiểu Tứ Thánh Định mà cứ cho là mình hiểu nên xếp nó vào loại Tiểu Thừa thiền, phàm phu thiền, ngoại đạo thiền. Không ngờ thiền nầy là Thánh Trú, là Phạm Trú, Như Lai Trú, vv..
(IV / 119) Muốn thoát kiếp khổ làm người thì phải thực hiện một đời sống phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo (giới luật), và tập sống tỉnh thức trong từng niệm của cuộc sống , không làm khổ mình, khổ người. Bằng một ý thức cụ thể, rõ ràng, đối với các pháp, luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác, không để tưởng thức xen vào. Tưởng thức xen vào sẽ làm mất ý thức tỉnh giác đối với các pháp.
1/. Thế nào là tỉnh thức? (I / 61) Người tu Phật, khi mê biết mình mê là tỉnh thức; lúc tỉnh, biết mình tỉnh là tỉnh thức.
Tâm mình tham biết tâm mình tham là tỉnh thức.
Tâm mình sân, biết tâm mình sân là tỉnh thức.
Tâm mình phiền não, biết tâm mình phiền não là tỉnh thức.
Tâm mình khởi niệm ác, biết tâm mình khởi niệm ác là tỉnh thức.
Tâm mình lo rầu, biết tâm mình lo rầu là tỉnh thức.
Đi, biết mình đi; ăn, biết mình ăn là tỉnh thức.
Đó là mấu chốt giải thoát của đạo.
2/. Tu tập tỉnh thức bằng cách nào ? (I / 62) ? Định Niệm Trong Hơi Thở là phương cách tỉnh thức trong hơi thở.
? Định Vô Lậu là phương cách tỉnh thức trong quán xét tư duy .
? Định Sáng Suốt là phương cách tỉnh thức hôn trầm, thùy miên, vô ký .
? Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là phương cách tỉnh thức trong từng hành động .
? Định Sơ Thiền là ly dục, ly ác pháp.
Định diệt ác tầm, giữ tứ là phương cách giữ gìn tâm trong tác ý.
? Định Nh?Thiền Định diệt tầm, diệt tứ là phương cách giữ gìn tâm yên lặng.
? Định Tam Thiền là phương cách vượt qua mọi trạng thái tưởng.
Định ly hỷ, trú xả là phương cách giữ tâm trong giấc ngủ; xả mộng tưởng. Tịnh chỉ âm thanh là phương cách giữ tâm vắng lặng.
Tịnh chỉ các thọ là phương cách giữ tâm vắng lặng vượt qua thọ.
? Định Tứ Thiền là phương cách tịnh chỉ hơi thở và các hành là phương cách tỉnh thức giữ tâm vắng lặng toàn thân.
3/. Lợi ích của sự tỉnh thức (I / 60, 61) Sức tỉnh thức có lợi ích rất lớn trên đường tu tập.
? Có tỉnh thức mới sáng suốt , sống được chánh niệm.
? Có tỉnh thức mới ở trong chánh niệm.
? Có tỉnh thức mới phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký.
? Có tỉnh thức mới tịnh chỉ ngôn ngữ.
? Có tỉnh thức mới thấy được nhân quả.
? Có tỉnh thức mới ly được lòng ham muốn.
? Có tỉnh thức mới ly các ác pháp.
? Có tỉnh thức mới giữ tứ, diệt tầm (Sơ Thiền).
? Có tỉnh thức mới tịnh chỉ tầm, tứ (Nhị Thiền).
? Có tỉnh thức mới xả được 18 loại hỷ tưởng.
? Có tỉnh thức mới xả được mộng tưởng.
? Có tỉnh thức mới xả được âm thanh (Tam Thiền).
? Có tỉnh thức mới tịnh chỉ hơi thở (Tứ Thiền).
? Có tịnh thức mới tu Tứ Như Ý Túc.
? Có tỉnh thức mới hướng đến Tam Minh.
Toàn bộ giáo trình của đạo Phật, quan trọng nhất là tập tỉnh thức. Có được tâm tỉnh thức mới đạt được Niết Bàn giải thoát.
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý,
Chị chư phật giáo.
dịch
Các pháp ác chớ làm,
Các pháp thiện nên làm.
Tự tâm ý thanh tịnh,
Đây lời chư Phật dạy.
Tất cả các pháp môn của Đức Phật đều dạy chúng ta thực hiện thiện pháp. Chỉ có thiện pháp mới giải quyết được mọi sự đau khổ của chúng ta.
Thân tâm của chúng ta được thanh tịnh, an vui, thanh thản và vô sự cũng nhờ nơi thiện pháp. Sanh tử, luân hồi, nếu không do thiện pháp thì cũng không làm chủ được nó. Thiền định có nhập được cũng do thiện pháp. Ngoài thiện pháp đi tìm thiền định thì không bao giờ có. Do đó, chúng ta thấy ai tu Thiền định mà không giữ gìn giới luật thì biết ngay họ tu tà thiền, tà định. Dù họ có tu muôn đời thì cũng chẳng có kết quả gì, chỉ uổng phí một đời tu hành mà thôi.
Đối với đạo Phật, thiện pháp có một tầm rất là quan trọng trên bước đường tu hành giải thoát. Nếu không tu thiện pháp, dù tu bất cứ pháp môn nào cũng là tu không đúng pháp môn của Phật.
(VI / 134) Pháp ác vô lượng, và pháp thiện cũng vô lượng. Có 10 Pháp Thiện và 10 Pháp Ác áp dụng vào Tứ Chánh Cần là đúng đường lối tu tập.
10 Pháp Thiện là:
1/. Không sát sinh 6/. Không nói lưỡi đôi chiều.
2/. Không trộm cắp 7/. Không nói lời hung ác.
3/. Không tà dâm. 8/. Không tham (ham muốn cái mình chưa có).
4/. Không nói dối. 9/. Không giận hờn.
5/. Không nói thêu dệt. 10/. Không si mê (Không tham ăn, tham ngủ, làm khổ mình, khổ người,tránh xa các pháp, lìa tất cả lòng ham muốn của mình) Ước vọng của mọi người trên thế gian nầy là “mạnh khỏe, sống lâu, hạnh phúc, gặp nhiều may mắn”. Nhưng mà có mấy ai được toại nguyện? Sự thực, đời người là một chuỗi dài đau khổ, phiền lụy về vật chất lẫn tinh thần. Họ chẳng bao giờ có những phút giây an vui, hạnh phúc.
Con người vốn do vô minh, mê mờ, đắm mê vật chất, nuôi lớn ngã mạn, tạo nhiều điều ác độc, không phải chỉ trong một đời nầy mà đã nhiều đời khác nữa. Do đó, ngày nay người ta phải chịu quả báo khổ sở. Vậy mà họ nào có hay biết gì. Cứ mãi chạy theo danh lợi, và tạo thêm nhiều điều ác độc, tội lỗi.
Muốn chấm dứt hoàn cảnh khổ đau của đời sống, muốn vượt thoát cảnh tù tội thế gian, tránh những tai nạn hiểm nghèo, bệnh tật khó trị, hoặc những xung đột, tị hiềm, nhỏ mọn, ích kỷ ... quý vị phải tu Thập Thiện.
THẬP THIỆN là con đường đưa nhơn loại đến nơi hạnh phúc chân thật, vượt thoát khỏi cảnh thường tình thế gian.
THẬP THIỆN rèn luyện con người trở thành người tốt của xã hội hiện nay và mai sau. Nó giúp ta trở thành người điềm đạm, sống khiêm hạ, giản dị, co nhân cách, và đủ sức nhẫn nại vượt qua những thử thách cam go của đời sống.
THẬP THIỆN chuyển cảnh khổ đau, đói rét thành cảnh an vui, no ấm và đưa con người đến cảnh thuận duyên mãi mãi.
THẬP THIỆN giúp cho cuộc sống chúng ta trở thành một cuộc sống đạo đức chân thật, làm gương tốt cho mọi người soi.
THẬP THIỆN giúp cho chúng ta không thành kẻ hung ác, sát nhân, trộm cướp, hiếp dâm. Nhờ thế, tâm hồn chúng ta không còn lo sợ tù tội thế gian và đọa ba đường ác.
THẬP THIỆN giúp cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm lỗi lầm, tội ác.
Người không tu THẬP THIỆN thì ba nghiệp tạo đủ 10 điều ác, gây nhơn khổ đau ở cõi địa ngục. Địa ngục là con đường đau khổ nhất trong sáu nẽo luân hồi. Đâu có đợi xuống địa ngục mới khổ, mà ngay trong cuộc sống hiện tại này, nếu ai đã làm đủ 10 điều ác, chắc chắn phải chịu một đời hoàn toàn đau khổ.
Chúng ta cứ xem một kẻ ưa làm điều ác: sát sanh, trộm cắp, tà dâm ,nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, nói lời hung ác, tham lam, sân hận và si mê. Có lúc nào người nầy được an vui đâu? Dù họ ở địa vị nào trong xã hội, bản thân và tâm hồn của họ vẫn đen tối và khổ đau triền miên.
Phật dạy chúng ta tu THẬP THIỆN cốt để tạo đầy đủ phước đức, đời sau sanh ra sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu trên thế gian.
THẬP THIỆN có ích lợi như vậy, nếu ai đã đủ duyên nghe được THẬP THIỆN, được đọc THẬP THIỆN, được thấy THẬP THIỆN, mà không chiu thực hiện THẬP THIỆN luống để cuộc đời đen tối và khổ đau, thì quả là người quá ngu si.
Được kho báu mà không biết dùng kho báu, đành sống một đời nghèo kho, lang thang là kẻ vô cùng dại dột.
(Trích Lời Nói Đầu trong quyển HÀNH THẬP THIỆN của Hòa Thượng Chơn Như)
Tu Tứ Niệm Xứ Tu Định Vô lậu (quán thân, thọ, tâm pháp). Xem Kinh Tứ Niệm Xứ.
Quán về Luật Nhân Quả Đối chiếu Tam Pháp An Quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã Quán Tứ Đế, Quán 12 Nhân Duyên.
Quán Bất Tịnh.
Quán Ngũ Uẩn không phải là ta, là của ta.
Từ đó mới đẩy lui các ác pháp, và luôn luôn ở trong thiện pháp. Ở thiện pháp tức là tăng trưởng thiện. Vậy chỉ cần ngăn chận 10 Điều Ac tức là đã sanh 10 Điều Thiện, đoạn dứt ác pháp là tăng trưởng thiện pháp. Tóm lại, tu ngăn chận ác pháp bằng Định Niệm Hơi Thở và Định Niệm Tỉnh Giác ; và diệt ác bằng Định Niệm Vô Lậu .
Độc cư là sống trầm lặng một mình, sống tâm quay vào trong, không phóng dật, không kết bè, kết bạn,không nói chuyện phiếm, chỉ lo sống đúng pháp, đúng giới luật. Ngày ngày chuyên cần tu tập, trao dồi thân tâm bằng các pháp Phật đã dạy.
Sống độc cư không có nghĩa là không nói chuyện. Nhưng, có chuyện gì để nói bây giờ? Nên âm thầm, lặng lẽ, nỗ lực tu tập, không có phút giây nào rãnh rỗi mới gọi là độc cư.
Trước các pháp, không bị cám dỗ là độc cư ; trước những thân bằng quyến thuộc không lay động, thương, ghét là độc cư ; trước những lời nhục mạ, phỉ báng tâm không giận hờn, phiền não là độc cư; trước những cảnh thọ lạc, thọ khổ, bất lạc bất khổ mà tâm không lay động là độc cư; trước những éo le đau khổ của kẻ khác tâm vẫn thanh thản, an nhiên, bất động là độc cư; trước những cảnh ác thú và giặc cướp mà tâm vẫn an nhiên, bất động là độc cư. Độc cư không có nghĩa là không nói chuyện, hay là độc câm. (Xem 42 bài kệ của Đức Phật về Độc Cư) II/158 Mục đích của độc cư là giữ tâm chuyên nhất vào pháp hướng tu tập, không phóng tâm ra ngoài. Người không giữ hạnh độc cư để tâm phóng chạy theo trần cảnh sanh ra trạo cử, gọi là tuôn trào. Khi tâm tuôn trào, chạy đi nói chuyện đầu nầy, đầu kia là phá hạnh độc cư. Người được xem là tu sai khi tâm người ấy không bao giờ xả được. Họ chỉ nói xả chứ kỳ thật tham, sân, si, mạn, nghi, thương, ghét, thù oán, tỵ hiềm vẫn như cũ mà còn xảo trá, hung ác nữa. Đức Phật gọi tâm nầy là tâm phóng dật. Người tu hành mà còn để tâm phóng dật thì không thể tu theo đạo Phật được.
Nên trở về đời sống thế gian, trao dồi đạo đức nhân quả thì không nợ nần của đà na thí chủ.
Có người nhập thất một tháng đến ba tháng, rồi xả thất, trở về nhà … Sau đó lại nhập thất tiếp. Tu như vậy suốt đời cũng chẳng tới đâu, vì luôn phá hạnh độc cư.
Người muốn độc cư được trọn vẹn thì phải giữ tâm trong pháp hành không có kẽ hở. Còn có kẽ hở thì tâm theo đó mà phóng ra, khiến cho ta cô đơn vô cùng.
Từ đấy tâm dễ sanh buồn chán tu hành, không còn thích tu nữa. Do đó chỉ còn tu lấy lệ cho qua ngày.
Nếu sống không đúng hạnh độc cư , thường bị phóng tâm chạy theo ngoại cảnh, thì dù tu bất cứ loại thiền nào con cũng sẽ rơi vào tà thiền. Tà thiền ở đây có nghĩa là loại thiền không làm chủ được sự sống chết, và không chấm dứt được luân hồi, tái sanh. (I/112-113)
Vọng tưởng là những tư niệm lăng xăng tự động khởi niệm trong đầu, phần nhiều thụộc về quá khứ vị lai (hồi niệm, hồi ức). Những tư niệm nầy căn gốc đều do lòng ham muốn và ác pháp sanh ra, trong kinh Nguyên Thủy gọi là tầm ác.
Tầm ác là những suy tư, nghĩ tưởng làm khổ mình, khổ người. Theo Kinh Nguyên Thủy có hai loại tầm, gọi là SONG TẦM: tầm thiện và tầm ác. Trong bài kinh Song Tầm, tập I Trung Bộ Kinh, trang 261, Đức Phật dạy: “Có hai loại suy tư:
1. Suy tư ác: tầm ác (dục tầm, sân tầm, hại tầm) 2. Suy tư thiện: tầm thiện (ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm) Niệm ác là những suy tư nào làm khổ mình, khổ người. Niệm thiện là những suy tư nào không làm khổ mình, khổ người. Phật dạy chúng ta ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm bằng cách nhận diện những niệm ác khởi lên trong tâm . Chỉ cần biết nó là niệm ác làm khổ ta, khổ người, làm hại ta, hại người và làm ta mất trí tuệ giải thoát , thì nó tự biến mất. Và cứ thế, ta tiếp tu tập xả ly, đoạn từng niệm một, thì tâm ta được thanh tịnh, đời sống ta được giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau, phiền não nữa. (V/166,169) Nên nhớ, nếu thấy được niệm ác khởi lên trong tâm là nguy hại, là hạ liệt, uế nhiễm, đau khổ thì quý vị sẽ trừ bỏ, xả ly, đoạn tận, viễn ly. Đây là sự lợi ích lớn nhất cho qúy vị: tâm được thanh tịnh và các thiện pháp sẽ hiện tiền. Tâm quý vị sẽ được hoàn toàn an lạc và thanh thản. (V/170).
Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông nhắm vào chỗ “Vọng tưởng”. Vọng tưởng hết rồi thì viên mãn. Nhưng thiền Nguyên Thủy thì khác xa. Tầm ác, tức là vọng tưởng ác thì ngăn chặn và diệt sạch ; còn tầm thiện thì sanh khởi và tăng trưởng, không diệt, mà còn nuôi dưởng để không làm khổ mình, khổ người. Nhờ tầm thiện đó mà mỗi con người xây dựng cho mình một nền đạo đức nhân bản, không làm khổ mình, khổ người.
Muốn diệt tầm ác (vọng tưởng) thì dùng pháp hướng tâm tác ý (như lý tác ý) để ngăn chặn và diệt trừ nó, và tăng trưởng tầm thiện (vọng tưởng thiện, niệm thiện) để giúp tâm không làm khổ mình, khổ người, để trở về trạng thái bình thường, thanh thản, an lạc, vô sự, định tĩnh.
Tóm lại, Đại Thừa và Thiền Tông ức diệt vọng tưởng (ức chế tâm) để đạt trạng thái yên lặng gọi là Thiền định. Còn Phật dạy dùng pháp hướng tâm như lý tác ý để ly dục, diệt ngã, xả tâm, quét sạch ngũ triền cái, đoạn dứt thất kiết sử. Khi tâm đạt vô lậu tâm định, không còn nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của thế gian thì tâm được thanh tịnh. Đó gọi là Định.
Bất động tâm định là tâm bất động trước các pháp, trước cảm thọ, chứ không phải la ngồi yên bất động. Đường lối tu tập của đạo Phật không phải diệt niệm thiện, niệm ác, mà phải xa lià lòng ham muốn và các ác pháp trong ta. Phải sống và nuôi lớn thiện pháp, nghĩa là diệt tầm ác mà sống với tầm thiện ( ly dục, ly ác pháp), để đem lại cuộc sống an vui và hạnh phúc cho mình, cho người.
Khi sống với tầm thiện thì tâm ta thanh tịnh, không có hoàn cảnh, đối tượng nào khiến tâm ta dao động; do đó gọi là tâm giải thoát, không còn khổ đau vì cuộc sống làm người. Người sống được như vậy gọi là nhập Bất Động Tâm Định hay là nhập Vô Tướng Tâm Định.
Nên nhớ tâm thanh tịnh (tâm như đất) là tâm thiền định của đạo Phật , chớ không phải tâm hết vọng tưởng (chẳng niệm thiện, niệm ác). Tâm thanh tịnh là tâm có đủ đạo lực sai khiến (điều khiển) được sanh, già, bệnh, chết; tức là làm chủ nhân quả , hay còn gọi là làm chủ sống chết (muốn chết lúc nào cũng được, muốn sống lúc nào cũng được). Đó mới gọi là sanh tử tự tại! (V/177) Tóm lại, muốn giải thoát thì phải nhập vào Bất Động Tâm Định. Nhờ đó mà dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu mới diệt sạch. Bất động tâm định là một tên khác của Sơ Thiền, ly dục, ly ác pháp.
(V/149-150) Vô tướng tâm định là gì? Vô tướng tâm định là một tên khác của Bất Động tâm Định. Như trong bài kinh Tiểu Không đã dạy: “Khi nhập vào vô tướng tâm định thì dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu không còn, chỉ còn lục nhập duyên mạng mà thôi”. Vậy, lục nhập duyên mạng là gì?
Lục nhập là lục căn và lục trần; mạng là thân mạng. Câu này có nghĩa là căn, trần tiếp xúc tác động vào thân mạng mà không sanh ra lậu hoặc. Ở trong trạng thái này gọi là Vô Tướng Tâm Định.
Ba lậu hoặc là gì? Ba lậu hoặc là tham ,sân, si. Dục lậu ứng cho tâm tham, hữu lậu ứng cho tậm sân, và vô minh lậu ứng cho tâm si. Như vậy nhập vào Vô Tướng Tâm Định thì tham, sân, si không có; cũng như nhập vào Bất Động Tâm Định thì tâm tham, sân, si cũng không có, tức là ba lậu hoặc không còn. Như vậy Vô Tướng Tâm Định và Bất Động Tâm Định chỉ là một loại định mà hai tên khác nhau.
Bất Động Tâm Định cũng là một tên khác của Sơ Thiền, vì Sơ Thiền phải ly dục, ly ác pháp. Mà đã ly dục, ly ác pháp thì tâm không còn tham, sân, si, tức là ba lậu hoặc cũng không có. Như vậy nhập Vô Tướng Tâm Định, hay nhập Bất Động Tâm Định là nhập Sơ Thiền.
Trong kinh Song Tầm, Đức Phật nhắc các vị tỳ kheo: Chư tỳ kheo, con đường nguy hiểm chỉ là con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.” Tà kiến và ác pháp là không chịu xả tâm mà cứ mãi ức chế tâm cho hết niệm thiện, niệm ác. Đó là quý vị rơi vào tà định, tà thiền. Tu như vậy thì ngàn đời quý vị tu cũng chẳng tới đâu cả, chỉ uổng công tu mà thôi.
Những điều tu sai, ức chế tâm, đó là tà định; sống phạm giới, bẻ vụn giới, không lấy giới phòng hộ sáu căn, sống cuộc đời không thiểu dục tri túc, ăn uống phi thời, là sống trong tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà niệm . Điều nầy thì ai cũng biết rõ, nhưng chẳng có ai dám nói ra. Nói ra thì mất lòng người, và làm thối thất niềm tin của bao nhiêu người khác.
1/ Nhiều pháp tu trong Phật giáo ngày nay đều thực hành theo pháp ngoại đạo.
Từ chỗ niệm Phật để nhất tâm, niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc, người ta chuyển biến dần những tu sĩ Tịnh Độ thành thầy cúng, giống như các vị Bà La môn cúng tế.
Chùa có cuộc sống của gia đình thế gian. Thầy tu cũng có vợ, có con, làm đủ nghề sanh sống, thậm chí còn làm nghề bắt tôm, nuôi cá. Tu sĩ chỉ còn là chiếc áo và cái đầu cạo trọc mà thôi.
2/ Mật Tông đưa các thầy tu tập đi đến đạt thần thông, phép lạ để làm thầy trị bệnh, trừ tà, ếm qủy, biến dần những vị tỳ kheo thành các phù thuỷ. Những vị nầy thường xưng là giáo chủ, bày nhiều trò lừa đảo gạt người cúng tiền của, và cả tình yêu.
Pháp môn tu hành bày ra nhiều điều gợi tâm dục khiến cho con người dễ sa ngã vào đường tội lỗi.
3/ Thiền Tông thì khéo léo hơn hai tông trước, nhưng lại xây một thế giới Niết Bàn (thường, lạc, ngã, tịnh) tuyệt vời, cao vòi vọi, với các thuật ngữ như : Phật tánh, kiến tánh thành Phật, giác ngộ, triệt ngộ, vv..
Nếu tu theo Thiền Tông, thì phải luôn luôn giữ tâm “chẳng niệm thiện, niệm ác”. Nếu tự động khởi ra một niệm gì thì đó là vọng tưởng. Nếu tác ý là tứ (xin xem lại Tầm, Tứ) thì Thiền Tông cũng không chấp nhận, cho đó là vọng tưởng. Tu như vậy không đúng trạng thái tâm vô niệm của Thiền Tông, phải giữ tâm không có một niệm xen vào thì mới gọi là Thiền Định. Cho nên vào thế kỷ 18, các thiền sư Trung Hoa chế ra pháp môn tham thoại đầu và khán công án. Các pháp nầy vốn ức chế tâm cao độ, gọi là “lấy độc diệt độc”. Do chỗ ưc chế tâm cao độ, nên con đường Thiền Tông bế tắt, không còn lối tu tiến tới được nữa.
Pháp môn ức chế tâm khó có người đạt thành “tâm không”, vì khi tâm vô niệm lại phát sinh ra nhiều trạng thái tưởng, dễ lạc vào tà Thiền. Người có khả năng ức chế và gom tâm được thì rơi vào pháp tưởng mà Thiền Tông gọi là “Triệt Ngộ”, tưởng giải toàn bộ kinh sách Đại Thừa và 1700 công án. Người không ức chế và gom tâm được thì tu chẳng đến đâu, chỉ kiến giải lượm lặt lại đờm giải của người xưa, rồi nói Thiền, nói đạo, chớ chẳng biết Thiền, đạo là gì.
Ấy thế mà người tu theo Thiền Tông nghe tác ý trong lúc ngồi Thiền (theo giáo lý Nguyên Thuỷ) đều cho đó là vọng tưởng. Không ngờ sự tu tập “Như lý Tác Ý” lại biến thành một đạo lực siêu việt, làm chủ được thân tâm, muốn sống, muốn chết dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Muốn nhập định bảy ngày, tám ngày, một tháng, hai tháng, ba tháng đều như ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, ngồi bất động như gốc cây, cục đá, nhưng rất tỉnh táo không ai bằng, trời sét cũng không nghe. (V/184)
Trong toàn bộ giáo trình về pháp môn tu tập thực hành của đạo phật thì pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý là một pháp môn độc đáo, tuyệt vời nhất, cũng là một pháp môn nòng cốt nhất của đạo Phật. Bắt đầu từ tu tập giới luật xả tâm đến tu tập Thiền định và Tam Minh đều dùng nó. Duy chỉ có pháp môn nầy mới có đủ đạo lực, đủ khả năng làm chủ sanh, lão, bệnh, tử. Vậy, Như Lý tác Ý là gì? Như Lý Tác Ý (còn gọi là Pháp Hướng Tâm, Pháp Dẫn Tâm) là phương pháp dẫn tâm vào lý chân chính giải thoát của đạo. Đây là phương pháp giống như “tự kỷ ám thị” (auto suggestion), dùng một câu nói tác ý (khởi ý) để gom tâm lại, tập trung thành một khối nội lực, không để tâm phân tán. Thí dụ: Khi tâm đang suy nghĩ miên man, thì dùng pháp hướng tâm mà nhắc tâm như sau: “Tâm hãy quay vào, định trên thân, không được phóng dật quay ra ngoài”. Khi ngồi thiền mà ngủ gục, muốn cho tỉnh thức thì dùng câu tác ý: “Tâm phải tỉnh thức, không được ngủ và nằm chiêm bao”.
Chỉ có tu tập pháp môn nầy mới trở thành một đạo lực siêu việt không thể nghĩ lường được.
Muốn xa lià và đoạn dứt tâm tham, sân, si, mạn nghi, thì duy nhất chỉ có pháp môn nầy mới ly và đoạn dứt các dục và ác pháp, ngoài ra không còn có pháp môn nào khác nữa.
Muốn nhập các định Như Y Túc thì pháp môn này đủ nghị lực để giúp cho hành giả muốn nhập loại định nào thì tuỳ ý nhập được liền.
Muốn nhập được Tam Minh và Thần Túc Thông thì ngoài pháp môn nầy ra không có pháp môn nào thực hiện được.
Tóm lại, pháp Như Lý tác Ý là một pháp môn độc nhất của đạo Phật để đưa con người thoát ra cảnh khổ của kiếp người, và biến hành giả thành một siêu nhân, một thánh nhân. (V/184-185) * Người tu thiền định mà không biết sử dụng Như Lý tác Ý thì không thể nào nhập các định được.
Đại Thừa và Thiền Đông độ nhắm diệt trừ vọng tưởng (Không niệm thiện, không niệm ác), tìm cái tĩnh lặng của Niết Bàn (bốn tánh của Niết Bàn là:thường, lạc, ngã, tịnh).
Phật dạy tu Thiền không phải ở chỗ nhiếp tâm, hết vọng tưởng để nhập định và nhất tâm định tĩnh. Ngược lại, Phật dùng pháp Như Lý tác Ý để trừ diệt, đi đến diệt vọng tâm, tham, sân, si, mạn nghi. Chính nhờ diệt trừ chúng, mới đạt được nhất tâm, nhập được tứ thánh định.
Dùng Như Lý tác Ý để ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm, quét sạch ngũ triền cái, đoạn dứt thất kiết sử, tâm vô lậu thanh tịnh, không còn đắm nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của thế gian, tâm được thanh tịnh, gọi nó là Định. ( V/198) Với Thiền Nguyên Thuỷ, vọng tưởng không thành vấn đề. Đối tượng tu tập là diệt tham, sân, si, mạn, nghi và thất kiết sử . (V/199-200) Trong Sơ Thiền có Tầm, có Tứ. Tầm không phải là định tướng (như một bài đăng trên báo Giác Ngộ) mà là hướng về thiện pháp. Tứ không phải là bám sát vào định tướng, mà Tứ là Như Lý Tác Ý để diệt ác pháp. Như trong bài Kinh Xuất Tức, Nhập Tức, Phật đã dạy về Định Niệm Hơi Thở, Như Lý Tác Ý rất rõ ràng: “Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly si, tôi biet tôi thở ra”. Đó là Tứ Như Lý Tác Ý để xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi, tức là xả ngũ triền cái. Thiền của đạo Phật không phải là Thiền ức chế tâm, mà dùng hơi thở để xả tâm. Cho nên Phật dạy:”Muốn nhập Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền thì phải Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý”.
IV/58. Muốn hướng tâm Như Lý tác Ý (ám thị) có kết quả, nghĩa là hết tham, sân, si thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, ăn ngủ độc cư, sống trầm lặng một mình, thường sống biết nhẫn nhục tùy thuận, bằng lòng, chớ không phải chờ hết vọng tưởng như nhiều người tu thiền lầm tưởng.
Đó là lấy tâm “ám thị”, vừa lấy giới phòng hộ sáu căn, vừa sống lập đức, lập hạnh. Tu đúng như vậy thì tâm lần lượt sẽ được thanh tịnh, lần lượt ly dục, ly ác pháp, cho đến thanh tịnh hoàn toàn (tham sân si quét sạch).
? Tâm vô sự, thanh thản.
? Tâm không còn tham sân si.
? Tâm phải xả sạch các pháp thế gian.
? Tâm an nhiên tự tại, không được ghét thương, giận hờn, phiền não.
? Đời sống con người chẳng có gì, ta hảy buông xuống hết.
? Tâm hãy quay vô, định trên thân, không được phóng dật, quay ra.
? Tâm phải ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.
? Tâm phải đoạn dục, lòng ham muốn, sân, si.
? Tâm phải tỉnh thức hoàn toàn; thân ngủ, tâm không được ngủ.
? Tâm phải gom vô, gom vô nằm yên trên tụ điểm.
? Tâm phải định chỉ tầm tứ hoàn toàn.
? Thân nầy là vô thường, khổ, vô ngã, không nên chấp nó là ta, là của ta, bản ngã ta.
Tâm như cục đất, ly dục ly ác pháp (không còn tham, sân, si, phiền não nữa).
Có một Phật tử trình với Hòa Thượng rằng: “Cô Út dạy con khi đau nhức bất cứ chỗ nào trong thân thì con hướng tâm ám thị nó . Con áp dụng hai lần thì cơn đau giảm thấy rõ, và sau cùng hết đau.” Trong kinh sách của Đức Phật, khi bắt đầu thực hành, hành giả phải có TÍN LỰC. Tín lực là lòng tin mạnh mẽ để người tu sĩ đạt được đạo. Người không có lòng tin thì chẳng có kết quả tốt. Trong ngũ lực (tín, tấn, niệm, định, huệ) thì tín lực là pháp tu hành đầu. Nếu không đặt trọn niềm tin thì việc tu hành cũng vô ích.
Người tu sĩ muốn ly dục, ly ác pháp để tâm mình được thanh thản, an vui thì phải đặt trọn niềm tin ở người thiện hữu tri thức, nếu không đặt trọn niềm tin, người tu sĩ tu hành khó có kết quả.
Pháp hướng tâm là một pháp môn mầu nhiệm tuyệt vời. Nếu siêng năng tu tập và giữ đúng giới luật, đừng vi phạm một lổi lầm nhỏ nào thì kết quả pháp hướng có đủ năng lực (đạo lực) điều khiển, truyền lệnh làm chủ thân tâm (nhân quả), giải thoát sanh, già, bệnh chết hoàn toàn …… Nếu con có đủ niềm tin ở pháp môn nầy, thì hãy cố gắng hàng ngày đừng xao lãng, lúc nào cũng nhớ hướng tâm. (Đức Phật đã thành tựu đạo quả là nhờ pháp ấy. Hòa Thượng Trảng Bàng sống an lạc, giải thoát cũng là nhờ pháp ấy) V/58 Đức Phật dạy: “Nầy các tỳ kheo! Do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng.
Nầy các tỳ kheo! Do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được loại trừ”.
Nếu quý vị biết dùng pháp như lý tác ý hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự khổ đau sẽ không đến với quý vị, và sẽ chấm dứt vĩnh viễn.
Lúc còn đang nhập thất, chúng tôi ngộ được pháp như lý tác ý nên trong suốt sáu tháng tinh cần tu tập pháp nầy với câu trạch pháp: “Tâm như cục đất, phải ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Chỉ có một câu như vậy mà chúng tôi đã nhập Sơ Thiền một cách dễ dàng, không có khó khăn.
Chín năm trời nhập thất, tu không đúng pháp, rất là gian nan, vất vả; nhưng đến khi dùng pháp như lý tác ý chỉ có một thời gian ngắn mà chúng tôi làm chủ được thân tâm, kết quả giải thoát hoàn toàn. (NLPD I / 61,62)
Xả là buông bỏ, xa lià.
1/ Xả của cải là xả cái duyên tạo tội ác. Trong cuộc sống hàng ngày, vì mãi đua đòi hưởng thụ, con người cố gắng, bằng mọi cách, tích lũy tài sản, của cải. Trong quá trình tích luỹ thì con người không sao tránh khỏi làm điều ác, làm người khác đau khổ. Bởi vậy, người cư sĩ hiểu đạo thì “Thiểu dục tri túc”, ít muốn, biết đủ; còn tu sĩ thì “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa”. Thế nên, xả của cải là bớt tạo tội, chứ không phải như trong Kinh Đại Thừa dạy sám hối, hoặc lạy Hồng Danh Chư Phật mà tiêu tai, hoạ trừ, vv .. … Đó là lời lừa đảo của Bà La Môn chứ không phải là lời Phật dạy.
2/ Xả lòng ham muốn của mình là lià tội ác. Do lòng tham mà tạo thành nghiệp lực; trong nghiệp lực có thiện và có ác, và đó cũng là nguyên nhân tái sanh luân hồi mãi mãi muôn đời. Cho nên Đức Phật dạy: “Không xả tâm tham thì nhân luân hồi không dứt”.
3/ Xả tội tức là dứt các nghiệp sanh tử. Ac pháp mà không ly, không chừa bỏ thì tội ác khó tránh, mà tội ác không tránh thì qủa khổ làm sao thoát? Quả khổ không thoát thì đời sống là đen tối, là địa ngục, là âm u.
Bởi vậy, xả tâm là một điều quan trọng nhất của Phật giáo. Nếu ai tu theo đạo Phật mà không xả tâm, cứ niệm Phật, tụng kinh, bái sám, ngồi thiền vv ….. .
thì tu muôn ngàn kiếp cũng chẳng đi về đâu, chỉ uổng cho một đời tu hành mà thôi.
(Phải xả lòng ham muốn, lìa xa ngũ dục –tiền tài, sắc dục, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ – giữ gìn sáu căn không cho dính mắc sáu trần, mớt thật là buông xả).
Đạo Phật lấy thiện pháp làm pháp môn tu tập, cho nên đạo đức làm người, làm Thánh nhân được Đức Phật chú ý hàng đầu. Toàn bộ giáo lý của đạo Phật là dạy đạo đức làm người và làm Thánh. Thế nên, những vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni xem thường giới luật, phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới thì dù có tu ngàn kiếp cũng chỉ là sâu bọ trong Phật giáo mà thôi. Những người nầy không bao giờ tìm thấy sự giải thoát trong đạo Phật.
Giới là một pháp môn vô lậu mà cũng là một pháp môn dạy về đạo đức tuyệt vời làm người làm Thánh một cách rõ ràng, và cụ thể. Giới cũng là một pháp môn chuẩn bị cho hành giả nhập các loại định. Nếu không tu giới luật thì không bao giờ nhập định được. Người không tu giới luật mà nói nhập định là nói vọng ngữ, lừa đảo người khác. Thiền định không dành cho những người phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, vv …….. .
? (II 143) Giá trị người tu sĩ đạo Phật không căn cứ vào học thuật, bằng cấp, chùa to, Phật lớn, của cải nhiều, không phải ở chỗ thuyết giảng, dịch kinh sách nhiều, mà ở chỗ sống đúng đạo đức, phạm hạnh của người tu sĩ.
Cho nên, người ngồi Thiền, nhập định, chết để lại nhục thân, hoặc có thần thông, phép tắc, tâm linh biến hóa, làm những điều siêu việt hơn người. Đó không phải là mục đích của đạo Phật, mà là của ngoại đạo, tà giáo, làm những điều kỳ quặc, những cái lạ để “mà” mắt, để lừa đảo, lường gạt người còn mê muội, ngu si. Mục đích chính của đạo Phật là “BẤT ĐỘNG TÂM TRƯỚC CÁC PHÁP”, tức là đạo đức giải thoát, không làm khổ mình, khổ người. Đó cũng là phạm hạnh của người tỳ kheo, tỳ kheo ni.
Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập được Thiền định của đạo Phật thì phải đi qua cửa ngõ giới luật. Tu hành mà không giử giới luật thì tu suốt đời cũng chẳng tới đâu. Chỉ toàn tu danh, tu lợi, tu tưởng mà thôi, chẳng bao giờ có giải thoát được. Nếu tu sĩ không qua cửa ngõ giới luật mà nhập định thì thiền định đó là tà thiền, tà định.
** Chỉ cần sống đúng giới hạnh, và tu tập các pháp Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ để xả tâm thật sach (không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa) và ra lệnh nhập thiền định nào thì nhập ngay thiền định ấy.
Tàm là mắc cỡ, xấu hổ trước mặt mọi người về một việc làm sai trái của mình.
Quý là tự mình cảm thấy xấu hổ về việc làm sai trái của mình mặc dù không có ai thấy, hay biết.
Người muốn giữ gìn giới luật mà không biết xấu hổ thì không bao giờ giữ gìn giới luật được. Cũng như người muốn tu thiện pháp mà không biết xấu hổ thì không bao giờ tu thiện pháp được.
Người muốn giữ gìn đức hạnh làm người, làm Thánh mà không biết xấu hổ thì chẳng bao giờ giữ gìn đức hạnh được. Người muốn tu hành giải thoát mà không biết xấu hổ thì không bao giờ có giải thoát được.
Nếu con người không có tàm quý thì con người chẳng khác nào một loài cầm thú, chẳng còn luân thường đạo lý gì cả. Nếu sống trong ác pháp làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh mà không biết xấu hổ (tàm quý) là loài ác thú chớ không phải là con người; và tệ hơn nữa, họ là ác quỷ.
Nếu một vị tỳ kheo tăng và một vị tỳ kheo ni phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới mà không biết xấu hổ (tàm quý) là loại bọ chét trong lông thú vật, chứ không phải là tu sĩ, đệ tử Đức Phật; và tệ hơn nữa, họ là loài Ma Vương cùng với ma chúng đang diệt Phật giáo.
Tóm lại, tàm quý (xấu hổ) là một pháp môn rất cần thiết cho người đời cũng như cho những người tu sĩ quyết tìm đường cứu mình thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, và luân hồi. Nếu con người mà không biết xấu hổ thì có khác nào là một con thú, và luân thường đạo lý trên thế gian nầy sẽ đảo lộn. Người ta sẽ chà đạp lên nhau vì miếng ăn, sự sống, và vật chất. Lúc ấy, loài người chỉ là một loài thú thông minh, tình người sẽ không còn trên hành tinh nầy nữa, và chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt.
(NLPD I /27-29)
(I/ 73) Tâm sắc dục là lòng thương yêu giữa trai gái, gồm có tình yêu và tình dục.
Muốn đối trị tâm nầy, người cư sĩ phải tu tập định vô lậu:
1. Quán xét tâm sắc dục bất tịnh uế trược, bẩn thỉu, hôi thúi, vv..
2. Quán xét tâm sắc dục trong nhân quả nối tiếp sanh tử luân hồi nhiều kiếp, nhiều đời, khổ đau không những cho một người, mà nhiều người.
3. Quán xét tâm sắc dục trong 12 nhân duyên hợp lại tạo thành một thế giới khổ đau, triền miên bất tận.
Nhân quả do tâm tạo ra. Muốn chấm dứt nhân quả thì phải diet ngã, xả tâm.
Muốn diet ngã, xả tâm thì phải tu tập định vô lậu và chánh niệm tỉnh giác . Do diệt ngã, xả tâm, nên nhân quả không tác dụng được tâm, vì thế gọi là vượt qua, hay là làm chủ (nhân quả).
Càng tu tập định vô lậu, càng xả tâm nhanh chóng, càng thấy kết quả nhanh hơn:
1. Tâm được an vui thanh thản.
2. Tâm bất động như cục đất trước các đối tượng.
3. Tâm được chánh định, không rơi vào tà định.
4. Pháp hướng có kết quả và hiệu quả siêu việt lạ lùng.
(I / 111) Lấy đối tượng tu tập định vô lậu là phải thông suốt lý nhân quả, lý duyên hợp, thân ngũ uẩn, và còn phải dùng pháp hướng tâm (“tâm như cục đất ”), phải tập tỉnh thức trong công việc làm hàng ngày, phải thiểu dục tri túc, giữ gìn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không cho dính mắc sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Có tu như vậy, kết quả giải thoát đem lại cho ta một đời sống an lạc, hạnh phúc chân thật.
Phải phân biệt vị Minh Sư, vị A La Hán là bậc sống đúng giới hạnh (phạm hạnh), không hề vi phạm một lỗi nhỏ. Chính PHẬT LÀ TRÍ TUỆ CỦA VỊ MINH SƯ ẤY. Vị minh Sư luôn tỏa sáng trí tuệ đều khắp cho chúng sanh. Chúng sanh nào có đủ duyên vói Phật pháp mới gặp được ánh sáng trí tuệ đó. Nếu ai đăt trọn lòng tin kiên cố ở vị Minh Sư, nhiệt tâm thực hiện lời dạy của Người, sống đúng, tu tập đúng thì tâm sẽ ly dục, ly ác pháp. Nhờ đó mà tâm của hành giả ngày càng trở nên trong sáng hơn và thụ hưởng ánh sáng trí tuệ đó nhiều hơn. (I / 108, 109) .
(VI / 33)
1. Nói trì giới là để tâm ly dục, ly ác pháp.
2. Nói dục là chỉ cho tâm bất tịnh, cấu uế, ô trược.
3. Nói lậu hoặc là chỉ cho tâm đau khổ.
4. Nói tịnh chỉ các hành trong thân là để chỉ sự làm chủ sống chết.
5. Nói Tam Minh là chỉ cho tâm vô lậu.
6. Nói Niết Bàn là chỉ cho tâm vô dục, tâm bất động định, là tâm giải thoát.
Giữ thân được nhẹ nhàng, Giữ tâm khéo giải thoát Không còn các sở hành , Chánh niệm không tham trước, Biết rõ được chánh pháp, Không tầm tu Thiền Định.
Không phẫn nộ vọng niệm.
Không thùy miên giải đải Như vậy vị tu sĩ, Sống giữa nhiều chướng ngại, Đã vượt năm bộc lưu.
Lại gắng vượt thứ sáu, Như vậy tu thiền tư (xả).
? Năm bộc lưu là Ngũ Cái: tham, sân, si ,mạn, nghi.
? Bộc lưu thứ sáu là Ai kiết sử Trong thời đại chúng ta, nói đến tu thiền thì ai cũng hiểu la phải ngồi bán già hay kiết gia, rồi tập trung gom tâm, giữ tâm không vọng tưởng. Như Tịnh Độ Tông, trong Kinh Di Đà dạy: “Bảy ngày đêm không có niệm vọng tưởng xen vào câu niệm Phật thì khi lâm chung được Đức Phật A Di Đa rước về cõi Cực Lạc Tây Phương”. Thiền Tông, trong Pháp Bảo Đàn dạy: “Chẳng niệm thiện, niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”, tức là “Kiến Tánh thành Phật”. Trong kinh sách Đại Thừa dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Có nghĩa là đừng trụ tâm vào bất cứ một chỗ nào thì tâm kia sanh ra tức là Phật tánh. Pháp An Ban Thủ Ý, Lục Diệu Pháp Môn của các tổ dạy, đều đếm hơi thở, ức chế tâm, không cho niệm thiện, niệm ác xen vào. Thiền Minh Sát Tuệ dùng hơi thở và cơ bụng ức chế tâm, cũng không cho tạp niệm xen vào. Từ xưa đến nay, người ta đã tu thiền ức chế tâm, và kết qủa chẳng thấy có ai giải thoát, chỉ toàn là huyền thoại mà thôi. Cho nên Thiền Sư Thường Chiếu nói: “Đó là bọn đại bịp.” Ngài còn nói: “Một con chó sủa, một bầy chó sủa theo”. Biết tu không có kết quả nhưng chẳng có Thầy Tổ nào dám nói thật cho chúng ta biết. Giờ đây chúng ta bị ảnh hưởng quá sâu đậm, nên khi ngồi lại, người nào cũng gom tâm, tập trung; đi kinh hành cũng gom tâm tập trung, chỉ mong diệt sạch vọng tưởng. Đó là một tạp khí, thói quen mà mọi người không thể bỏ được. Ngược lại, đạo Phật dạy Thiền xả tâm “Ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp” , chứ không phải ngồi bán già, kiết già ức chế tâm như vậy.
Qua bài kệ trên đây, chúng tôi xin hỏi quý vị, quý bị cứ thành thật trả lời:
- Khi ngồi bán gìa, hoặc kiết già chân bị đau, hoạc tê, hoặc nóng, đó là ác pháp hay thiện pháp? Đây có phải là tự mình làm khổ mình chăng?
- Khi tập trung gom tâm, đầu nặng, hay nhức đầu, đây là thiện pháp hay ác pháp?
Đây có phải là tự mình làm khổ mình chăng ?
- Đức Phật dạy ngăn ác, diệt ác pháp, mà tự làm khổ mình thì có ngăn ác, diệt ác pháp không? Xin quý vị trả lời.
- Trong bài kệ Phật dạy: “Giữ thân được nhẹ nhàng”. Nhẹ nhàng tức là khinh an, khinh an ở đây thân có tê, đau, nóng không quý vị?
Câu kệ thứ hai: “Giữ tâm khéo giải thoát”. Khéo giải thoát ở đây tâm hữu sự hay vô sự? Nếu bảo rằng vô sự thì sao tâm ở đây lại làm việc quá nhiều? (gom tâm tập trung vào hơi thở, giữ câu niệm Phật, đi kinh hành cũng cột tâm, khởi nghi tình đến nỗi phải nặng đầu, nhức đầu, vv..). Khéo giữ tâm giải thoát có nghĩa là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
(V / 220-222) Khi tu tập các pháp môn của ngoại đạo, đức Phật dốc hết toàn lực tu tập, nghĩa là ức chế thân tâm tối đa để mong đạt được cứu cánh giải thoát. Nào ngờ toàn bộ công trình tu tập đến giờ phút cuối cùng chỉ là con số “ không”. Cũng giống như chúng ta hiện giờ, từ pháp môn Tịnh Độ đến Thiền Tông, Mật Tông, chúng ta cũng đem hết sức lực ra tu tập, gần như suốt cả cuộc đời, nhưng nhìn lại cũng chỉ là con số không.
Qua kinh nghiệm của bản thân, chúng tôi đã bỏ công tu tập các pháp môn Đại Thừa và Thiền Tông, và chúng tôi mất tất cả hy vọng đối với Phật giáo. Chúng tôi thầm nghĩ: “Các tôn giáo nói được, chớ làm chẳng được”. Nhưng đã lỡ theo Phật giáo hơn nửa đời người, bây giờ trở về đời sống thế tục thì quá muộn màng. Tiếp tục tu tập thì “đời chẳng ra đời, mà đạo chẳng ra đạo”. Tấn thối lưỡng nan, lòng đang buồn bã vì đường tu đi chẳng đi tới đâu. Tình cờ chúng tôi lấy quyển Trung Bộ Kinh, Tập I, dở ra đọc mấy trang thì gặp bài kinh “Đại Kinh Saccaka”. Ngồi suy ngẫm, làm thế nào mà một đứa bé 9, 10 tuổi (Thái Tử Tất Đạt Đa theo cha dự lễ hạ điền), có thể ngồi tọa thiền dưới cây diêm phù đề –yambu (có nơi dịch là cây hồng táo –rose apple) và nhập được Sơ Thiền, ly dục ly ác pháp một cách dễ dàng? Tự đặt câu hỏi, chúng tôi lần lượt phăng dần và đọc lại các bài kinh khác như: Tứ niệm Xứ, Xuất Tức Nhập Tức, Tứ Chánh Cần, vv.. Thì ra pháp môn tu tập của Phật là tu Thiền Xả Tâm, chớ không phải như các pháp môn khác.
Như chúng ta đã biết, muốn nhập được thiền xả tâm (Sơ thiền) thì chỉ cần nương vào hơi thở, khéo tác ý; “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Hít vô, thở ra độ 5, 10 lần, rồi lại khéo tác ý nhắc tâm: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”. Đó là mấu chốt thiền định của đạo Phật, dùng Định Niệm Hơi Thở tác ý xả tâm, ly dục, ly ác pháp, để thành tựu tâm thanh tịnh, tức là tâm bất động định.
Tóm lại, thiền xả tâm là một thứ thiền tu hành trong bất cứ oai nghi nào cũng đều giữ gìn thân được khinh an, và tâm được thanh thản, an lạc, vô sự.
Thiền xả tâm là một thứ thiền, tu hành có giải thoát liền, càng tu càng thấy thân tâm nhẹ nhàng, an ổn, sống một đời sống trọn đầy đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người, và cũng không làm những điều mê tín, lừa đảo những người khác.
Xin quý vị đọc lại bài kệ thiền xả tâm của Đức Phật đã dạy thì quý vị sẽ rõ, và không còn nghi ngờ gì nữa. (NLPD / 54-58)
Trong kinh Phật dạy: “ Con người sanh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi về nhân quả”. Bởi con người không rõ luật nhân quả nên cứ mãi trôi lăn, muôn đời, muôn kiếp trong sanh tử luân hồi, mà không biết lối thoát ra khỏi nhân quả.
Người hiểu biết nhân quả, luôn luôn giữ gìn từng hành động của thân, miệng, ý, làm thiện với mình, với người, chẳng hề làm một điều ác nào cả, để mình không khổ và người khác không khổ.
Theo luật nhân quả, người làm thiện, khi chết sẽ sanh nơi thiện, hưởng được phước báo đầy đủ, sanh ra trong gia đình giàu có, muốn chi được nấy. Họ lại được học hành đến nơi, đến chốn, và được nuôi dạy trong môi trường đạo đức, sống toàn thiện và tạo thêm phước đức cho đời sau nữa. Ngược lại, kẻ không hiểu luật nhân quả, thường không giữ gìn thân, miệng, ý, nên thường làm điều ác, tạo khổ cho mình, cho người, sống quãng đời hiện tại luôn luôn khổ đau, bất an, bất toại nguyện .. Sau khi thân hoại, mạng chung, họ sẽ sanh vào nơi bất thiện, hưởng quả báo nghèo cùng, khổ đau, bệnh tật, tai nạn, đói khát, thiếu cơm ăn, áo mặc. Họ sống không nhà cửa, vất vưởng, ngủ hè, ngủ chợ, không được học hành, sống trong môi trường thiếu đạo đức, nên càng ngày càng làm điều ác hơn, tạo nhiều nhân quả xấu, và đời sống lại càng khổ đau hơn.
Sống trong môi trường ác nghiệt như vậy, họ lại tạo những điều cực ác hơn nữa, và như vậy khi thân hoại, mạng chung, chết phải đọa và những cảnh khổ hơn, làm người bần cùng, hoặc sanh vào những loài thú vật, côn trùng, vv...
** Bậc tu hành sanh ra cũng như mọi người, từ nhân quả mà sinh ra, và cũng sống như mọi người. Họ cũng ăn, uống, ngủ, nghỉ, nói, nín, sinh hoạt, hoạt động. Họ sống trong nhân quả, và chết cũng như mọi người, già cả, yếu đuối, bệnh tật và tử vong; nhưng họ không trở về nhân quả!
Có lẽ quý vị hiểu rằng một người tu chứng, làm chủ sanh tử luân hồi không bao giờ có tai nạn, bệnh tật, già, chết đến với họ? Thật ra, trước khi tu hành, chưa đắc đạo thì các vị ấy vẫn sanh ra như bao nhiêu người khác, vẫn mang thân nhân quả như tất cả chúng ta. Thân nhân quả là thân vô thường, có vui, có buồn, có tai nạn, có bệnh tật, có sân hận, có si mê, có ganh tị, có tỵ hiềm, có nghi ngờ, có tật đố, có san tham và có già chết như bao nhiêu người khác. Bậc tu hành, dù đã chứng đạo, vẫn còn phải mang thân xác nhân quả đó, thì mọi sự kiện vô thường của thân nhân quả không thể tránh đơợc các khổ đau ấy.
Thân của Đức Phật cũng vẫn bị nhân quả, vô thường chi phối như bao nhiêu người khác. Vì thế mới bảo rằng luật nhân quả rất công bằng, và công lý, không nễ mặt một ai. Cho nên trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật cũng đau và Ngài bảo ông A nan: ‘Ta đau lưng quá, hãy trải chỗ cho ta nằm”.
Có người sẽ hỏi: “Người tu hành chứng đạo, làm chủ sanh, già, bệnh chết, cớ sao còn bị phiền não, bị già, bệnh chết, và bị tai nạn?” Thưa quý vị, ở đây tôi nói bậc tu hành chứng đạo chỉ làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chớ không làm chủ cái thân giả tạo, vô thường, duyên hợp. Thân ngũ uẩn, duyên hợp là chuyện có thật, cho nên sanh, già, bệnh, chết bắt buộc phải đến.
1/ Các Ngài cũng bệnh, cũng chết như tất cả mọi người; nhưng nó không tác động vào các Ngài được. Vì thế sanh, già, bệnh chết không làm tâm họ dao động. Đó là giai đoạn làm chủ thứ nhất (làm chủ tâm, tâm bất động trước cảnh sanh, già, bệnh chết).
2/ Chỗ làm chủ thứ hai là: khi có sanh, già, bệnh, chết đến thì người tu chứng sẽ làm chủ nó bằng cách dùng đạo đức đẩy lui để thân tâm lúc nào cũng được thanh thản và an lạc, không có khổ não. Thí dụ: làm chủ sanh. Khi có xảy ra tai nạn, kiện tụng, ham muốn, thèm khát, sợ hãi, lo toan, vv ... người tu chứng sẽ dùng trí tuệ nhân quả quán xét, thì ngay đó tâm sẽ được an ổn, không còn buồn lo, sợ hãi, sân hận, vv... Khi khởi tâm ham muốn cái nầy, cái khác thì ta dùng trí tuệ tứ niệm xứ, quán xét các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã thì tâm ham muốn (tham dục) dừng liền. Đó là cách làm chủ sanh thứ hai.
* Làm chủ già: Tịnh chỉ thân hành, khẩu hành, ý hành, tức là tịnh chỉ tầm, tứ (Nhập Sơ Thiền).
** Làm chủ bệnh : Khi thân có bệnh, đau nhức, khổ sở ta phải làm chủ thọ, bằng cách ly hỷ, trú xả, nhập Tam Thiền. Từ Tam Thiền dùng Như Lý Tác Ý xả thọ khổ. Kinh dạy ly hỷ trú xả tức là xả lạc, xả khổ. Xả lạc, xả khổ tức là xả thọ. Xả thọ tức là xả sự đau khổ của thân.
*** Làm chủ chết: Khi thân suy yếu sắp chết, ta tịnh chỉ hơi thở, nhập Tứ Thiền, xả bỏ thân tứ đại nhân qủa một cách dễ dàng.
Do đó, làm chủ sanh, già, bệnh, chết ở phần thứ nhất là làm chủ tâm, tâm bất động trước cảnh sanh, già, bệnh, chết. Phần thứ hai là làm chủ những trạng thái sanh, già, bệnh, chết xảy đến cho thân, tức là trực tiếp tịnh chỉ các trạng thái đau khổ của sanh, già, bệnh, chết. Ta không thể ngăn chận sanh, già, bệnh, chết, hoặc tai nạn không xảy đến với thân nầy, vì thân nầy là thân nhân quả nên những điều thiện ác mà ta đã tạo ra từ trước thì ta phải nhận lấy hậu quả mà thôi.
Ngăn chận tức là dừng nhân quả. Đạo phật dạy làm chủ nhân quả, vượt qua nhân quả, chớ không dạy ngăn chận và dừng nhân quả. Vì từ nhân quả con người tạo ra thì chỉ có làm chủ tâm không tạo nhân quả ác nữa, thì nhân quả sẽ chấm dứt, như Phật đã dạy trong pháp Tứ Chánh Cần (ngăn ác, diệt ác pháp, sanh khởi thiện,tăng trưởng thiện). Đó là pháp tu tập làm chủ nhân quả, hay là pháp môn tu nhập định để làm chủ sanh, tử, luân hồi.
(1) Tóm lại, muốn làm chủ nhân quả, chấm dứt sanh tử, luân hồi là phải tu tập điều khiển khẩu hành, thân hành và ý hành. Luôn luôn thực hiện nhân thiện để tạo quả lành, hoàn toàn ngăn và diệt trừ nhân ác. Đó là giai đoạn thứ nhất người đệ tử tu Phật cần phải tinh cần siêng năng tu tập, (không được biếng trễ).
(2) Muốn làm chủ điều khiển nghiệp quả của thân (lão, bệnh, tử) thì phải tu tập Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Đó là giai đoạn thứ hai mà người đệ tử của Phật cần phải tinh cần, tinh tấn, siêng năng tu tập, không được biếng trễ.
(3) Muốn điều khiển, làm chủ sự tái sanh, luân hồi thì phải tu tập Tam Minh. Đó là giai đoạn thứ ba mà người đệ tử Phật cần phải tinh cần, tinh tấn, siêng năng tu tập, không được biếng trễ.
Quý phật tử đừng hiểu lầm làm chủ nhân quả là dừng nhân quả. Làm chủ nhân quả có nghĩa là làm cho thân tâm thanh thản, an lạc trước thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ . Nói một cách khác, làm chủ nhân quả tức là làm chủ thân tâm mình trước các ác pháp ác, bất thiện pháp, khiến cho thân tâm bất động và tự tại, chớ không phải là “Bất Muội nhân quả” như một thiền sư đã nói.
Tu không đối tượng (không tiếp xúc người đời, tránh đối duyên xúc cảnh) không bao giờ giải thoát được, chỉ là một dạng yếm thế, tiêu cực, trốn đời, lánh khổ. Đạo Phật không chấp nhận điều nầy, nên pháp môn hành Thiền của Ngài, ở Sơ Thiền là “ly dục, ly ác pháp” diệt ngã xả tâm, quét sạch ngũ triền cái, đoạn dứt thất kiết sử . Chỉ khi nào tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi, vv... thì mới sống độc cư trong rừng núi một mình để thể hiện những thiền định sau cùng. Xưa Đức Thích ca Mâu Ni đã trải nhiều kiếp tu hạnh nhẫn nhục, Tứ Vô Lượng Tâm (tu có đối tượng) đến kiếp cuối cùng Ngài mới thành Phật. Tu có đối tượng là “Hoa Sen Nở Trong Lò Lửa”.
Tu không đối tượng là yếm thế, lánh đời, tu để tiêu dao, thảnh thơi, an lạc, và không ai quấy rầy (theo kiểu Lão Trang, Tiên đạo). Khi đụng đến đối tượng thì bao nhiêu tâm phiền não vẫn còn đủ.
Vậy tu pháp nào nhanh hơn? Tu có đối tượng kết quả nhanh hơn. (I/ 69) LẤY ĐỐI TƯỢNG TU TẬP ĐỊNH VÔ LẬU RẤT THỰC TẾ VÀ CỤ THỂ (Cô Út Diệu Quang thường tạo đối tượng để giúp cho các cháu gái tu tập Định Vô Lậu, xả tâm, diệt ngã, ly dục, ly ác pháp). Cách thức nầy tu tập rất khó. Nếu là người có chí, có nhiệt tâm, nhiệt huyết tìm đường tu hành giải thoát đau khổ của cuộc đời thì một thời gian ngắn đã giải thoát, hoàn toàn đắc định và chứng Tam Minh không khó khăn. Bằng ngược lại thì đau khổ nhiều, tâm thường sanh oán hận, vì người ấy đang sống trong cảnh địa ngục. Cuối cùng cuộc đời tu hành của họ chẳng có ích gì cho chính bản thân họ.
Lấy đối tượng tu tập Định Vô Lậu thì phải thông suốt lý nhân quả, lý duyên hợp, thân ngũ uẩn, và còn phải dùng pháp hướng “tâm như cục đất”, phải tập tỉnh thức trong công việc làm hàng ngày, phải thiểu dục tri túc, phải giữ gìn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không cho dính sáu trần (sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp). Có tu tập như vậy kết quả giải thoát đem lại đương sự an lạc, hạnh phúc chân thật. (I/ 111)
“Như Lai ra đời rất khó gặp, thân người khó được, sanh trưởng vào trung tâm của đất nước cũng khó được, gặp được thiện tri thức cũng khó, gặp được chánh pháp cũng khó, nghe được pháp cũng khó.” (Tăng Nhất A Hàm, tập III, trang 218) Sanh ra được đồng thời với đức Phật là khó. Như chúng ta hiện giờ làm sao sanh ra đồng thời với Đức Phật được?
“Được thân người là khó, khó như con rùa mù tìm bộng cây giữa biển Đông”, lời dạy nầy chúng ta cần phải tư duy. Khi mất thân nầy rồi, trăm muôn nghìn kiếp không biết còn có đủ duyên để sanh lại làm người nữa hay không? Chắc khó lắm!
Nhưng con người chỉ sống một thời gian ngắn ngủi ở trần gian, thế mà họ lại lãng phí năm tháng của đời mình. Người tu sĩ cũng vậy, họ biết cuộc đời là bể khổ, vậy mà họ không dám buông bỏ triệt để. Nhưng cuối cùng họ cũng phải buông bỏ để đi vào cõi chết mà thôi. Buông bỏ để tiếp tục sống trong sự đau khổ của loài súc sanh. Còn nếu theo lộ trình tu hành của đạo Phật mà biết buông bỏ thì họ không còn khổ đau nữa, và chấm dứt luân hồi.
Tu sĩ đời nay ít có người dám buông bỏ tất cả. Họ tích lũy thêm vật chất, sống rất tiện nghi như một người giàu có, và cũng ham vui như người thế tục. Đi tu như họ chỉ uổng công mà thôi. Họ không tiếc thời gian của thân họ sắp tàn tới nơi rồi, tuổi đời không còn mấy năm nữa. Phật dạy “được thân người là khó”, vậy mà có mấy ai biết !!!
Được sanh vào nơi trung tâm của đất nước là khó. Chỉ có nơi trung tâm của đất nước mới có sự yên ổn, mới có cơm ăn, áo mặc đầy đủ, mới có đủ duyên để tu tập.
Được gặp thiện hữu tri thức là khó, bởi vì trong đời tu hành của chúng ta ác tri thức thì không thiếu, nhưng thiện hữu tri thức đâu phải dễ tìm. Bậc thiện hữu tri thức là người không những học thức thông suốt mà còn tu hành chứng đạo, sống một đời sống trọn vẹn, thường làm gương đức hạnh cho mọi người soi. Những bậc nầy trong đời người khó tìm lắm, cho nên Đức Phật bảo gặp thiện hữu tri thức là khó như vậy.
Gặp chánh pháp là khó. Hiện giờ quý vị muốn tìm được chánh pháp để tu hành đâu phải là một việc dễ. Đại Thừa có đến 84.000 pháp môn tu tập, tìm đâu cho được một pháp môn chân chánh của Đức Phật, nếu không có sự hướng dẫn của một vị tu chứng đạo?
Nghe được chánh pháp là khó . Tại sao vậy? Tại vì quý vị đã chịu ảnh hưởng tà giáo quá sâu, nên kiến chấp tà giáo quá kiên cố. Nó đã trở thành một thói quen tu hành của quý vị rồi (nhất là ngồi thiền ức chế tâm). Nó đã trở thành một nếp nhăn trong đầu của quý vị. Vì kiến chấp quá nặng, khi nghe pháp môn xả tâm thì quý vị không hiểu rõ. Lúc tu tập thì quý vị đều rơi vào pháp ức chế tâm mà không biết. Cho dù quý vị có muốn gạt bỏ nó để tu hành trở lại pháp môn chân chính thì rất khó, khó muôn vàn khó, vì ngựa quen đường cũ.
Đây là lời nói của người không hiểu đạo để che đậy cái tật tham ăn, tham ngủ của mình. Có một số người nghe câu nói nầy cứ tưởng là tu thiền là sống tự tại vô ngại, không bị dính các pháp “đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền”.
Trong đạo Phật có năm thứ dục lạc: sắc dục, danh lợi, thực, thùy. Thực thùy là ăn, uống và ngủ nghỉ. An uống và ngủ nghỉ là hai thứ dục alc nội thân rất khó trị.
Mười bảy năm trời tại tu viện Chơn Như, chúng tôi chỉ dạy người tu có ăn uống, ngủ nghỉ để ly dục, ly ác pháp, thế mà nhìn lại số người chiến thắng ăn ngủ chưa tròn một bàn tay. Kẻ nào làm chủ được cái ăn, cái ngủ (sống mỗi ngày một bữa cơm, không ăn uống phi thời, lặt vặt, có thì ăn, không có cũg không sao. Ngủ thì thân ngủ, tâm luôn luôn tỉnh thức mà không phải là kẻ mất ngủ) thì không bị lừa bịp bởi câu “đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền”.
Thiền này sẽ đưa hành giả đi về hướng dục lạc thế gian, tướng tốt, mập béo, phì nộn, nhưng thân thường bệnh tật.
Đã chọn pháp môn “Giới, Định, Tuệ” để tu tập làm chủ “sanh, lão, bệnh, tử” thì còn pháp môn nào chân chính của đạo Phật để tìm hiểu nữa? Người đã quyết tu giải thoát sanh tử, luân hồi thì đi học ngoại ngữ và tìm hiểu thêm để làm gì? Giới Định Tuệ là pháp môn vô lậu của đạo Phật rất đầy đủ, không còn một pháp nào khác đưa đến cứu cánh được. Hợn nữa, người quyết tu để giải thoát thì không còn thời gian rảnh để mà học. Người còn ham học ngoại ngữ và tìm hiểu thêm là người còn tâm dục chưa lìa. Tâm dục chưa lìa là ác pháp chưa lìa thì làm sao gọi là tu Giới Định Tuệ được? Do đó không nên đọc kinh sách, hoặc sách báo của thế gian, và cũng không nên học ngoại ngữ. Chỉ duy nhất chuyện cần tu tập, sống đúng phạm hạnh để tâm hoàn toàn bất động trước các pháp.
Đến với đạo Phật là để tìm cầu giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, chớ không phải trở thành nhà bác học thông thái. Đến với đạo Phật là để buông xả hết tất cảmọi pháp trên thế gian, trong đó có tư kiến thế gian. Vì thế, người tu sĩ đạo Phật là người vô sự hoàn toàn, là người thảnh thơi an lạc nhất trên thế gian nầy.
Đến với đạo Phật để tìm cầu giải thoát thì phải là người vô học. Nếu là người hữu học tìm đến với đạo Phật thì khó mà tìm cầu sự giải thoát, khó mà nếm được mùi vị giải thoát của đạo Phật. Kẻ nào đến với đạo Phật mà còn tìm cầu sự học hỏi thì kẻ đó không đúng tư cách đệ tử giải thoát của đức Phật. Kẻ đó chỉ là người đứng ngoài cổng.
Tạng Kinh A Hàm và Tạng Kinh Nikaya đều là kinh Nguyên Thủy. Tạng kinh Nikaya có bốn bộ, và tạng kinh Nikaya có năm bộ:
1. Trường A Hàm tương đương với Trường Bộ Kinh.
2. Trung A Hàm tương đương với Trung Bộ Kinh.
3. Tạp A Hàm tương ưng với Tương Ưng Bộ Kinh.
4. Tăng Nhất A Hàm tương với Tăng Chi Bộ Kinh.
5. Tạng Kinh A Hàm không có Tiểu Bộ Kinh (Chỉ có Tạng Kinh Nikaya có Tiểu Bộ Kinh mà thôi). Tiểu Bộ Kinh do những người sau biện soạn theo bốn bộ Kinh trên.
Khi thân tâm không còn lậu hoăc thì hành giả biết rất rõ:
1/. Không ham muốn.
2/. Không sân hận.
3/. Lúc nào cũng sáng suốt và bình tĩnH.
4/. Thân tâm thanh thản, an lạc, vô sự, không thấy mình hơn người, bằng người, thua người.
5/. Không thấy ai là sai, là ác.
6/. Tâm thường quay vô, không phóng dật ra ngoài.
7/. Tâm ra lệnh gì thì thân làm theo lệnh ấy.
Người mà tâm vô lậu tức là tu đã xong. (II / 133-134)
Đạo Phật đặt mình trong lòng thương yêu rộng lớn “từ, bi, hỷ, xả” với trí tuệ thoát khỏi lòng thương yêu đối đãi hẹp hòi. Vì thế, phóng sanh với tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả thì phóng sanh mới đúng chánh pháp.
1/. Thế nào làphóng sanh với tâm từ ? Phóng sanh với tâm từ là ý tứ đối với thân, khẩu, ý, hành động không bao giờ làm khổ mình, khổ người.
2/. Phóng sanh với tâm bi như thế nào? Phóng sanh với tâm bi là gặp cảnh khiổ của chúng sanh không được làm ngơ, phải sẵn sàng giúp đỡ và an ủi, hoặc giải thoát cho chúng sanh thoát khỏi vòng kiềm tỏa của những người hành nghề ác độc. Phóng sanh với tâm bi không có nghĩa là đi chợ mua tôm, cá, cua, rùa, trạch, chim chóc rồi đem đi thả. Đó là làm sai luật nhân quả. Phóng sanh với tâm bi có nghĩa là mình có duyên với chúng sanh đó, nên phải gặp nhau trong lúc tai nạn hiểm nghèo.
3/. Phóng sanh với tâm hỷ làthấy người buồn phiền, khổ đau, sợ hãi, ta tìm cách làm cho họ vui, và không còn sợ hãi, lo lắng nữa. Gặp các loài vật khác cũng vậy. Đó là phóng sanh với tâm hỷ. Không được đi tìm kiếm nhân quả của kẻ khác mà cứu giúp.
(Đó là phóng sanh không đúng chánh pháp và phá luật nhân quả). Ngược lại, nếu ta không tìm kiếm mà gặp là duyên nhân quả của ta với họ, nên phải vay trả nghiệp.
Chúng sanh cũng vậy.
4/. Phóng sanh với tâm xả : Gặp duyên nhân quả, ta an vui khi phóng sanh, xem như mình đả trả xong một nhân quả đời trước, chớ không phải là phóng sanh để cầu phước ở tương lai. Phóng sanh như vậy là phóng sanh đúng chánh pháp.
Tóm lại, ta phóng sanh vì lòng thương yêu rộng lớn, chớ không phải phóng sanh để cầu tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, tuổi thọ sống lâu, vv...
NẾU LOÀI VẬT PHÁ HẠI MÙA MÀNG, TA GÀI BẪY BẮT ĐƯỢC NHƯNG KHÔNG GIẾT, cho ăn uống rồi mang đi nơi khác thả thì có được phước không?
Phóng sanh như vậy (bắt được chim chóc, chuột, sóc, nhím, vv.. đem thả nơi khác) là làm một điều ngu ngốc. Nếu con vật phá hại mùa màng do công lao chúng ta làm ra, ta có thể áp dụng như sau:
1. Tạo môi trường cho chúng sợ hãi đừng vào phá.
2. Làm đồ ngăn chặn chúng không vào phá hại được.
3. Nếu chúng còn phá hại thì hãy dùng biện pháp tiêu diệt chúng. Nếu chúng bỏ đi, ta không nên truy đuổi giết. Chỉ con nào còn chống cự, phá hoại mùa màng thì ta giết chúng, chớ không đem thả chỗ khác, làm hư hại mùa màng của kẻ khác.
Công lao chúng ta làm ra thì chúng ta phải bảo vệ. Chúng đến phá hại mùa màng, thì chúng là kẻ cướp, chúng là kẻ có tội. Ta giết kẻ cướp không có tội.
Khi có kẻ xâm lăng nước ta thì họ có tội. Chúng ta đứng lên bảo vệ đất nước, giết họ thì không có tội. Cũng vậy, đàn kiến xâm chiếm nhà chúng ta, đàn kiến có tội.
Loài côn trùng phá hoại, loài côn trùng có tội. Ta diệt côn trùng bảo vệ mùa màng, ta không có tội.
Đạo lộ của Phật vạch ra có ba giai đoạn:
1/. Giai -đoạn tu tập cho người cư sĩ: thọ Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện. Sống và làm việc đúng đạo đức nhân quả.
2/. Giai đoạn chuyển tiếp : thọ Bát Quan Trai giới, tu tập tỉnh thức trong việc làm hàng ngày, dùng tuệ tri nhân quả, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng để xả tâm. Đó là người cư sĩ tu Tứ Chánh cần, Tứ Niệm Xứ để khắc phục tâm tham ưu ở đời. Giai-đoạn nầy gọi là “Chánh Niệm Tỉnh Thức”, hay gọi là thọ Bát Quan Trai giới.
3/. Giai đoạn tu tập của người tu sĩ: ly gia, cắt ái, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, tu tập Tứ Thánh Định, Tam Minh.
Người cư sĩ chỉ có thể tu tập làm chủ cuộc sống “sanh”, chớ không thể làm chủ tự tại, sống, chết và chấm dứt luân hồi, sanh tử được. Làm chủ sanh tức là làm chủ cuộc sống, làm chủ cuộc sống tức là luôn luôn hành động, thân, khẩu, ý đều thiện, không làm khổ mình, khổ người.
Người cư sĩ còn sống tại gia tu tập chỉ được tâm hồn thanh thản an lạc mà thôi, không thể đi xa hơn nữa được. Tuy đã xa lìa tham, sân, si, mạn, nghi, nhưng chưa đoạn dứt, và thất kiết sử còn trói buộc (bảy sợi dây đang còn trói buộc, sai sử) chưa bứt ra được, nên khó mà tiến tới giải thoát hòan toàn.
Tuy nhiên, nếu người cư sĩ có đời sống và tình cảm giống như người tu sĩ xuất gia, tức là sống đúng giới hạnh và giới đức của người ly gia, cắt ái. Nếu xa lìa các nghề nghiệp thế gian, không làm việc gì cả nhờ người thân giúp đỡ ngày một bữa cơm, hàng ngày tinh tấn chuyên cần tu tập ba giai đoạn rốt ráo của đạo lộ mà Đức Phật đã vạch ra (Bát Chánh Đạo) thì người cư sĩ nầy sẽ làm chủ sanh già, bệnh chết và chấm dứt luân hồi như người tu sĩ xuất gia chân chánh.
Ngươc lại, người tu sĩ, vị tỳ kheo mang hình thức tu sĩ, sống phạm hạnh, phá giới, bẻ vụn giới ... thì chẳng bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Tâm hồn họ không được giải thoát, tánh tình họ còn mang đầy tạp khí tham, sân, si, mạn, nghi chưa sạch.
Người tu sĩ nầy không bằng người cư sĩ tại gia mà biết sống với trí tuệ nhân quả, biết ngăn ác, diệt ác. Họ sống như trong Tứ Chánh cần đã dạy và tâm hồn họ thanh thản, an lạc, vô sự hơn nhiều.
Người tu sĩ tu hành không đúng giáo pháp và giới luật của Phật, đã không được giải thoát mà còn mang nợ của đàn na thí chủ, ngàn kiếp, muôn kiếp phải trả nợ áo cơm nhân quả chẳng biết bao giờ mới xong.
Lục Tổ Huệ Năng có nói: “Chẳng niệm thiện, chẳng niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”. Đây có phải là ý thức thanh tịnh không? Người tu thiền đạt đươc ý thức thanh tịnh sẽ đi về đâu?
Câu dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Chẳng niệm thiện, chẳng niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền” là chỉ cho ý thức thanh tịnh, không phải là Phật tánh. Khi ngủ, sáu thức đều ngưng hoạt động, ý thức không còn biết nữa, như vậy rõ ràng ý thức thanh tịnh không phải là Phật. Phật sao lại mê ngủ như vậy? Đây là một sự “tưởng” mà thôi.
Người tu thiền đạt được ý thức thanh tịnh sẽ đưa đến Không Vô Biên Xứ, rồi Thức Vô Biên Xứ ...
Trong Kinh Đại Phương Quảng, kinh Trung Bộ, tập I, trang 643, Đức Phật đã dạy: “Nầy hiền giả, ý thức thanh tịnh không liên hệ đến năm căn,có thể đưa đến không vô biên xứ (hư không là vô biên), có thể đưa đến thức vô biên xứ (thức là vô biên), có thể đưa đến vô sở hữu xứ (không có sự vật gì)”.
Thiền Đông độ còn có các danh từ khác để chỉ những trạng thái của định tưởng nầy như “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu ”.
“Vô Minh” không phải là không hiểu, mà là hiểu sai, hiểu không đúng. Vô Minh là thấy biết các pháp không đúng như thật. Thí dụ thấy thân nầy lầm chấp cho là ngã, là của mình, hoặc cho tâm là linh hồn, cho ý thức thanh tịnh là Phật tánh; đó là Vô Minh. Thân nầy do duyên hợp mà thành, lầm chấp cho thân nầy là thường, lạc, ngã, tịnh; đó là Vô minh.
“Minh” là sự hiểu biết các pháp như thật, là hiểu một điều gì đúng như thật. Thí dụ: Biết mười hai nhân duyên hợp lại là thế giới khổ, biết mười hai duyên tan rã là thế giới hết khổ; biết thân nầy không phải là ta, là của ta; đó là Minh. Minh là hiểu được cuộc đời là đau khổ, biết rõ nguyên nhân sanh ra khổ, biết rõ khi đoạn diệt thì một trạng thái an lạc thanh thản, nhẹ nhàng phát sanh, và biết rõ tám đường đi đến đoạn tận khổ đau của kiếp người. Minh là biết rõ thân nầy khi hoại diệt không có linh hồn, thần thức, không có một vật thường hằng (bản thể vạn hữu, Phật tánh, chơn như).
(IV/ 153-155) Chúng ta sanh ra đời, mang nghiệp thân nhân quả khổ đau nầy là do vô minh. Nếu quét sạch vô minh thì ta đã giải thoát hoàn toàn, đâu còn gì phải tu nữa. Chính vì phá vô minh mà đạo Phật dạy ta tu tập, nhắm vào sức tỉnh giác. Từ Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đến Định Niệm Hơi Thở đều phải tu trên thân hành niệm, lấy mọi hành đông của thân tu tập để tạo sức tỉnh thức. Sức tỉnh thức chưa có thì vô minh còn; vô minh còn thì tham, sân, si còn; tham, sân, si còn thì ác pháp còn ; ác háp còn thì tâm dục còn; tâm dục còn thì chưa giải thoát.
Muốn phá vô minh mà hành giả cứ tìm kiếm học hỏi và nghiên cứu để được thông suốt giáo lý kinh điển thì hành giả đó chỉ là học giả, vô minh lại càng vô minh hơn. Đừng nghĩ rằng học hỏi, nghiên cứu, thông suốt tam tạng kinh điển là hết vô minh. Đó là điều nghĩ sai. Có rất nhiều tu sĩ, và học giả thông suốt kinh sách, lý luận sắc bén, đối đáp như gió thổi. Nhưng đối với đạo Phật, họ vẫn là kẻ vô minh chỉ vì chưa có tỉnh thức.
Vậy, phải tu tập như thế nào để phá sạch vô minh?
Đức Phật biết rất rõ là các pháp ngoại đạo không thể nào đạt được giải thoát nên Ngài dạy chúng ta:
1/. Trước tiên phải thực hành “Thân hành niệm”, nghĩa là nương theo hành động của thân (nội và ngoại) mà tu tập để tạo sức tỉnh thức . Nhờ có tỉnh thức, tâm mới phá vô minh, tức là tâm luôn luôn tỉnh thức trong chánh niệm. Đức Phật đã ghép hai danh từ thành một tenm định của đạo Phật “Chánh niệm Tỉnh Giác Định”, một loại định xã tâm, diệt ngã, ly dục, ly ác pháp, mang đến cho hành giả từng phút, từng giây giải thoát.
Pháp môn Chánh Niệm Tỉnh Giác Định còn có tên là “Tứ Chánh Cần”, pháp môn ngăn ác, diệt ác pháp tuyệt vời, luôn luôn sống trong thiện pháp, khiến cho hành giả có tâm hồn an lạc, thanh thản.
2/. Giai đoạn thứ hai của con đường tu Phật, diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp, hành giả phải tu “Định Vô Lậu”. Muốn tu tập Định Vô Lậu (quán chiếu thân, thọ, tâm, pháp theo Kinh Tứ Niệm Xứ) hành giả phải có sức tỉnh thức khá cao. Dùng sức tỉnh thức đó quán xét nhân quả trong mỗi đối tượng, mỗi sự việc, và mỗi hoàn cảnh. Từ đó sẽ thấy các pháp vô thường như thật, khổ như thật, và bất tịnh như thật.
Bị Vô Minh ngăn che, bị tham ái trói buộc , con người tiếp tục tái sanh trong tương lai.
Con người bị Vô Minh ngăn che, không thấy đúng sự vật nên lầm chấp cái không phải cho là phải, cái không đúng cho là đúng, nên hoàn toàn tạo ra nghiệp ác hoặc thiện. Do nghiệp thiện, ác mà tiếp tục tái sanh luân hồi .
Tham ái (tức là lòng thương yêu, ưa thích) là động cơ mạnh nhất khiến ta tạo nên nhân quả, nghiệp thiện, nghiệp ác và tiếp tục tái sanh luân hồi.
Nầy các tỳ kheo, nếu tỳ kheo có ước nguyện, mong rằng “tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng Bốn Thiền thuộc Tăng Thượng Tâm, hiện tại lạc trú”, tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật.
“Các tỳ kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.
Tỳ kheo ấy phải kiên trì, nột tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch.
? Nội tâm tịch tĩnh: Tịch tĩnh là tĩnh giác, không phải là lặng lẽ, tịch chiếu. Đây là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, tu trong mọi hành động bằng thân hành niệm Tâm chưa có định mà giữ tâm tịch tĩnh là ức chế tâm, là tu sai thiền của đạo Phật. (Hòa Thượng Thông Lạc nhập được Tứ Thiền mới hiểu được làm sao để tịch tĩnh VI / 160) ? Không gián đoạn thiền định: tu Định Niệm hơi Thở: “quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”... “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”...”Quán vô thường tôi biếi tôi hít vô, quán vô thường tôi biết tôi thở ra” ... (Kinh Xuất Tức Nhập Tức).
? Thành tựu quán hạnh: Định Vô Lậu. Định của đạo Phật là tâm vô lậu (đoạn trừ ngũ triền cái và thất kiết sử).
? Thích sống tại các trụ xứ không tịch: sống độc cư (tịnh chỉ ngôn ngữ để nhập Sơ Thiền) Thiền của đạo Phật lúc nào cũng tỉnh thức trong mọi hành động, thân nội hay ngoại đều phải kèm theo pháp hướng tâm (Như lý tác ý).
Giới sanh Định. Định đây là tỉnh thức, luôn luôn hoạt động trong tầm tứ thiện . Đây không phải là tâm bất động, không vọng tưởng, chẳng niệm thiện, niệm ác, hay tịch chiếu như Thiền Đông Độ.
Trí Hữu Hạn là sự hiểu biết có hạn cuộc trong không gian và thời gian, nên sự hiểu biết rất cạn cợt. Thế nên, thỉnh thoảng các nhà khoa học tìm kiếm hay phát minh ra một vật thể gì thì con người hết sức vui mừng. Trí hữu hạn không thể nào hiểu được thế giới vô hình. Phần đông người ta dùng tưởng tri để hiểu biết, nên đã lầm lạc. Do tưởng tri, con người tin rằng có linh hồn, thần thức, bản ngã, chơn như, vv ... Chết oan ức, chết bất đắc kỳ tử thì không đi đầu thai được, không chỗ nương tựa, vất vưởng thành ma, quỉ đói khát, bắt bớ người còn sống để được cúng bái. Tướng chết trận thì được làm thần thánh. Người thế tục,ly gia, cắt ái, vào núi rừng sâu thẳm tu hành, đến khi chết linh hồn thành Tiên, thành Phật.
Chỉ có Trí Vô Hạn mới hiểu được thế giới vô hình, không gian, thời gian không còn hạn cuộc. Trí Vô Hạn là trí tuệ Tam Minh của Phật. Muốn được trí vô hạn thì phải chịu khó tu tập theo lộ trình Giới Định Tuệ và nhập bốn loại Thiền Hữu Sắc, tịnh chỉ khẩu hành, thân hành. Khi đó, thân định trên tâm, tâm định trên thân, rồi hướng tâm đến Tam Minh. Khi tâm đã viên mãn Tam Minh thì Trí Vô Hạn mới có. (II / 31-33)
Hơn nửa đời người đem hết sức lực tu hành theo nhiều pháp môn, chúng tôi đã kiến giải (triệt ngộ) được tất cả công án và đang sống trong trạng thái tĩnh lặng (biết bao nhiêu trạng thái tưởng xảy ra, như thần thông, biết chuyện quá khứ, vị lai, vv...). Dù biết như vậy, nhưng xét kỹ, chúng tôi chưa làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Chúng tôi đã trở về với pháp môn Tiểu Thừa may ra hy vọng còn làm chủ được thân tâm. Chúng tôi sống độc cư, sống một đời sống trầm lặng, sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ, với đời sống thiểu dục tri túc, chỉ xin cơm ngày một bữa mà thôi.
Chúng tôi tu Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định. Kết quả, chúng tôi hướng đến Tam Minh. Chỉ trong vòng sáu tháng, với một nhiệt tâm nồng cháy,với một nghị lưc dũng mãnh, một ý chí sắt đá, kiên cường, chúng tôi thành tựu, làm chủ sống chết, tâm chẳng hề dao động trước bất cứ một đối tượng nào. (VI / 76,77)
Kinh An Bang Thủ Ý dạy: “đếm 10 hơi thở không lộn là bắt đầu có định”. Đây là thiền ức chế tâm bằng pháp môn sổ tức. Còn đếm hơi thở là còn tác ý. Hơi thở là đối tượng của tâm. Tâm còn ở trong niệm hơi thở và còn tác ý ức chế tầm tứ thì làm sao gọi là Định Thứ Nhất?
Phật dạy nhập Sơ Thiền là ly dục, ly ác pháp. Ở Sơ Thiền, chưa có định.
Ly (dục) Sanh Hỷ Lạc, nhập Sơ Thiền.
Định Sanh Hỷ Lạc, nhập Nhị Thiền (VI / 71) ? Thiền Hữu Sắc dùng Ý thức mà tu, Thiền Vô sắc dùng Tưởng mà tu. Hai pháp tu nầy khác hẳn nhau, và cũng không phải là hai bậc thang của một cây thang.
? Các tổ ngày xưa cứ cho là Thiền Vô Sắc hơn Thiền Hữu Sắc (theo quan niệm dục giới, sắc giới rời mới đến vô sắc giới). Đức Phật đã chán nản bỏ đi sau khi đạt được đỉnh cao của hai ông thầy. Ngài đã đạt bốn thiền Vô Sắc (Không Vô Biên Xứ, Thức Vô biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ Định và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định), và biết nó không đem lại giải thoát sanh, già, bệnh, chết.
? Nên nhớ Ý thức thanh tịnh không liên hệ ngũ căn là nhập Không Vô Biên Xứ Định, chớ không phai là nhập Tứ Thiền rồi nhập Không Vô Biên Xứ Định!
Muốn ly bất thiện pháp thì ta phải dùng ba đức: nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng; nghĩa là đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi sự vật, mọi đối tượng ta phải tu tập Pháp Hướng Tâm, còn gọi là Pháp Dẫn Tâm. Thế nào là Pháp Hướng Tâm? Là pháp dẫn tâm vào một lý chân chính giải thoát của đạo. Nói một cách khác, trước mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh, mọi sự việc, ta đều hiểu rõ nó là vô thường, là khổ, không, là Vô ngã. Tất cả đều do các duyên hiệp lại mà thành, và duyên tan là mất, không có cái gì tồn tại. Sau đây là một vài câu tiêu biểu để dẫn tâm:
1/. Khi có một niệm tào lao nổi lên, ta có có thể nhắc tâm như thế nầy: “ Cái tâm phải thanh thản, không được nghĩ ngợi tào lao, vì nghĩ ngợi tà lao thì tâm bị phân chia tan nát, khó mà nhập thiền được”.
2/. Khi biết tâm thường giận hờn, phiền não, đau khổ thì dẫn tâm như thế nầy:
“Cái tâm phải thanh thản, không được giận hờn, đau khổ, phiền não nữa vì đau khổ, phiền não là ác pháp”.
3/. Khi có một niệm thương, nhớ, lo sợ , thì phải dẫn tâm như sau: “Cái tâm thanh thản, không được thương nhớ, lo sợ vì các pháp là do duyên tan hợp theo nhân quả nên không có gì là của mình. Vậy hãy bỏ xuống, đừng thương nhớ, lo sợ, vì thương nhớ, lo sợ là ác pháp, là pháp đau khổ trong tâm hồn mình”.
4/. Khi tâm không có niệm khởi, đang ở trong trạng thái thanh thản, thì hãy dẫn tâm như thế ầy: “Cái tâm phải thanh thãn trong trạng thái thanh thản, vì có thanh thản thì tâm mới có nội lực. Tâm có nội lực thì mới nhập thiền định”.
Muốn giữ tâm thanh thản thì phải nương vào hơi thở tùy tức, thỉnh thoảng lại nhắc tâm thanh thản một lần. Đó là giữ tâm thanh thản trong hơi thở. Nên nhớ, lúc nào, ngày nào, giờ nào, hễ có rãnh là dẫn tâm vào thanh thản. Đó là tu pháp hỷ. Dẫn tâm trong trạng thái thanh thản nầy là dẫn tâm tập nhập Sơ Thiền để lập đức nhẫn nhục, ly ác pháp. Tâm có thanh thản thì tâm mới bình tĩnh, sáng suốt. Tâm có bình tĩnh sáng suốt thì tâm mới nhẫn nhục. Tâm nhẫn nhục thì tâm mới tùy thuận.
Tâm tùy thuận thì tâm bằng lòng. Tâm có bằng lòng thì tâm mới xả được. Tâm có xả được thì tâm ly ác pháp. Tâm có ly được ác pháp thì tâm mới an vui, hạnh phúc. Tâm an vui hạnh phúc là tâm nhập Sơ Thiền. (TCB / 24)
1/. Tu tập ý tứ ý hành niệm . Khi tâm khởi một niệm, ta phải quan sát niệm đó, phân tích, và tìm ra nguyên nhân, mục đích của nó. Khi thấu rõ nó là ác pháp thì nó liền tan biến. Đó là tu tập ý tứ ý hành niệm, ly ác pháp, lập đức nhẫn nhục.
2/. Trước khi muốn nói ra một lời nào đó thì ta phải khởi ra một ý niệm trước.
Khi ý niệm khởi xong, ta phải quan sát ý niệm đó, tìm nguyên nhân, mục đích của nó. Khi thấu rõ ý niệm đó ta mới nói ra lời. Đây là tu tập ý tứ khẩu hành niệm để ly bất thiện pháp, lập đức nhẫn nhục.
3/. Khi tâm muốn làm một điều gì, ta phải khởi ra ý niệm của việc làm đó , rồi cũng tìm ra nguyên nhân, mục đích của nó. Khi đã tìm xong, biết nó là thiện pháp thì thân mới bắt đầu hành động. Đó là tu tập ý tứ thân hành niệm để ly các ác pháp và lập đức nhẫn nhục.
Tóm lại, đức nhẫn nhục giúp cho ta trở thành người hiền hòa, bình tĩnh và sáng suốt, ôn tồn, nhã nhặn và từ ái. Nó giúp cho con người từ phàm phu trở thành thánh nhân. Đức nhẫn nhục mang đến cho ta niềm vui, an lạc, hạnh phúc đời đời. Đức nhẫn nhục đi đến đâu thì chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ mất tiêu luôn. Đức nhẫn nhục đi đến đâu thì an lạc đi đến đó cho mọi người. (TCB / 25, 26) ** Đức tùy thuận là một phương tiện ly bất thiện pháp, xả ngã rốt ráo. Nếu một người còn chấp một chút ngã cũng không tu tập đức tùy thuận đúng cách. Nó xây dựng và rèn luyện con người thành người biết tôn trọng ý kiến người khác, con người rất sáng suốt và bình tĩnh trước mọi ý kiến của người khác.
Định Niệm Hơi Thở và Sổ Tức Quan khác hẳn nhau:
Sổ tức quan là một pháp ức chế tâm, nên đếm hơi thở liên tục.
Định niệm hơi thở không có đếm mà chỉ dùng pháp hướng để nhắc tâm tỉnh thức trong thân hành niệm nội hơi thở. Định niệm hơi thở tu về Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân tu về hình tướng nội, mục đích của nó là để đạt được chánh niệm tỉnh giác.
Nhờ có tỉnh giác mới khắc phục được tham ưu, nhờ khắc phục tham ưu mới ly dục ly ác pháp nên tâm thường ở trong chánh niệm.
Pháp Sổ Tức Quan dùng đếm hơi thở, ức chế tâm để diệt tầm tứ. Khi tầm tứ bị diệt (do sự ức chế tâm) thì tâm rơi vào định tưởng, do đó thân thường xuyên bị dao động. Từ đó, thân định, mà tâm chạy theo các trạng thái tưởng (tà định).
Pháp Sổ Tức có nhiều người không rành (không có kinh nghiệm) thở nhanh hoặc thở quá chậm theo số đếm, vì thế sanh ra rối loạn cơ thể, mệt, khó chịu, chóng mặt, tức lói, đau nhức, và thành bệnh.
Sổ Tức Quan không nằm trên Tứ Niệm Xứ, nên nó không phải một thứ chánh niệm; nó là tà niệm, nên nó không thuộc về Giới, Định, Tuệ của Phật.
Định Niệm Hơi Thở Phật dạy không ức chế tâm, chỉ nhắc tâm nhẹ nhàng để tâm luôn tự tỉnh thức: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra”; rồi không nhắc nữa, cứ để tâm tự biết hơi thở ra vô tự do mà không có sự vận dụng hơi thở và tập trung tâm mạnh.
Nhờ sự tu tập nhẹ nhàng thoải mái như vậy, mà tâm được sáng suốt và ly dục ly ác pháp. Do tâm ly dục ly ác pháp mà tâm thanh tịnh, nhờ tâm thanh tịnh nên tâm mới tịnh chỉ được các hành trong thân. Từ đó nhập Nhị Thiền cho đến Tứ Thiền một cách dễ dàng.
Người tu hành đừng nên lầm lạc cho rằng Định Niệm Hơi Thở và Sổ Tức Quan là một. Hai pháp môn nầy khác nhau một trời một vực. Vì nó không được liệt vào Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định nên nó không phải là pháp của Phật.
Pháp Sổ Tức Quan chỉ dùng để ổn định hơi thở mà thôi. Còn Định Niệm Hơi Thở nương vào thân hành nội nầy để nhập Bốn Thiền và cả Diệt Thọ tưởng Định nữa.
Cho nên, tùy theo đặc tướng của mỗi người mà dạy sổ tức, hoặc dạy ngay vào Định niệm Hơi Thở bằng pháp hướng tâm.
Hiện tại an lạc trú định có bốn trạng thái tâm: thanh thản tâm, yên lặng tâm, tỉnh thức tâm, và vắng lặng tâm.
1/. Pháp hướng cho tâm thanh thản : “Tâm như cục đất, phải ly dục ly ác pháp, không còn tham, sân, si, giận hờn nữa”.
2/.Pháp hướng cho tâm yên lặng: “Tâm phải diệt tầm, diệt tứ, phải nằm yên trên tụ điểm, biết rõ từng hơi thở một”.
3/. Pháp hướng cho tâm tỉnh thức: “Tâm phải tỉnh thức, không được ngủ và chiêm bao”.
4/. Pháp hướng cho tâm vắng lặng : “Sáu thức phải bám chặt vào tụ điểm, nhĩ thức phải nghe và trong, không được nghe âm thanh bên ngoài”.
Định Vô Lậu có hai cách tu:
1/. Lấy bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp mà quán xét tư duy.
Lấy thân ngũ uẩn quán xét tư duy.
Lấy thập nhị nhân duyên quán xét tư duy.
Lấy tứ đế quán xét tư duy.
Nhờ có quán xét tư duy mới thấu rõ và phân biệt được chánh pháp và tà pháp.
Do phân biệt được chánh pháp và tà pháp nên tâm mới viễn ly, từ bỏ các tà pháp và ác pháp, t ăng trưởng chánh pháp và thiện pháp.
Nhờ có viễn ly, từ bỏ nên tâm lần lần mới vô lậu.
2/. Lấy pháp hướng tu tập thành đạo lực khiến tâm ly dục ly ác pháp. Xa lìa và đoạn dứt lậu hoặc.
Định vô lậu không phải là một định diệt tầm tứ, để ta “ngồi im lặng chờ lậu hoặc nổi lên thì dùng định vô lậu quét sạch”. Khi tu định vô lậu thì phải dùng tâm tư duy quán xét bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp. Sau khi quán xét thông suốt thì dùng pháp hướng tâm quét sạch lậu hoặc, vén màn ngũ triền cái, bứt sạch thất kiết sử.
Trong 37 phẩm trợ đạo thì tu pháp nào trước? (37 phẩm trợ đạo là: tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo). Thiền định cũng có quá nhiều loại, nên tu lọai nào trước ? Có 16 loại thiền định:
1. Định vô lậu 2. Định sáng suốt 3. Định chánh niệm tỉnh giác 4. Định niệm hơi thở 5. Định sơ thiền 6. Định nhị thiền 7. Định tam thiền 8. Định tứ thiền 9. Định vô tướng 10. Định bất động tâm 11. Định bất động thân 12. Định không vô biên xứ 13. Định thức vô biên xứ 14. Định vô sở hữu xứ 15. Định phi tưởng phi phi tưởng xứ 16. Định diệt thọ tưởng định ? Đầu tiên, muốn tu thiền định của đạo Phật thì phải sống đúng giới luật. Muốn sống đúng giới luật thì phải sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn . Muốn sống đời sống thiểu dục tri túc phòng hộ sáu căn cho được trọn vẹn thì lấy ba hạnh “ăn, ngủ, độc cư” làm tiêu chuẩn kỷ luật, khép chặt mình trong khuôn khổ đó.
? Đó là những pháp tu tập đầu tiên về thiền định của đạo phật. Đạo Phật lấy thân, thọ, tâm, pháp thanh tịnh, tức là loại trừ 10 điều ác, tăng trưởng 10 điều thiện, đoạn trừ tham, sân, si.
? Trong 37 phẩm trợ đạo, từ Bát Chánh Đạo đến Tam Minh thì Tứ Diệu Đế là pháp đầu cần phải thông hiểu, nên Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển là pháp Tứ Đế; còn pháp tu đầu tiên lại là Tứ Chánh Cần.
? Pháp tu cuối cùng là Tam minh. Nếu người tu sĩ tu đạo tu chưa xong Tam Minh thì còn tu tập nữa. Tam Minh đã xong thì hết tu tập.
? Pháp môn của Phật có tên là trợ đạo, có nghĩa là trợ giúp cho viên mãn được đạo.
Vì thế có chỗ giống nhau nhưng lại có chỗ khác nhau, giống nhau vì pháp nầy trợ lực cho pháp kia, pháp kia trợ lực cho pháp nầy. Giống nhau là pháp nào cũng nhắm vào đoạn diệt ác pháp, tăng trưởng thiện pháp; viễn ly, từ bỏ, xa lìa ác pháp; thường hằng vuisống, giữ gìn, bảo trì, phòng hộ, che chở thiện pháp.
? Khác nhau là ở chỗ thực hành tu tập, cho nên mỗi pháp đều có tên của pháp môn đó để chỉ rõ hành trình tu tập của chúng ta mang lại kết quả cho thân, thọ, tâm, pháp, chúng ta làm chủ và giải thoát hoàn toàn theo kết quả của pháp môn ấy.
Về phần tu định, trong 16 loại định thì Chánh Niệm Tỉnh Giác tu trước, Diệt Thọ Tưởng Định tu sau cùng. Các loại thiền đinh thường kết hợp với nhau (câu hữu), không có định nào tu riêng rẽ. Thí dụ Định Niệm Hơi Thở (giống như trợ động từ avoir của tiếng Pháp dùng dể chia các động từ khác) là loại thiền định làm trợ duyên cho các loại thiền định khác như Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Vô lậu, vv ...
? Bất Động Tâm Định và Định Vô lậu là hai tên khác của Sơ Thiền.
? Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng phi Phi Tưởng Xứ là định Vô sắc. Đức Phật đã từ giả mấy ông thầy của Ngài sau khi Ngài đã đạt sự chứng ngộ cao tột ở Thiền Vô Sắc, vì nó không giúp ích được gì cho sự giải thoát sanh, già, bệnh, chết.
Tâm còn xúc động trước cảnh khổ đau, bất hạnh của người khác là tâm dao động. Phật dạy: “Thương cũng khổ, mà ghét cũng khổ”.
Người muốn tâm bất động trước cảnh thương tâm, thì phải tập nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả. Trước cảnh đau thương của con người cũng như của loài vật, ta sẵn sàng cứu giúp, an ủi bằng khả năng và sức lực của mình. Nhưng tâm ta bất động, vì thấu suốt nhân quả nghiệp báo mà nguời và loài vật phải trả vay, vay trả. Có gì mà tâm ta phải xúc động, thương cảm?
Chúng ta không làm ngơ trước nỗi bất hạnh của người khác, nhưng tâm ta phải theo pháp, đúng như lời của đức Phật dạy, không được để tâm dao động trước các pháp . Tâm dao động là tâm đau khổ. Tâm đau khổ trước hoàn cảnh bất hạnh của kẻ khác là tâm “thương vay, khó mướn”; nó chẳng giúp ích gì cho ai mà lại còn làm cho mình tối tăm thêm.
Cõi Trời Đâu Suất có không? Có phải khi các nhà tu hành đắc đạo đều có hình tướng cũng có tên trong danh sách cõi trời?
Cõi Trời Đâu Suất là một cõi vô hình, nghĩa là một trang thái tâm thiện, an lạc, yên vui ở cấp độ thiện an lạc, yên vui đó, chớ không phải là có một cõi Trời Đâu Suất ở ngoài thân tâm của con người.
Cõi Trời Đâu Suất chỉ là một trạng thái tâm nhẫn nhục , nên trong kinh thường dạy: “Đức Bồ Tát Phổ Minh ở cõi Trời Đâu Suất giáng thế gian, tu hạnh nhẫn nhục, thành Phật Thích Ca Mâu Ni”. (Hư Vân Hòa Thượng bị quân lính chính quyền tra tấn, đánh đập tàn nhẫn, đến ngấc, xỉu, bất tỉnh. Đó là lúc mà sau nầy Ngài kể lại là Ngài đang ở cung Trời Đâu Suất nghe đức Di Lặc Bồ Tát thuyết pháp, có A Nan làm thị giả. (Xem Tự Truyện Hư Vân Hòa Thượng)
Báo chí có đăng tin các vị Lạt Ma Tây Tạng sau khi chết thần thức đã đầu thai trở lại, nên các vị nầy nhớ lại đời quá khứ của mình một cách rõ ràng. Vậy nên hiểu vấn đề nầy như thế nào?
Trong kinh Phật dạy tu tập tỉnh thức, có bốn giai đoạn:
1/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹ, biết rõ ràng, nhưng khi vào thai mẹ thì không còn biết biết nữa.
2/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹvà ở trong bụng mẹ đều biết rõ ràng, nhưng đến khi sanh ra thì lại không biết.
3/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ và đến khi sanh ra đều nhớ biết rõ ràng. Đến khi lớn lên thì không còn biết nữa.
4/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ sanh ra và lớn lên đều nhớ biết rõ ràng.
Các vị lạt Ma Tây Tạng đã tu tập tỉnh thức thứ tư nên nhớ lại được đời quá khứ của mình. Đó cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần tu tỉnh thức đúng cách mà đức Phật đã dạy pháp chánh niệm tỉnh giác định tu trong hành động ngoại và nội của thân thì sẽ có kết quả như các vị Lạt Ma Tây Tạng.
* Câu chuyện huyền thoại Đức Phật khi vừa sanh ra, đi bảy bước có bảy hoa sen đỡ chân người. Khi đi bảy bước xong, Ngài dừng lại, tay chỉ trời và tay chỉ đất và nói:
Thiên thượng thiên hạ Duy ngã độc tôn Nhất thiết thế gian Sanh, lão, bệnh, tử.
Trên trời, dưới trời, Chỉ ta vượt qua Khắp trong thế gian, Sanh, già, bệnh chết.
Thật ra, người về sau đã lấy hai câu đầu của bài kệ và huyền thoại, thần thánh hóa Đức Phật lúc Ngài Đản sanh.
Về sau, kinh sách phát triển (Đại Thừa) và Thiền Tông đã lấy hai câu đầu nầy giải thích để chỉ cho “Phật tánh”.
** Nên tổ chức ngày Phậ Đản như thế nào cho đúng nghĩa?
Đoi với ngày Phật Đản, người cư sĩ nên tổ chức một ngày thọ bát quán trai, giữ gìn giới hạnh nghiêm túc và tu tập các loại thiền định.
Người tu sĩ ngày đó ngồi thiền nhập định, thân tâm bất động để làm gương sáng giải thoát cho mọi người .
Nếu tất cả chùa đều tổ chức như vậy thì hôm đó là ngày trang nghiêm thanh tịnh, thậm chí người ở trong chùa cũng không nghe có tiếng động, dù là tiếng hơi htở.
Ngày xưa, tại trụ của Đức Phật, Ngài đã làm cho các nhà vua rất ngạcnhiên vì với một số lượng tỳ kheo đông đảo (1250 vị) , thế mà cảnh nơi đó im phăng phắc, không một tiếng động, không một lời thì thầm nào cả. Toàn cảnh vắng lặng.
Nếu nhớ ngày sanh của Phật để tỏ lòng tôn kính thì không có gì bằng tạo cảnh quang vắng lặng. Đó là làm đúng ý nghĩa của ngày lễ Đản Sanh trong đạo Phật.
Ly sanh hỷ lạc: trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
? Tâm ly dục, ly ác pháp ? Giữ giới luật trọn vẹn Sống đúng phạm hạnh, đầy đủ đức hạnh nhân bản Tịnh chỉ ngôn ngữ nhập sơ thiền Phòng hộ sáu căn, sống độc cư ? Tâm thanh tịnh vì đã ly dục, ly ác pháp (nhập Sơ Thiền) Tất cả cấu uế, mê lầm đều dứt sạch.
* Định của Sơ Thiền là Quán Ly Tham, là nương theo hơi thở để tâm tỉnh giác, xả tâm tham, sân, si, mạn nghi: “Quán ly tham, tôi thở vào, quán ly tham, tôi thở ra” “Quán ly sân, tôi thở vào, quán ly sân, tôi thở ra” ? Nhờ nghiêm trì giới luật mà hành giả đạt được Tâm Bất Động Định (Nhân giới sanh Định). Định nầy là do giới luật mà có, không phải do thiền định.
? NHẬP SƠ THIỀN:
1/ Lìa năm chi phần: từ bỏ tham, sân, si, hôn trầm thùy miên, trạo hối nghi ngờ.
2/. Thành tựu năm chi phần: Tầm, tứ (diệt tầm, giữ tứ), hỷ, lạc, nhất tâm.
Định sanh hỷ lạc ? Gom ý thức, diệt tầm, tứ, nhập Nhị Thiền. Tâm không phóng dật, xả tâm ? Dùng pháp hướng tịnh chỉ tầm, tứ (không tầm, không tứ) : tịnh chỉ ý thức.
? Nhờ giới luật nghiêm trì, an trú trong phạm hạnh nên có oai nghi, tế hạnh.
? An lạc, thảnh thơi, vô sự.
? Tịnh chỉ khẩu hành (hành động phat ra lời nói).
? Tâm định trên thân, tâm hướng vào trong thân.
? Ý thức ngưng hoạt động, tưởng thức bắt đầu hoạt động . Xa lìa ý thức .
? Muốn nhập nhị Thiền phải ở trong trạng thái tâm thanh tịnh (tâm không phóng dật), thanh thản, an lạc, rồi nương theo định niệm hơi thở, dùng pháp hướng tâm như lý tác ý tịnh chỉ tầm tứ.
? * Không phải nhờ định mà trừ cấu uế, không phải tùy tức mà nhập nhị Thiền như Kinh An Bang Thủ Ý đã dạy. Định mà còn niệm thì làm sao gọi là Định được?
Đếm và Tùy (Sổ tức, tùy tức) là hai phương pháp ức chế tâm, không thể là thiền định được.
Ly Hỷ Diệu Lạc: tịnh chỉ (lìa xa) tưởng thức.
? Không phải là cái vui mừng của cảm giác, của ý thức, ? Ở Tam Thiền không có gom ý thức (Ý thức đã gom ở nhị Thiền). Gom tưởng thức, xa lìa tưởng thức. Ly Hỷ Trú Xả nhập Tam Thiền.
? Diệt âm thanh.
? Dứt mộng mị, chiêm bao.
? Hướng tâm tịnh chỉ 18 loại tưởng.
? Ly được “tưởng dục”, nhưng gốc lậu chưa quét sạch. Chỉ khi nào chứng Lậu Tận Minh, các lậu mới hết sanh, chấm dứt tái sanh, luân hồi.
? Thâm cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là Xả niệm Lạc Trú, chứng và trú Thiền Thứ Ba. (lạc thọ khởi lên nơi ta, tồn tại, nhưng không chi phối được ta).
** Gom ý thức kiểu Thiền ĐôngĐộ là ức chế tâm (sổ tức, tùy tức, niệm Phật, niệm chú, tri vọng, chăn trâu, tham thoại đầu , vv).
? Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, diệt Hỷ, Ưu.
? Tu tịnh chỉ hơi thở (ngưng hơi thở), không còn đối tượng của tâm.
? Tâm định trên thân, thân định trên tâm; thân tâm thành một khối (thân tâm bất động). Ở Sơ Thiền, tâm không phóng dật, sáu thức quay vào trong, tâm không phóng ra ngoài. Thân đụng việc gì thì thức biết rõ, rõ bên trong mà không biết rõ bên ngoài, nên gọi là tâm định trên thân.
? Lạc, khổ thuộc về thọ, là đối tượng của tâm, chưa nhập Tứ Thiền. Như vậy, lạc thọ khởi nơi ta, được tồn tại, nhưng không chi phối được ta.
? Thân hành tịnh chỉ tức là gom năm thức, nhập Tứ Thiền. Tịnh chỉ hơi thở không phải là sổ tức (sổ tức là ức chế tâm, diệt vọng tưởng bằng cách đếm hơi thở).
? “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, ta dẫn tâm hướng đến Túc mạng minh ...
MỤC LỤC
Lời nói đầu 2,3
Tứ chánh cần, tứ niệm xứ, tứ thánh định, tứ như ý túc, thanh tịnh tâm Tu định vô lậu có rơi vào tùy miên không? 4
Tọa thiền, ngọa thiền, sổ tức quan, định niệm hơi thở 5
Tại sao người ta gọi tứ thánh định là Tiểu Thừa? 6
Tại sao tu Giới trước, còn bắc Tông thì tu Định và Huệ? 6
Tu tứ chánh cần như thế nào? 7
Ngũ cái 8
Thất kiết sử 9
Tỉnh thức 10
Bài kệ “Chư ác mạc tác ...” Hành thập thiện 11
Đoạn diệt ác pháp bằng cách nào? 12
Hạnh độc cư 13
Vọng tưởng 14
Bất động tâm định, vô tướng tâm định 15
Tu không đúng pháp Phật dạy 16
Tu đúng, Như lý tác ý 17, 18
Các pháp hướng, pháp hướng tâm 19
Xả, Giới 20
Tàm, quý 21
Tâm sắc dục là gì? Cách đối trị ra sao? 22
Tu pháp gì để làm chủ nhân quả 22
Phật là trí tuệ của vị minh sư, A La Hán tái thế 22
Phật ngôn, Thiền xả tâm 23, 24
Nhân quả, người tu làm chủ cái gì? 25, 26
Tu có đối tượng hay không có đối tượng 27
Lấy đối tượng tu tập định vô lậu, Khó, khó, khó 28, 29
Thiền là đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền 29
Tu giới, định, tuệ có nên đoc kinh sách, học ngoại ngữ không? 30
Kinh Nguyên Thủy 30
Bao giờ mới tu xong? Phóng sanh đúng chánh pháp 31
Người cư sĩ làm chủ sanh, già, bệnh, chết được không? 32
Ý thức thanh tịnh có phải là Phật tánh không? 33
Minh và vô minh 33,34
Do đâu mà có tái sanh luân hồi? Kinh ước nguyện 34
Trí hữu hạn và vô hạn 35
Ngộ đạo 36
Ly bất thiện pháp 37
Tu tập ý tứ trong ba nghiệp 38
Hiện tại an lạc trú định 39
Tu định vô lậu Tu pháp nào trước 40
Xúc động trước những cảnh khổ 40
Cõi trời Đâu Suất 41
Các vị Lạt ma tái sanh 41
Ngày Phật Đản 42
Tứ Thiền: Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền 43, 44
Quyển CNTP II ( II) nầy là phần tiếp nối của quyển CNTP. Chúng tôi tiếp tục trích các bài viết của HT Chơn Như trong các quyển Đường Về Xứ Phật I-VI. Đặc biệt kỳ nầy chúng tôi nhận được quyển ĐVXP VIII mà lòng mừng vô hạn. Bấy lâu nay mong ước được sự chỉ dẫn rõ ràng hơn và cụ thể hơn, mặc dù trong quyển Thiền Căn Bản, tập I đã hướng dẫn tạm đủ để chúng ta tu tập ly dục ly ác pháp với ba đức, ba hạnh mà chúng tôi thiết nghĩ phải mất một thời gian khá lâu mới đạt được. Hạnh ăn, ngủ, độc cư đã khó, mà ba đức nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng lại càng vi tế và khó thực hành hơn nữa. Ta không thể tự dối lòng được nếu ta giả vờ bằng lòng, hoặc cố gắng tuỳ thuận. Nếu ráng nhẫn nhục cho qua, để chứng tỏ rằng mình đang tu ba hạnh, ba đức thì lại càng sai lầm.
Quyển ĐVXP VIII mà Hoà Thượng đã ưu ái gởi đến cho chúng tôi đã giải tỏa mọi thắc mắc của chúng tôi. Chúng tôi chọn đưa Thời Khoá Tu Tập vào trang đầu của quyển CNTP II nầy sau khi nghiên cứu kỹ, sắp xếp lại thành bản liệt kê bốn thời công phu trong ngày, mỗi thời là ba tiếng đồng hồ, và có tên những pháp hành khác nhau. Dưới bản Thời Khoá Tu Tập là phần giải thích và liệt kê những câu pháp hướng thật tuyệt vời để tu tập Định Vô Lậu, và Chánh Niệm Tỉnh giác Định. Chúng tôi tin tưởng rằng nếu ai tu hành đúng theo thời khoá tu tập nầy chắc chắn sẽ có kết quả tốt.
Trong ba tháng qua chúng tôi vẫn đọc đi, đọc lại nhiều lần các quyển ĐVXP của Hoà Thượng, mỗi lần đọc lại thấy thắm thiá hơn. Thì ra pháp hành đã nằm sẵn trong đó. Chỉ vì chúng ta căn cơ còn kém cỏi, đọc lướt qua thấy cũng hay hay, nhưng lại không kiên trì “hạ thủ công phu”. Mấy tháng nay, chúng tôi đã gác bỏ tất cả những kinh sách khác (kể cả những sách mà chúng tôi ưa thích nhất) về Đại Thừa và Thiền Đông Độ, và chỉ đọc sách của Hoà Thượng Chơn Như mà thôi. Khi tìm hiểu về kinh điển của Nguyên Thuỷ chúng ta mới thấy Đức Phật đã dạy tất cả. Chỉ tại chúng ta phước mỏng, nghiệp dầy, không may gặp phải những vị thầy chưa chứng ngộ chỉ dạy, không có pháp hành cụ thể, không thực tế, nên đã thực hành sai, không có kết quả. Hỡi những ai đã từng cho rằng mình thông minh, trí tuệ, đã có công phu tu tập nhiều năm và cảm thấy đạt nhiều kết quả trong thiền đinh, nếu quý vị chưa tìm thấy được giá trị siêu việt của Tứ Thiền của Phật giáo Nguyên Thuỷ thì quý vị cũng nên xét lại sự tu tập của mình. Đức Thế Tôn đã thành đạo, chứng Tam Minh, Lục Thông bằng con đường Tứ Thiền mà Sơ Thiền là chặn đầu mà Ngài đã tình cờđạt được khi còn là Thái tử, khoảng tám, chín tuổi đi theo cha, dự lễ hạđiền và đã ngồi thiền dưới cây diêm phù (hồng táo).
Những trang cuối của quyển CNTP II chúng tôi trích dẫn Lời Nói Đầu trong quyển Giới Đức Làm Người, tập II, bài Vượt Thoát Cuộc Sống Thế gian, Thoát Khỏi Trần Lao Việc Chẳng Thường của quyển DVXP I và trích một vài đoạn ngắn trong quyển DVXP VIII để cho thấy sự xuyên suốt trong lối dạy độc đáo của HT Chơn Như.
Ước mong các huynh đệ cùng chúng tôi mỗi ngày, ngoài thì giờ công phu nên dở lại từng trang CNTP I, II cô đọng những lời dạy vàng ngọc của Hoà Thượng và mạnh tiến trên đường đạo giải thoát. Chúc quý vị luôn luôn được thanh thản, an vui.
Tâm Quang TừĐắc kính ghi Đầu Hạ, năm 2000
Mỗi ngày tu tập 4 thời (khuya, sáng, chiều, tối), mỗi thời là 3 tiếng đồng hồ và cách thức tu tập mỗi thời đều giống nhau.
Khuya | Sáng | Chiều | Tối |
---|---|---|---|
2:00 - 2:30 Ngồi thở5 hơi, đi 20 bước (4x5 bước) 30' | 7:00 - 7:30 Thở5 hơi, đi 20 bước Tập nhưthế30' | 2:00 - 2:30 Thở5 hơi, đi 20 bước Tập 30 phút | 7:00 - 7:30 Thở5 hơi, đi 20 bước Tập 30 phút |
2:30 - 3:00 nghỉxảhơi 30 phút | 7:30 - 8:00 nghỉxảhơi 30 phút | 2:30 - 3:00 nghỉxảhơi 30 phút | 7:30 - 8:00 nghỉxảhơi 30 phút |
3:00 - 3:30 Chánh Niệm Tỉnh Giác TứVô Lượng Tâm | 8:00 - 8:30 Chánh Niệm Tỉnh Giác TứVô Lượng Tâm | 3:00 - 3:30 Chánh Niệm Tỉnh Giác TứVô Lượng Tâm | 8:00 - 8:30 Chánh Niệm Tỉnh Giác TứVô Lượng Tâm |
3:30 - 4:00 nghỉxảhơi 30 phút, được phép vọng tưởng | 8:30 - 9:00 nghỉxảhơi 30 phút, được phép vọng tưởng | 3:30 - 4:00 nghỉxảhơi 30 phút, được phép vọng tưởng | 8:30 - 9:00 nghỉxảhơi 30 phút, được phép vọng tưởng |
4:00 - 4:30 Bất Hoại Tịnh, TứVô Lượng Tâm, Nhân quả, Duyên sinh | 9:00 - 9:30 Bất Hại Tịnh, TứVô Lượng Tâm, Nhân quả, Duyên sinh | 4:00 - 4:30 Bất Hoại Tịnh, TứVô Lượng Tâm, Nhân quả, Duyên sinh | 9:00 - 9:30 Bất Hoại Tịnh, TứVô Lượng Tâm , Nhân Quả, Duyên Sinh |
4:30 - 5:00 Định Niệm Hơi Thở Định Vô Lậu | 9:30 - 10:00 Định Niệm Hơi Thở Định Vô Lậu | 4:30 - 5:00 Định Niệm Hơi Thở Định Vô Lậu | 9:30 - 10:00 Định Niệm Hơi Thở Định Vô lậu |
5:00 - 7:00 Lao Tác, Điểm tâm | 10:00 - 12:00 nghỉngơi, độ ngọ | 5:00 - 7:00 Lao động nhẹNghỉ ngơi | 10:00 - 2:00 tịnh chỉ |
12:00 - 14:00 tịnh chỉ | |||
Trong ba tiếng đồng hồ ở mỗi thời công phu, thì hai giờ đầu chỉ thực tập 30 phút, rồi nghỉ 30 phút.
1/. U Giờ thứ nhấtU : công phu 30 phút, nghỉ xả hơi 30 phút Ngồi kiết già thẳng lưng, trước khi vào 5 hơi thở thì phải như lý tác ý, hướng tâm nhắc: "Tâm phải chú ý rất kỹ từng hơi thở một, không được xao lãng" hoặc "tâm phải bám chặt hơi thở, không được lơi lỏng". Sau khi nhiếp tâm trong 5 hơi thở xong thì đứng dậy đi kinh hành. Trước khi đi cũng phải tác ý: "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành". Đi kinh hành 5 bước thì lại nhắc tâm như thế. Sau khi được 20 bước (4 lần tác ý), thì tiếp tục ngồi thở 5 hơi. Liên tục thay đổi hai tư thế ngồi và đi kinh hành, tu tâp đúng 30 phút thì nghỉ 30 phút.
Nghỉ xả hơi 30 phút:
Sau khi tu tập 30 phút xong, liền xả nghỉ thư giản, nghỉ ngơi, ngồi chơi trong tư thế thường, thỉnh thoảng nhắc tâm: "Tâm phải thư giản, nghỉ ngơi, vô sự, thanh thản và an lạc. Tâm không được nghĩ ngợi lung tung. Thân và các cơ buông thỏng xuống, thự nhiên, không được gồng hay gò bó, hai chân phải buông thỏng ra, tự nhiên, thoải mái, dễ chịu".
Sau khi thư giản 30 phút thì đi kinh hành, tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
2/. U Giờ thứ nhìU : tu tập 30 phút Đi kinh hành tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác câu hữu (cùng với) Tứ Vô Lượng tâm. Vừa đi vừa chú ý bước chân, vừa nhắc: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi phải giữ gìn, tránh không đạp dẫm lên chúng sanh", rồi đếm bước từ 1 đến 20. Đúng 20 bước thì dừng lại, ngồi nghỉ xả hơi 2 phút. Khi xả nghỉ 2 phút xong, liền đứng lên tiếp tục đi kinh hành và cũng nhắc tâm như trên: "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành",hoặc là "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi giữ gìn không dẫm đạp lên chúng sanh". Hướng tâm như vậy rồi tiếp tục đếm bước đi từ 1 cho đến 20 bước, rồi xả nghỉ. Khi ngồi nghỉđúng 2 phút thì lại tiếp tục kinh hành. Cứ tiếp tục, vừa kinh hành, vừa nghỉ cho đến khi đủ 30 phút mới xả nghỉ.
Nghỉ xả hơi 30 phút.
Trong thời gian nghỉ có thể ngồi chơi, hay may vá. Tâm có vọng tưởng hay không có vọng tưởng cũng tốt, đừng nên lúc nào cũng ức chế tâm, không cho vọng tưởng xen vào là không tốt. Phải để tâm tự nhiên của nó, đừng bắt ép nó thái quá, muốn mau mà thành chậm. Nhớ không được tập trung quá nhiều mà sanh ra mỏi mệt, lười biếng, hôn trầm, buồn ngủ, thân lờ đờ, uể oải, tâm thẩn thơ, khó chịu. Đó là tu quá sức thành ra tu sai. Ví như người lên dây đàn, chùn thì không thành tiếng, căng quá thẳng thì đứt dây. Chỉ có lên dây vừa là phát âm tiếng tốt, đúng nhịp. Cho nên thời gian xả nghỉ phải để tự nhiên như người chưa bao giờ tu.
3/. U Giờ thứ baU : Sau khi xả nghỉ tâm được tỉnh thức hoàn toàn mới nên tiếp tục tu tập Định Vô Lậu:
a/. Quán pháp: ngồi kiết già, lưng thẳng, dùng pháp hướng tu Bất Hoại Tịnh: "Tâm phải bất động trước các pháp của thế gian, phải giống như tâm Phật, phải buông xả hết, không được buồn, vui, yêu, ghét, giận, hờn, thù, oán, ham muốn và sợ hãi, v.v.... Tất cả các pháp trên thế gian nầy chẳng có gì là ta, của ta. Nếu ta còn thấy là ta, là của ta, là ta còn vô minh, điên đảo, ngu si, là ta đã tự buộc chặt ta vào những sợi dây sanh tử luân hồi và khổ đau muôn kiếp".
b/. Quán thức ăn, quán ngã: Kế tiếp ta dùng pháp như lý tác ý để diệt ngã, xả tâm chấp ngã: "Thực phẩm là món ăn bất tịnh, uế trược, ta phải chừa tánh ưa thích, ăn ngon". Và ta tác ý câu khác nữa: "Thân, thọ, tâm và các pháp nầy đều là do duyên hợp, không có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, nên từđây về sau ta không được chấp ngã, coi trọng ngã, yêu quí ngã, lo lắng cho ngã".
c/. Giải thoát sợ loài vật: Ta nên quan sát các loài vật đều hiền lành, không có loài vật nào hung ác. Chúng cắn ta chỉ vì bảo vệ sự sống của chúng mà thôi. Khi bị dậm, đạp lên, chúng đau đớn mà phản ứng, bảo tồn sự sống nên mới cắn chúng ta. Vì nghiệp báo khác nhau nên chúng có những hình dạng, màu sắc khác nhau khiến cho ta thấy có loài rất đáng sợ, có loài thì không. Muốn không sợ hãi, ta nên dùng pháp hướng như lý tác ý: "Tâm đừng nên sợ rắn, rắn không cắn người hại người hiền đâu. Ta là người hiền, tu theo đạo Phật, ta không làm ác, làm hại, làm khổđau chúng sanh, thì quyết chắc không bao giờ có ác thú và rắn độc hại ta được. Ta hãy bình tĩnh và không bao giờ sợ hãi nữa".
Giải thoát sợ ma: Nếu tâm thường hay sợ ma và bóng đêm thì ta nên nhắc: "Đức Phật đã dạy thế giới siêu hình không có, tức là không có linh hồn người chết, mà đã không có linh hồn người chết thì ma là cái gì? Ta quyết định không sợ ma. Vậy không có ma, ma chỉ là một bóng dáng tưởng tượng của người còn mê tín lạc hậu mà thôi. Từ nay tâm ta không được sợ ma nữa. Phải dạn dĩ, can đảm và chẳng hề sợ gì cả".
d/. Quán nhân quả: Kế tiếp con phải tu tập nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả và tư duy, tìm cách để hàng phục những hành động ác của thân, miệng, ý của mình, để hàng ngày chuyển hoá những hành động ác trở thành những hành động thiện. Và nhờ biết chuyển hoá như vậy, nên chuyển hoá được nghiệp báo khổ đau, tật bệnh, tai nạn và chuyển hoá cả nghiệp báo của luân hồi sanh tử được nhẹ nhàng, thoải mái 30 phút cuối cùng của thời công phu: Tu Định Niệm Hơi Thở cùng với pháp hướng như lý tác ý về Vô Lậu.
Trước tiên, ta phải ngồi kiết già, lưng thẳng, dùng pháp hướng tâm như lý tác ý: "Sáu thức phải bám chặt vào tụđiểm, biết hơi thở ra vô cho rõ ràng". Hướng tâm xong rồi, hít một hơi thở dài, chậm chậm để gom tâm, kế tiếp thở hơi thở bình thường, khoảng 5 hơi thở thì lại hướng tâm một lần: "Tôi thở, tôi biết tôi đang thở". Khi hướng tâm, lại tiếp tục 5 hơi thở nữa. Từđây về sau, cứ sau 5 hơi thở bình thường thì một lần tác ý, tuần tự theo các câu pháp hướng như sau (tu tập Định Vô lậu):
• Quán ly tham, tôi biết tôi đang hít vô; quán ly tham, tôi biết tôi đang thở ra.
• Quán ly sân, tôi biết tôi đang hít vô; quán ly sân, tôi biết tôi đang thở ra.
• Quán từ bỏ tâm si, tôi biết tôi đang hít vô; quán từ bỏ tâm si, tôi biết tôi đang thở ra.
• Quán từ bỏ ngã mạn, tôi biết tôi đang hít vô; quán từ bỏ ngã mạn, tôi biết tôi đang thở ra.
• Quán từ bỏ tâm nghi, tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm nghi, tôi biết tôi thở ra.
Trên đây là phần quán lìa Ngũ Triền Cái (Năm thứ ngăn che). Ghi nhớ là sau mỗi câu pháp hướng thì thở 5 hơi thở bình thường (không có một tạp niệm nào xen vô).
Tiếp theo, ta lại thực tập quán lìa Thất Kiết Sử (Bảy thứ buộc ràng) giống như trên, sau mỗi câu pháp hướng thì thở 5 hơi thở bình thường:
• Quán từ bỏ ái kiết sử, tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ ái kiết sử, tôi biết tôi thở ra.
• Quán từ bỏ sân kiết sử, tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ sân kiết sử, tôi biết tôi thở ra.
• Quán từ bỏ thân kiến kiết sử, tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ thân kiến kiết sử, tôi biết tôi thở ra.
• Quán từ bỏ nghi kiết sử, tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ nghi kiết sử, tôi biết tôi thở ra.
• Quán từ bỏ mạn kiết sử, tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ mạn kiết sử, tôi biết tôi thở ra.
• Quán từ bỏ hữu tham kiết sử, tôi biết tôi hít vô;, quán từ bỏ hữu tham kiết sử, tôi biết tôi thở ra.
• Quán từ bỏ vô minh kiết sử, tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ vô minh kiết sử, tôi biết tôi thở ra.
Tiếp theo, ta lại quán chiếu thân, thọ, tâm, pháp (Tứ Niệm Xứ) không phải là ta, là của ta, là tự ngã của ta. Trước hết là quán thân (nhớ thở 5 hơi bình thường sau mỗi câu hướng tâm):
• Thân nầy không phải là ta, tôi biết tôi hít vô; thân nầy không phải là ta, tôi biết tôi thở ra.
• Thân nầy không phải của ta, tôi biết tôi hít vô; thân nầy không phải của ta, tôi biết tôi thở ra.
• Thân nầy không phải là tự ngã của ta, tôi biết tôi hít vô; thân nầy không phải là tự ngã của ta, tôi biết tôi thở ra.
Sau khi quán thân xong, ta tiếp tục quán thọ, với ba câu pháp hướng tương tự như trên (Cảm thọ không phải là ta, là của ta, và tự ngã của ta...) 5 hơi thở sau mỗi câu hướng tâm. Quán thọ xong, thì quán tâm. Quán tâm xong thì quán các pháp, cũng tương tự như trên, với 5 hơi thở sau mỗi câu hướng tâm.
o Điều quan trọng cần nhớ là lúc nào ta cũng phải nương theo hơi thở khéo tác ý như vậy, thì sự lợi ích và kết quả rất lớn cho hành giả.
Sau khi tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu pháp hướng vô lậu về thân, thọ, tâm, pháp xong, ta lại tiếp tục tu tập Định Niệm Hơi Thở và câu hữu pháp hướng vô lậu thân, thọ, tâm, pháp như sau (quán thân, thọ, tâm, pháp theo hơi thởđi kèm với vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh):
• Thân nầy vô thường, tôi biết tôi hít vô; thân nầy vô thường, tôi biết tôi thở ra.
• Có thân là khổ, tôi biết tôi hít vô; có thân là khổ, tôi biết tôi thở ra.
• Thân nầy vô ngã, tôi biết tôi hít vô; thân nầy vô ngã, tôi biết tôi thở ra.
• Thân nầy bất tịnh, tôi biết tôi hít vô; thân nầy bất tịnh, tôi biết tôi thở ra.
Quán thân xong thì ta quán thọ, rồi quán tâm, và sau cùng là quán pháp cũng tương tự như trên với 5 hơi thở sau mỗi câu pháp hướng.
Trong thời gian tu tập chúng ta đều phải nương theo hơi thở và khéo léo, thiện xảo như lý tác ý như vậy thì chúng ta sẽ thấy kết quả thân tâm an lạc vô cùng.
Cuối cùng, nên nhớ kỹ cứ cách 5 hơi thở thì phải hướng tâm nhắc một lần: "Cảm giác toàn thân an lạc tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân an lạc, tôi biết tôi thở ra". Rồi lại tiếp tục 5 hơi thở nữa và hướng tâm: "Cảm giác toàn tâm an tịnh, tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn tâm an tịnh, tôi biết tôi thở ra". Rồi lại tiếp tục 5 hơi thở nữa và hướng tâm nhắc: "Tâm như cục đất, tôi biết tôi hít vô, tâm như cục đất, tôi biết tôi thở ra".
(do chúng tôi góp nhặt từ các pháp thoại của Thầy) 1/. U Tập ít nói, tư duy rồi mới nóiU . Dè dặt trong lời nói. Không nói chuyện tào lao, bàn chuyện người khác ( nhất là chuyện riêng của các vị xuất gia).
2/. U Thường giữ gìn ý tứ khi làm việc, hay tiếp xúc với mọi ngườiU . Hành động phải ôn tồn, nhã nhặn, từ ái.
3/. U Thường sống một mình, và hướng tâm sống độc cư một mìnhU . Luôn luôn giữ tâm vô sự và hướng tâm đến vô sự.
4/. U Phải biết sống một đời sống an vui, thanh thản, không làm khổ mình, khổ ngườiU . Sống thanh thản trước những biến cố của nhân quả và luôn luôn lúc nào cũng làm chủ nhân quả.
5/. U Biết xấu hổ với những điều sơ xuấtU . Tự thẹn với những việc làm ác (Tại sao mình quá yếu hèn, không ngăn nổi được ác pháp trong tâm?).
6/. UĐừng nên tự mãn ở sự tu tập của mìnhU , vì sự tu tập còn xa. Sự ly dục, ly ác pháp mình còn nhiều, không phải bao nhiêu đó là được.
7/. UĐừng có nhắm vào thiền địnhU mà chẳng có định gì được cả. Phải nhắm vào đức hạnh và giới luật để xả tâm, ly ác pháp. Nên nhớ, nền tảng của Thiền Định là chỗ ly dục, ly bất thiện pháp. Chín mươi phần trăm giáo lý Phật dạy là ly dục, ly bất thiện pháp.
8/. Muốn tu tập ba đức (nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng), ba hạnh (ăn, ngủ, độc cư) thì U phải triển khai trí tuệ nhân quảU , xét thấy đáo nhân quả.
9/. U Phải dẫn tâm vào một đối tượng mà tâm ưa thíchU , nhưđọc kinh, ưa thích các pháp tu, tư duy các lỗi lầm, hay quán xét đề mục, mới mong chiến thắng được sự thuỳ miên, hôn trầm.
10/. U Có lòng tin sâu xa nơi Phật và giáo pháp của Ngài là thật giải thoátU , làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi. Chính U lòng tin mãnh liệtU giúp chúng ta mạnh tiến trên đường giải thoát.
Có chứ! Con chỉ cần tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Vô Lậu. Khi xả sạch tâm lậu hoặc thì đạo lực của con có đủ sức nhập Bốn Thánh Định (Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền) và còn thực hiện đầy đủ Tam Minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh).
Khi mới tu, chưa tạo được tụ điểm thì có thể gom tâm vào đầu chóp mũi. Với người thực tập lâu ngày thì gom tâm và sáu căn tại nhân trung. Không được dời qua, dời lại, dời lên, dời xuống.
Khi bắt đầu ngồi kiết già, con thở 10 hơi bình thường rồi tác ý gom tâm vào tụđiểm, bắt đầu thở chậm, nhẹ đúng 10 phút thì xả. Tu như vậy là tu đúng, rất có chất lượng. Bắt đầu từ căn bản nầy, con nên nổ lực tu tập mà tiến dần lên 20 phút, rồi 30 phút đạt cho được trạng thái yên lặng (diệt tầm tứ).
Nhập thất có nhiều giai đoạn:
1/. Giai đoạn phòng hộ.
2/. Giai đoạn xả ly (tỉnh giác chánh niệm)
3/. Giai đoạn định (Tứ Thánh Định)
4/. Giai đoạn tuệ (Tứ Như Ý Túc)
Hai giai đoạn đầu nhập thất trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, làm mọi sự việc. Hai giai đoạn sau nhập thất nơi hoang vắng (ẩn tu).
Người mới tu, tâm chưa xả (ly dục, ly ác pháp) mà vội vào nhập thất tức là tránh duyên, tránh cảnh. Đó là hình thức ức chế tâm, nén tâm, khi tiếp duyên, tiếp cảnh thì tâm nào (tham, sân, si) tật nấy (lòng dục) vẫn còn nguyên, và cường độ còn mạnh hơn trước.
Người mới tu, theo Đức Phật dạy, phải ngay "thân hành niệm" mà tu, thân làm gì thì ý phải tập trung vào việc làm ấy.
Người mới tu phải tu tập trao dồi thân tâm trong các đối tượng, mọi hoàn cảnh, mọi sự việc để xả tâm ly dục, ly ác pháp.
Người mới tu phải lấy lao động làm sự tu tỉnh giác thì tỉnh giác ấy tu tập dễ dàng. Người mới tu mà không lao động thì dễ rơi vào vô ký, thuỳ miên, hôn trầm, sanh ra lười, mệt mỏi, bần thần, thích ngủ, thích ăn, thích chạy theo dục lạc.
Người mới tu mà quá say mê trong lao động, tìm việc làm hoài (mê việc làm) thì đó là tu sai.
Người mới tu phải thấy sự xả tâm là điều quan trọng. Nếu không thấy được điều nầy mà cứ nhập thất tu tập ức chế tâm thì tu tập chẳng đi đến đâu, chỉ uổng cho một đời mang tiếng tu hành.
Người tu tập để ly dục, ly ác pháp được thì mới nhập thất ở nơi hoang vắng một mình không làm gì hết, hằng ngày nổ lực rèn luyện đạo đức đểđiều khiển được sống chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Như Ông Mục Kiền Liên đã xả ly dục và ác pháp, Ông mới xin Phật vào cư trú nơi khu rừng hoang vắng để tu tập rèn luyện đạo đức. Nhờ Phật trực tiếp chỉ dạy Ông mới nhập được các định và dùng đạo lực thể hiện các thần thông. Vì thế trong đệ tử của Phật, Ông là người đệ nhất thần thông.
Chỉ khi nào tâm xả ly dục lạc thế gian thì lúc bấy giờ mới nhập thất, không lao tác, tập luyện "Tứ Như Ý Túc".
Tâm chưa xả ly dục và ác pháp mà vội vào thất thì chẳng khác nào như người yếm thế trốn đời, chẳng có ích lợi gì cho đời. Người tu như vậy là người chưa rõ cách thức tu. (II/ 156-57)
Khi người nhập Tứ Thiền thì hơi thở"tịnh chỉ". Mà hơi thởđã ngưng thì tất cả các hoạt động trong thân đều ngưng hoạt động hết. Máu dừng lại nhưng không đông đặc, hơi ấm trong người còn, không mất, những tế bào não từ lâu đã hoạt động cùng với nhịp thở thì hiện giờ đều ngưng hết. Những phần tế bào nào từ lâu chưa hoạt động thì bây giờ nó mới bắt đầu hoạt động. Vì thế mà hơi ấm trong người không mất, sáu căn không bị hư hoại, thân mới phục hồi lại dễ dàng.
Khi người tu tập nhập Tứ Thiền, đó là giai đoạn đánh thức tế bào não mà từ lâu nó chưa hoạt động. Khi nó chịu hoạt động thì hơi thở chúng ta mới tịnh chỉ; lúc bấy giờ chúng ta mới nhập Tứ Thiền.
Cái hay của đạo Phật là chỉ dùng pháp hướng mà không dùng ức chếđiều khiển. Điều khiển, sai khiến bằng một lực vô hình của tâm, vừa tịnh chỉ hơi thở thì vừa đánh thức tế bào não.
Cách thức tu tập nầy rất là khoa học, không có khổ công tu tập như thiền Yoga. Thế mà vi diệu, hy hữu, ít có pháp môn nào sánh kịp.
Khi một người nhập định lâu ngày (diệt thọ, tưởng định) thân hành, khẩu hành, ý hành đều ngưng nghỉ hoàn toàn thì các tế bào cũng ngưng hoạt động. Râu, tóc, móng tay, móng chân cũng ngưng mọc. Tại sao? Tại vì toàn bộ ngũ uẩn ngưng nghỉ, thì luật vô thường không còn tác động vào thân này được nữa dù hành giả nhập định một ngàn năm vẫn giữ cơ thể như mới nhập định. Thế nên luật vô thường biến hoại cơ thể con người khi toàn thân con người còn hoạt động. Khi toàn thân ngưng hoạt động thì cơ thể không biến hoại thay đổi nữa. Vì thế râu, tóc ngưng mọc. Nếu râu, tóc, móng tay, móng chân còn mọc tức là cơ thể vô thường, còn đổi thay từng giờ từng phút.
Bên Trung Quốc, thời nhà Đường có câu chuyện huyền thoại một vị thiền sư nhập định một ngàn năm, móng tay, móng chân, râu, tóc ra dài quấn quanh mình của thiền sư. Nếu không có người nhập định được thì câu chuyện nầy cũng tin là có thật. Phải nói đây là bọn đại bịp. Vua chúa nhà Đường bịa đặt ca ngợi Thiền Tông nhưng không có kinh nghiệm nhập định nên tưởng tượng, bịa đặt ra như thế. Họ không ngờ luật vô thường không thể nào chi phối được hành giả nhập "Tứ Thánh Định" chứ chưa nói tới "Diệt thọ tưởng định".
Nhập thiền định Đông độ thì thân hành, khẩu hành, ý hành đều không ngưng nghỉ nên móng tay, móng chân, râu, tóc mọc như người bình thường. Do đó mới biết Thiền Đông độ không làm chủ"sanh, lão, bệnh, tử". Đây là một loại thiền lạc vào pháp tưởng cho nên các tế bào trong thân vẫn phát triển bìng thường (râu, tóc... mọc).
Khi con quên câu pháp hướng có nghĩa là con chọn quá nhiều câu pháp hướng, cho nên khi tu thì con lại quên đi. Con nên chọn câu pháp hướng nào nhắm vào đích mà mình muốn tu đạt được. Chỉ cần một câu ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa, đập, phá, xả, đoạn dứt các pháp hay tâm dục mà con chưa phá được.
Ví dụ: con tu định niệm hơi thở, hoặc chánh niệm tỉnh giác định mà vọng tưởng cứ xen vào làm con thất niệm hơi thở thì có hai cách đặt pháp hướng là:
1/. Nhắc tâm: "Hơi thở vào tôi biết hơi thở vào, hơi thở ra, tôi biết hơi thở ra".
2/. Truyền lệnh tâm: đây "Vọng tưởng phải dừng, không được xen vào".
Có thể dùng pháp hướng ngắn hơn cho dễ nhớ:
1. Nhắc tâm: "Hơi thở vô, hơi thở ra".
2. Truyền lệnh tâm: "Vọng tưởng dừng".
Tu mà không có nhiệt tâm, không có nghị lực, không gắng sức, hoặc chọn câu pháp hướng không đúng đặc tướng của mình, dùng câu pháp hướng không đúng chỗ, không đúng trạng thái đối tượng tâm thì chẳng mang lại hiệu quả gì.
Trái lại, nếu khi tu dùng câu pháp hướng rõ ràng, mạch lạc, không nhầm lẫn, thong thả, khoan thai, không vội vàng, gấp gáp, đúng đối tượng tâm trạng thì hiệu quả đến ngay liền.
1/. Ly ngũ dục lạc chưa hẳn là đã ly tâm tham. Còn ăn, uống, ngủ nghỉ phi thời thì dù có tu định vô lậu cũng không đoạn dứt được tâm tham.
2/. Làm sao biết được người tu hết sân? Khi người tu hết sân thì trước đối tượng lời nói ôn tồn, nhã nhặn, nhẹ nhàng, êm dịu. Khi tu không có đối cảnh thì diệt tâm sân bằng pháp hướng.
3/. Người phá được tâm si, sức tỉnh thức cao nên ngủ ít ,không ngủ phi thời và ngủ đúng giờ. Khi toạ thiền, người ấy cũng không bị hôn trầm, thuỳ miên, vô ky.
Các pháp đều do duyên hợp mà thành, nên phải chịu luật vô thường, biến dịch, không có một cái gì thường hằng, bất biến trong thế gian nầy mãi mãi. Nếu ai nghĩ rằng trên hành tinh nầy có một vật gì thường hằng, bất biến, thì vật đó chỉ là sự tưởng tri của họ mà thôi. Nếu có một vật thường hằng bất biến thì các pháp duyên hợp không bao giờ có. Các pháp duyện hợp không có thì luật nhân quả không có. Luật nhân quả không có thì luật âm dương cũng không có, và vạn vật cũng không sanh sôi nẩy nở được. Nếu vạn vật trên hành tinh nầy không có thì đạo Phật ra đời để làm gì?
Xét tận cùng thì do duyên hợp mới tạo ra vòng quay nhân quả và đạo Phật ra đời giúp loài người chủđộng điều khiển nhân quả, đoạn dứt các pháp duyên hợp để chấm dứt cảnh luân hồi, khổđau của kiếp người. (IV/178)
Với trí hữu hạn của con người mà đòi hiểu bản thề tuyệt đối của vạn hữu, cũng như dùng mắt thường mà muốn tìm thấy vi trùng trong ly nước. Vậy mà con người vẫn không nhận ra điều ấy, lại dùng tưởng tri để hiểu. Họ hiểu sai tất cả mà cứ ngỡ rằng mình hiểu đúng, rồi đem truyền dạy cho người khác cũng hiểu như mình. Từđó thế giới tưởng thành hình, mọi người ai cũng tôn thờ, cung kính, xem như thế giới vĩnh hằng bất biến của loài người.
Người xả tâm sạch không phải đạt được bản thể tuyệt đối mà chỉ mới làm chủ tâm mình (ly dục, ly ác pháp). Đối với đời sống hằng ngày họ không còn phiền não, đau khổ, thương ghét, hận thù, v.v... Trong bốn cái khổ của kiếp người, họ mới làm chủđược một cái (sanh). Trên đường đi đến cứu cánh giải thoát, họ còn phải tu tập nhiều nữa.
Bản thể tuyệt đối mà các tôn giáo và các pháp môn khác đề cập đến đều là tưởng giải của họ mà thôi. Người tu Phật phải luôn luôn ghi nhớ rằng "mục đích của sự tu tập là để giải quyết bốn nỗi khổ của kiếp người là sanh, già, bệnh, chết".
Sau khi giải quyết bốn cái khổ của kiếp người xong thì Đức phật xác định: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc làm đã làm xong, không còn trở lui trạng thái nầy nữa". Đến đây chắc có người sẽ hỏi: "Còn có cái gì không?" Nếu nói còn là chấp thường, chấp ngã, nếu nói không thì chấp đọan. Bởi vì với trí hữu hạn, con người không nên tìm hiểu xa hơn, mà chỉ biết tu tập như thế nào để thoát khổ của kiếp người là hạnh phúc lắm rồi. Mục đích của đạo Phật là như vậy, còn tìm hiểu thêm thì hiểu sai, mà hiểu sai thì lại sanh ra chấp đắm, tạo nhiều đau khổ và còn đau khổ nhiều hơn.
Chính vì hiểu sai sự vật (vô minh), nên con người đã lầm chấp thế giới hữu hình và thế giới vô hình là thật có, và tạo ra muôn vàn đau khổ. Bây giờ thoát khổ rồi mà lại hỏi còn có khổ nữa hay không thì thật là điên đảo hết chỗ nói. Ở chỗ nầy, với trí phàm phu, ai muốn hiểu sao cũng được. Chỉ có người tu hành, khi đạt đến đó được thì mới hiểu rõ ràng. Kẻ không tu mà muốn biết, cố tìm hiểu cũng chỉ là hiểu tưởng mà thôi (hiểu sai bét), và sự hiểu sai đó tạo ra sự mê tín, lạc hậu của con người cổ xưa, mà đức Phật, cách đây 2544 năm đã nói trong bài kinh "Pháp Môn Căn Bản". Bây giờ, sang thế kỷ 21, chẳng lẽ ta cũng còn sống trong tưởng tri nữa hay sao? Cũng còn lạc hậu như xưa hay sao?
Trong giáo ý đạo Phật dạy rằng con người do năm duyên hợp lại mà thành, cho nên gọi là thân ngũ uẩn. Khi người chết thì năm uẩn nầy tan mất, thân tứ đại nầy trở về với cát bụi, hư vô, không còn sót một vật gì thường hằng (linh hồn, hay Phật tánh). Đứùc Phật đã xác định rõ trong bài kinh như vậy thì làm sao có hồn siêu, phách lạc, ở cây cả, bóng cao, cầu ao, bóng mát, đi đây, đi đó khắp nơi. Đó là một sự mê tín trong nhân gian. Với trí hữu hạn của con người, ta không làm sao biết thế giới siêu hình được, nên phải tưởng ra như vậy. Còn các nhà tôn giáo tu hành chẳng tới đâu, rồi cũng dựa vào sự mê tín lạc hậu cuả dân gian ấy, xây dựng tôn giáo của mình có một thế giới thần tiên (chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, v.v...).
Quả là một thế giới siêu hình đầy hạnh phúc, và cũng là niềm ước mơ của loài người. Nhưng đó chỉ là thế giới tưởng mà thôi.
Đã là thế giới thần tiên tràn đầy hạnh phúc và an lạc, thì phải có thế giới địa ngục. Mà đã có thế giới điạ ngục thì phải có thế giới ma quỉ, linh hồn người chết, có cô hồn, các đảng vất vưởng trên cây cao, bóng cả, cầu ao, bóng mát. Phần nhiều người ta nghĩ rằng những linh hồn chết oan không đi đầu thai được nên phải ở cây cao, bóng mát như vậy.
Thật ra, thế giới siêu hình là hình bóng của thế giới hữu hình. Thế giới hữu hình mà chúng ta đang hiểu biết bằng tưởng tri, thì thế giới siêu hình cũng hiểu biết như vậy. Do đó chúng ta biết rằng thế giới hữu hình và thế giới siêu hình là thế giới tưởng (thế giới không có thật). Vì sự lầm chấp con người cứ tưởng rằng thân ngũ uẩn nầy là của mình, là có thật. Vì nghĩ rằng trong thân nầy có một linh hồn bất biến từ vô thủy, và nó là bản ngã của mình. Vì thế, nếu ai động đến thân tâm của ta thì ta sẽăn thua đủ, không nhịn ai hết. Nếu sức yếu thế cô thì ta ấm ức, tức giận không bao giờ nguôi. Cũng từ sự hiểu biết của tưởng tri mà ta tưởng ra rằng con người chết, nhưng linh hồn không chết. Khi mất thân, linh hồn không còn chỗ nương tựa, nên hồn siêu, phách lạc, đi khắp đó đây. Hoặc đoạ xuống địa ngục, thọ nhiều cực hình, chịu nhiều tội khổ, chờ đến khi mãn hạn mới tái sanh luân hồi, làm thân chúng sanh, hoặc làm người. Cũng trong bài kinh Pháp Môn Căn Bản, đức Phật đã xác định:
"Người ta tưởng tri sinh vật là sinh vật... (có thật). Người ta tưởng tri chư thiên là chư thiên...
(có thật). Người ta tưởng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên là phi tưởng phi phi phi tưởng xứ thiên.... Người ta tưởng tri đồng nhất là đồng nhất.... Người ta tưởng tri sai biệt là sai biệt.... Người ta tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn...".
Qua đoạn kinh trên chúng ta thấy rõ con người đang sống trong thế giới tưởng mà cứ tưởng rằng có thật. Vì cứ tưởng là có thật cho nên người ta mới đau khổ. Vì nghĩ rằng Niết Bàn có thật, nên người ta nghĩ đến tự ngã như Niết Bàn (Phật tánh có bốn đức của Niết Bàn là:
thường, lạc, ngã, tịnh). Thế nên Phật dạy: "Người ấy tự nghĩ Niết Bàn là của ta, rồi sanh ra hỷ dục Niết Bàn", tức là ham thích cảnh giới Niết Bàn. Phật dạy tiếp: "Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri Niết Bàn", nghĩa là chẳng hiểu gì về Niết Bàn cả.
Đọc bài kinh nầy, chúng ta thấy đức Phật xác định rõ ràng con người từ chấp ngã, chấp tâm, linh hồn, Phật tánh, bản thể vũ trụ, cho đến 33 cõi trời và cảnh giới Niết Bàn, tất cả đều do tưởng ấm tạo ra. Từđó con người dùng tưởng tri và ý thức để hiểu các pháp, chớ thật sự các pháp không có thật. Thế giới siêu hình là thế giới lầm chấp của con người. Thật sự nó không có, nó chỉ là một hình bóng của tưởng uẩn mà thôi. (IV/102-107) Trong tập kinh Tăng Nhất A hàm, tập I, trang 455 Đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, Không có sắc nào còn tồn tại mãi ở đời mà không biến đổi, cũng không có thọ, tưởng hành, thức nào thường hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi. Này các tỳ kheo! Nếu có cái thức (linh hồn, Phật tánh, bản lai diện mục, thần thức, v.v...) hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi thì người tu phạm hạnh (tu theo đạo Phật: giới, định, tuệ) chẳng phân biệt được thiện ác và chẳng có thể dứt hết khổ.... Nếu còn một chút xíu đất trên đầu móng tay ta, không thay đổi, thường hằng, thì người tu phạm hạnh chẳng thể chấm dứt được đau khổ". (IV/111, 112)
Vừa rồi, chúng tôi được đọc một cuốn sách tựa đề "Sự Sống sau Khi Chết". Đọc xong cuốn sách nầy, nếu người nào không tu tập theo giáo lý Nguyên Thủy của đạo Phật và không có chứng nghiệm pháp hướng tâm, thì chắc chắn phải tin rằng có thế giới siêu hình. Toàn bộ cuốn sách, tác giả đã lượm lặt những mẫu chuyện "cận tử nghiệp". Tác giả này chưa bao giờ tìm hiểu Phật giáo; và nếu bây giờ có tìm hiểu và nghiên cứu Phật giáo thì ông ta vẫn hiểu lầm lạc, vì một đám mây mù của giáo pháp đại thừa đã che phủ và lấp kín lời dạy của đức Phật.
Những mẫu chuyện cận tử nghiệp của bao nhiêu người lâm sàng trên giường bệnh trong bệnh viện, đều cho đó là trạng thái của cuộc sống sau khi chết. Họđâu biết rằng trong thân tứđại này, khi con người còn sống có cả hai thế giới hữu hình và vô hình, nhưng khi thân tứ đại này chết, thì cả hai thế giới đều diệt. Khi thân này còn sống, cái gì hoạt động trong thế giới hữu hình? Và cái gì hoạt động trong thế giới vô hình?
Khi còn sống, con người hoạt động trong thế giới hữu hình bằng "sắc thức". Sắc thức gồm có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức; còn hoạt động trong thế giới vô hình thì chỉ bằng "tưởng thức".
Bình thường, hằng ngày chúng ta sống làm mọi việc, thì ý thức điều khiển hoạt động do ý căn (bộ óc và thần kinh). Khi ý thức ngưng hoạt động giống như người đang ngủ, thì tưởng thức hoạt động, sinh ra giấc mộng (chiêm bao), cũng do ý căn (bộ óc và hệ thần kinh).
Cho nên, nếu một người bị bệnh tim, gan, phèo, phổi, v.v... một trong những bộ phận đó ngưng hoạt động, được xem như chết, nhưng thật sự chưa chết hẳn. Ý thức ngưng hoạt động, hơi thở dừng, tim không đập, nhưng hệ thần kinh tưởng còn hoạt động, tức là tưởng thức hoạt động (chiêm bao). Giấc chiêm bao đó gọi là "cận tử nghiệp". Hằng ngày trong cuộc sống, họ ưa thích làm những điều ác, thiện, đi chùa, nhà thờ, cúng bái, tụng niệm, ngồi thiền, ước vọng được sanh lên Thiên Đàng gặp Chúa, được vãng sanh về Cực Lạc Tây phương, gặp đức Phật A Di Đà, được thấy hào quang, ánh sáng của chư Thiên, chư Phật, Bồ Tát v.v.... Đó là những người được theo các tôn giáo và được giáo pháp của các tôn giáo ghi những ấn tượng vào đầu óc của họ, bằng những hình ảnh Chúa, Phật, ánh sáng, hào quang, hoa sen, thì cận tử nghiệp của họ sẽ thể hiện giấc mộng y như hình ảnh đó. Lợi dụng cận tử nghiệp, Tịnh Độ Tông sử dụng hộ niệm để giúp người sắp chết, thực hiện giấc mộng trực vãng Tây phương. Tịnh Độ tông nghĩ rằng nghiệp cuối cùng (cận tử nghiệp) có thể thực hiện được những ước ao và ý nguyện của con người lúc còn sống.
Đó là về phần của những người có tôn giáo. Còn những người không tôn giáo, thì cận tử nghiệp thực hiện giấc mộng theo tâm ham muốn danh lợi, thương yêu, mến tiếc, giận hờn, tức tối, thù hận, căm ghét, la hét, sợ hãi, v.v... Đó là hững điều làm ác, ngược lại làm thiện thì cũng thấy cảnh vui tươi, hoan hỷ, sung sướng, v.v...
Vì huân tập thành thói quen (nghiệp lực), lúc sắp chết, tưởng thức hoạt động từa tựa như giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao chỉ có sáu thức ngưng hoạt động, còn toàn bộ cơ thể đều hoạt động bình thường. Người sắp chết cũng ở trong trường hợp nầy. Sáu thức ngưng hoạt động là do một tạng phủ nào bị hư hoại, không hoạt động được, chớ không giống như người ngủ chiêm bao.
Đó là tưởng thức hoạt động, nên thấy mình xuất hồn ra khỏi thân và thấy thân đang nằm trên giường bệnh, các y, bác sĩ đang làm hô hấp, cứu chữa. Lúc bấy giờ, duyên năm uẩn chưa phân ly, nên tưởng thức hoạt động, bệnh nhân như nằm mộng, thấy hào quang, ánh sáng, chư Thiên Thần, chư tiên, chư Phật, chư Bồ tát, Ngọc Hoàng, Thượng Đế, quỉ sứ, ngưu đầu, mã diện, vua Diêm La, v.v... Nhờ hô hấp cứu chữa của y, bác sĩ, bệnh nhân tỉnh lại, giống như một giấc mộng, và kể lại cho những người thân nghe: "chắc chắn có sự sống sau khi chết". Con người không ngờđó là một hình bóng, do tâm ước muốn mà tưởng thức thể hiện qua giấc mộng.
Nếu thật sự năm duyên ngũ uẩn phân ly, tan rã thì chẳng còn gì là của ta nữa hết, chỉ còn lưu lại nghiệp thiện, nghiệp ác, rồi cũng theo vô minh (tương ưng với vô minh theo hành động nhân quả của kẻ khác) mà tái sanh, luân hồi kiếp khác. Cứ mãi mãi như vậy, trôi lăn trong dòng nước nghiệp muôn kiếp, muôn đời.
Tóm lại, con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, và chết trở về nhân quả. Chẳng có thế giới siêu hình, chẳng có đấng tạo hoá nào cả, chẳng ai sanh ra chúng ta cả, và cũng chẳng có ai ban phước, giáng họa cho ta được. Nếu chính chúng ta biết dừng dòng nước nghiệp, thì tất cả tai nạn, bệnh tật, đau khổ và sự tái sanh, luân hồi đều chấm dứt.
(IV/125-130)
Ý thức là một trong sáu thức của thân tứ đại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Nếu gọi ý thức là tâm thì cũng không đúng. Chúng ta nên đặt thành vấn đề, nếu gọi ý thức là tâm thì nhãn thức cũng có thể gọi là tâm. Như vậy nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức cũng gọi là tâm. Nếu sáu thức đều là tâm thì tâm là sáu thức như vậy có cần gì phải gọi sáu thức nầy để làm chi? Cũng như tưởng thức, tự nó nghe, thấy, nếm, ngửi, cảm xúc và phân biệt mà không cần sáu căn. Còn sắc thức của thân tứđại thì cần đến sáu căn. Muốn nghe thì phải có nhĩ căn và nhĩ thức, muốn thấy phải có nhãn căn và nhãn thức, chứ không như tưởng thức được. Do đó ý thức không phải là tâm thức. Tâm thức là cái biết để thực hiện Tam Minh, chứ không phải như tưởng thức và sắc thức. Bởi khi Đức Phật sắp chứng đạo hoàn toàn, Ngài dẫn tâm đến Tam Minh, tức là dẫn tâm thức chứ không có dẫn sắc thức và tưởng thức. Như vậy, lúc bấy giờ, Đức Phật dùng tâm thức chứ không phải là dùng ý thức và tưởng thức.
Nếu nói tâm thức là vọng tưởng thì không đúng, còn nếu bảo sắc thức và tưởng thức là vọng tưởng thì cũng không đúng. Người ta đã lầm khi thấy niệm lăng xăng trong đầu (loạn tưởng) cho đó là tâm thức, ý thức, tưởng thức thì sai tất cả. Những niệm sanh khởi trong tâm của chúng ta là nghiệp nhân quả do tâm chúng ta huân tập lâu ngày đã thành thói quen (tạp khí), nên thường lăng xăng trong đầu của chúng ta. Chỗ nầy có rất nhiều người đã hiểu lầm lạc, vì thế nên khi tu hành cứ lo ức chế tâm cho hết vọng tưởng, ngồi thiền nhiếp tâm trong hơi thở, trong câu niệm Phật, trong mỗi hành động đi, đứng, nằm, ngồi, v.v... Vì hiểu sai, nên họ đã tu sai.
Muốn tâm không phóng dật, tức là không có vọng tưởng, thì phải biết gốc của vọng tưởng từ đâu mà có. Nó có từ nhân quả thiện ác, cho nên Đức Phật dạy: "Ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp". Tu tập như vậy sẽ không có vọng tưởng , không có vọng tưởng tức là tâm không phóng dật.
Muốn khắc phục vọng tưởng thì không nên ức chế vọng tưởng trong tâm ta, mà phải dùng pháp Tứ Chánh Cần xả ly tâm tham, sân, si, mạn nghi và thất kiết sử thì vọng tưởng sẽ hết, tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là tâm định trên thân, hay nói cách khác là tâm đã ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Tâm đã nhập Bất Động Tâm Định. (VIII / 307- 308)
Trong đời chúng ta đã chứng kiến có nhiều kẻ không tu hành, làm ác mà chẳng thấy quả khổ của họ, nên mọi người đâm ra nghi ngờ luật nhân quả. Họ đâu biết rằng luật nhân quả rất công bằng và công lý. Ai làm thiện thì hưởng phước, còn ai làm ác thì chịu quả khổ, không có một ai tránh khỏi. Chỉ có phước thừa của họ chưa hết, nên họ làm ác vẫn còn thấy được an vui, nhưng sự vui ấy chưa thật sự là an vui. Nếu chúng ta nhìn kỹ thì cái vui của họ là tiếng khóc, cái hãnh diện của họ là những ưu tư da diết trong lòng, chứ không phải là hạnh phúc đâu.
"Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí". Người xưa đã nói như vậy (cái phước không có thể đến lần thứ nhì, trong khi cái hoạ, tai nạn thì có thể kéo tới dồn dập). Tức là họ đã có kinh nghiệm trong cuộc sống, nên đã nhận ra được luật nhân quả rõ ràng và cụ thể "vay một, trả mười". Nhân quả không những phải trả ở tương lai, trong kiếp khác, mà còn phải trả ngay trong kiếp hiện tại. Chỉ khi nào người tạo quả ác đã hết phước thì họ phải trả ngay liền. Còn quả ở vị lai thì nó đã trở thành nghiệp lực để tiếp tục tương ưng với nhân quả của người khác mà tái sanh vào môi trường sống xấu hơn, nếu họ làm ác nhiều, hoặc tốt hơn, nếu họ làm thiện nhiều.
Phật dạy: "Các pháp trong thế gian là do duyên hợp mà thành, nhưng sự thành hoại đều do hành động nhân quả mà có". Nhân quả có lúc hiện ra rất rõ, có lúc lại thấy như không có nhân quả. Nhưng chúng ta phải biết nhân quả lúc nào cũng đang chi phối loài người theo mỗi hành động của con người. Và vì vậy mà con người thấy có khổ, có vui, có giận hờn, thương, ghét, có buồn phiền, đau khổ, có oan ức, có hận thù, v.v... (VIII/ 293-296)
Tu mà còn thích cảnh này, cảnh kia, sống phải như thế này, sống phải như thế kia v.v....
Thích cảnh tịnh, sợ cảnh động, thích nhập thất ở không, thích ngồi thiền, thích khổ hạnh, thích giản dị, thích tự do và tự tại theo ý muốn của mình, v.v... Đó là cách tu theo lòng ham muốn của mình. Tu như vậy là tu tránh né cảnh và né các pháp, không bao giờ có sự giải thoát.
Tu là buông xả sựưa thích, ham muốn trước cảnh, trước pháp. Trước mọi cảnh, mọi pháp nào, tâm chúng ta phải buông xả cho được. Đó chính là tu tập thiền định của đạo Phật, còn không tu hành đúng như vậy là tu tà thiền, ngoaịđạo.
Con phải nhớ lấy cảnh động và dùng pháp hướng tâm như lý tác ý để giúp tâm con xa lìa ác pháp và lòng ham muốn. Nhờ đó tâm được an tịnh, đó là giải thoát ngay liền. Đó cũng là thiền định chơn chánh của đạo Phật. Đừng nên tránh né trốn cảnh mà tu, đừng nên lý luận "tâm còn yếu" để rồi tránh cảnh thì tu ngàn kiếp cũng chẳng ra gì!
Tu là phải nhiệt tâm, gan dạ, kiên trì, phải đầy đủ nghị lực, quyết chiến, quyết thắng. Phải đem hết sức lực mình ra chiến đấu đến tận cùng, để tâm hồn mới được thanh thản, an lạc và vô sự. Chỉ có những người nhiệt tâm, nhiệt huyết muốn ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ thì việc tu tập này không còn khó khăn nữa. Con nên nhớ là người tu sĩ đạo Phật là một dũng tướng như Triệu Tử Long ở trận Đương Dương Trường Bản. Có như vậymới chiến thắng được nội tâm. (VIII/221-223)
Trong kinh đức Phật dạy: thân nầy không phải của ta, thọ tưởng, hành, thức cũng không phải của ta; lục căn, lục trần cũng không phải của ta; cho nên nghiệp ác hay thiện cũng không phải của ta. Chỉ vì không hiểu rõ (vô minh) ta mới lầm chấp là của ta. Do sự lầm chấp nầy, chúng ta mới bảo vệ nó, tạo ra nhiều điều ác khiến cho chúng ta phải chịu khổ từ kiếp nầy đến kiếp khác không hề dứt, trôi lăn trong sáu nẽo luân hồi.
Nhờ giáo pháp của đức Phật dạy, chúng ta mới hiểu rõ các pháp trong thế gian là do các duyên hợp mà thành, chứ không có vật gì thường hằng, vĩnh cửu. Đức Phật nói: "Nếu còn có một vật gì thường hằng như một chút xíu đất trong móng tay ta thì con người không thoát khỏi, và đạo ta cũng không xuất hiện ởđời".
Hiện giờ chúng ta đã ngộđược lý duyên khởi ấy, nhưng tu cho thân, thọ, tâm, pháp, lục căn, lục trần, lục thức thật sự không phải là ta, của ta, thì phải tu hết sức, và còn phải siêng năng, chuyên cần, tinh tấn, và với một nhiệt tâm tha thiết tìm cầu sự giải thoát. Nếu không nổ lực tu hành thì tất cả những thứ này, chúng ta đều cho là thật có, là ta, là của ta.
Khi muốn phá thân kiết sử này, ta phải sống một đời sống giới hạnh đầy đủ, phải độc cư trọn vẹn suốt 3 năm đến 5 năm, chớ không phải nói suông được. Hằng ngày, phải tu cho đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ, đặc tướng. Nếu tu không đúng pháp, đúng cách, đúng đặc tướng, căn cơ thì sẽ hoài công vô ích. Tất cả các pháp ấy vẫn bị dính mắc, đều là ta, là của ta. Nói thì rất dễ, nhưng bỏđược cái ta và của ta là rất là khó.
Tu cho đúng pháp Phật dạy thì nghiệp quả của thân không còn ý nghĩa gì cả, vì chuyển nghiệp quả khổ thành nghiệp quả phước báo, nên thảnh thơi, an lạc, vô sự. Còn tu sai thì muôn đời, nghìn kiếp nghiệp thân cứ mãi tái sanh luân hồi và phải chịu thọ khổ vô lượng kiếp.
Người ta gán cho đạo Phật là đạo Vô Ngã, nhưng thật ra, chúng ta nghiên cứu kỹ lại thì đạo Phật là đạo "Hữu Ngã thiện pháp" và "Vô ngã ác pháp". Do vậy, đức Phật xác nhận có hai lộ trình: "Có hai đường đi, một là đường ác, hai là đường thiện. Người làm ác từđường ác đến chỗ khổ, người làm lành dạo chơi đường lành đến chỗ vui" (Tăng Nhất A hàm, tập 3 trang 498). Đã đi trên con đường thiện thì làm sao gọi là vô ngã cho được? Thì làm sao là không ta, không của ta được?
Do những điều trên đâu mà chúng ta suy gẫm và tư duy biết rất rõ các pháp của Đức Phật thực hiện được, còn tất cả các pháp của Đại Thừa và Thiền Đông Độ chỉ là những ý thuyết suông như: "Phật tánh, vô ngã, vô sở đắc, ngã pháp đều không". Đó là những điều không thể làm được.
Trong giới luật Phật cấm các tu sĩ không được cất giữ tiền bạc. Người cất giữ tiền bạc thì bị tội xả đọa (Ni tát kỳ ba dật đề).
Phật tử vào chùa, lạy Phật, cúng tiền bạc dù một đồng cho đến hàng tỷ đồng đã không có phước báo mà lại phi công đức như sau:
1/. Khiến cho chư tăng ham mê tiền bạc mà quên giữ gìn Thánh hạnh của mình. Đó là phi công đức thứ nhất.
2/. Có tiền khiến cho chư tăng sa ngã, chạy theo dục lạc thế gian, sống hưởng thụ, không giữ gìn giới luật, khiến cho người đời khinh chê Phật pháp; và cũng vì vậy khiến cho Phật pháp suy đồi. Đó là phi công đức thứ hai.
3/. Có tiền khiến cho chư tăng chạy theo danh lợi, quên hạnh thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn. Đó là phi công đức thứ ba.
4/. Có tiền khiến cho chư tăng xây dựng chùa to Phật lớn, làm cho dính mắc vật chất, tâm không xả ly dục và ác pháp. Đó là điều phi công đức thứ tư.
5/. Có tiền cúng dường của đà na, thí chủđem về nuôi giòng họ, anh em, con cháu, và xây mồ mả tổ tiên, cất nhà cửa cao rộng cho cha mẹở. Đó là điều phi công đức thứ năm.
6/. Cúng dường tiền bạc cho bọn đầu trộm đuôi cướp, gian xảo, lợi dụng chiếc áo cà sa, đi xin (khất thực) tiền bạc bất chánh. Đó là điều phi công đức thứ sáu.
Do sáu điều phi công đức trên đây, người Phật tử cúng dường tiền bạc đã không được phước báo mà lại còn thêm sáu tội rất nặng, đó là tội diệt Phật pháp. Xưa đức Phật và chư vị Thánh tăng đi khất thực tứ sự vừa đủ cho cuộc sống tu hành và thực phẩm, ngày ăn một bữa, không để dành; và cũng không có xin tiền bạc. Ngày nay, gặp tu sĩ đi xin tiền bạc thì đó là những tu sĩ giả mạo, chứ không phải là người tu chân chính.
Do sự cúng dường tiền bạc của Phật tử thiếu trách nhiệm và bổn phận đối với Phật giáo, nên có một số người lợi dụng kẽ hởđó chui vào Phật giáo, kinh doanh, buôn Phật, bán pháp lẫn trong chiếc áo cà sa, khiến cho người đời không kính trọng Phật giáo.
Tóm lại, cúng dường chư Phật và chư Thánh tăng dù một đồng hay một tỷ đồng thì cũng không được phước báo một chút gì cả, mà lại còn thêm tội. Phải nói người cúng một đồng ít tội hơn người cúng một tỷ đồng, vì càng có nhiều tiền, chư tăng càng có điều kiện để dễ sa ngã. Khi cúng dường tiền bạc, nên giao cho một người cư sĩ nguyện trọn đời mình lo cho đời sống chư tăng thì được, vì đó là cúng dường đúng chánh pháp. (VIII / 312-315)
Người tu thiền, ngồi nhiều, hoặc dùng pháp ức chế tâm để dừng vọng tưởng (tâm không niệm thiện niệm ác) thì sẽ dậm chân tại chỗ, không có lối tiến tới được nữa. Người tu thiền xả tâm, tâm nhưđất, xả ít tiến bộ ít, xả nhiều tiến bộ nhiều. Xả hết tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm nhưđất trời, đó là tu xong việc.
Tu xong việc thì tâm thường quay vào trong thân, không chạy theo các pháp trần, không dính mắc các pháp ác, tức là tâm không phóng dật theo các pháp bên ngoài. Như vậy là tâm đã định vào thân, tâm định vào thân là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ là tâm giải thoát hay là tâm diệt đế. Tâm diệt đế là tâm niết bàn, tâm niết bàn là tâm đoạn dứt lòng ham muốn và các ác pháp. Đó là tâm nhập vô tướng tâm định.
Muốn xả tâm cho được rốt ráo thì phải sống độc cư, không nên tiếp duyên bên ngoài với ai hết, không làm một việc gì cả (không được đọc kinh sách, không được làm mọi công việc, không được nói chuyện, dù chuyện đạo hay chuyện đời, không được nghe băng nhạc, băng thuyết giảng v.v...) mà duy nhất chỉ có một việc làm là thường quán xét thân tâm mình để xả các niệm, tâm ham muốn và các ác pháp. Nếu có một niệm khởi lên, dù đúng, sai, phải, trái, đều là phá hạnh độc cư, thì ta phải mau mau xả ngay, không được duy trì.
Người giữ gìn hạnh độc cư như vậy thì sự tu hành mới có tiến bộ, bằng ngược lại thì dậm chân tại chỗ. Người tu thiền xả tâm, mà giữđược hạnh độc cư thì xả tâm rất dễ dàng. Còn giữ hạnh độc cư không được thì xả tâm không được, nên tu thiền không tiến bộ, nói đúng hơn là không có kết quả giải thoát, chỉ phí một đời tu mà chẳng có ích lợi gì cho mình, cho người. (VIII/ 302-304)
Ngoài các pháp hành thông thường của một người tu sĩ:
• Không đựơc gian tham, trộm cắp dù vật lớn, đến vật nhỏ như cây kim, sợi chỉ.
• Không nói dối, nói lời mất chính xác, mất sự thật.
• Không trồng trọt, làm ăn kinh tế, buôn bán v.v...
• Không làm khổ mình, khổ người, luôn luôn nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng, nhưng phải sáng suốt trong trí tuệ nhân quả.
• Không ăn ngủ phi thời, sống thiểu dục, tri túc (ít muốn, biết đủ), thực hiện đời sống thập thiện, xin ăn, ngày một bữa, vào giờ ngọ trai.
Cần phải có đủ 14 điều sau đây mới đủ cho đời sống phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo:
1. Phòng hộ sáu căn bằng giới luật.
2. Ngăn ác pháp bằng Thánh Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
3. Diệt ác bằng Vô Lậu Thánh Định.
4. Sanh khởi thiện pháp bằng Sáng Suốt Định.
5. Tăng trưởng thiện pháp bằng Hiện Tại An Lạc Trú Định, tức là Định Niệm Hơi Thở.
6. Sống trầm lặng, độc cư.
7. Thích sống ở một mình.
8. Không kết bè bạn.
9. Thích sống giản dị.
10. Tránh tranh luận.
11. Tránh chỉ trích.
12. Tránh hý luận.
13. Tránh hội họp.
14. Tránh khoe khoang.
Có sống đúng phạm hạnh như trên thì mới mong nhập được bốn Thánh Định và thể hiện Tam minh. Nếu không tu đúng phạm hạnh như trên thì chẳng bao giờ nhập đúng chánh định và cũng chẳng bao giờ làm chủ sanh, già bệnh, chết, và chấm dứt luân hồi sanh tử. (VIII/139, 139)
Trong thời Đức Phật còn tại thế, vấn đề làm công quả thì gần như không có. Vì là một du tăng khất sĩ, sống rày đây mai đó, không có ở một chỗ nào quá lâu, nên vấn đề công quả không cần thiết. Các tu sĩ, mỗi buổi sáng đi khất thực để sống ngày một bữa, nên dồn tất cả thời gian rãnh rang vào tu tập và rèn luyện pháp hướng tâm.
Cho nên một số người hiện giờ làm công quả từ chùa nầy đến chùa khác để tìm cầu sự giải thoát thì chắc chắn không bao giờ có được, chỉ uổng cho một đời tu hành bị người khác lừa đảo, làm công không cho họ mà họ không tốn tiền.
"Làm công quảđểđược phước báo", điều này chúng ta dễ bị lừa. Phước báo của đạo Phật là do chính mình ngăn ác, diệt ác pháp, hoặc ly dục ly ác pháp thì phước báo đến liền với mình ngay tức khắc. Còn làm công quả thì thân thể mệt nhọc, tâm sanh ra buồn ngủ; cơ thể mệt nhọc, tâm sanh ra buồn ngủ là trạng thái mất tỉnh thức. Mất tỉnh thức tức là vô minh, mà vô minh thì làm sao có phước được?
Người làm công quả thì không bao giờ tu được. Nếu suốt đời làm công quả thì cũng chỉ là một người làm công cho kẻ khác, chẳng có ích lợi gì cho mình, chỉ là một người ngu mà thôi.
Khi bước vào đạo Phật trong chiếc áo của người cư sĩ (nghĩa là chưa thọ giới luật) nếu chúng ta có thể làm được những gì để giúp cho chư tăng yên tâm tu hành thì cứ làm. Đó là gieo nhân tu hành cho chúng ta ở ngày mai, chứ không phải làm công quả để cầu phước báo. Nghĩ như vậy là sai lầm. (VIII / 321-322)
Hiện giờ quí vị chưa biết rõ mặt thật của những tu sĩ Phật giáo như thế nào, thì làm sao dám bảo là Phật giáo yếm thế? Nếu thấy những người mới vào chùa tu hành chưa xong, còn đang ẩn bóng tu hành mà cho là Phật giáo yếm thế thì không đúng. Ngưòi ngoài đời muốn làm một việc gì hữu ích cho xã hội cũng phải có thời gian học tập, thực hành (như bác sĩ, luật sư, kỹ sư, v.v...). Một bác sĩ đang thực tập mà trị bệnh thì có thể giết chết bệnh nhân. Người tu sĩ Phật giáo cũng vậy, khi đang tu chưa xong mà ra giảng đạo, dạy người tu hành, "Làm Bồ Tát đạo, hành Bồ Tát hạnh" là giết người, không phải một người mà rất nhiều người, không phải giết một đời mà giết nhiều đời người, không phải giết một thế hệ mà giết nhiều thế hệ của con người.
Khi Đức Phật nhập diệt, độ khoảng một trăm năm sau, các bậc Thánh tăng cũng lần lượt nhập diệt, chỉ còn những tu sĩ danh lợi, chia phe, chia nhóm (20 bộ phái) để tạo quyền thế, chiếm giữ danh lợi riêng tư, nên soạn viết kinh sách theo kiến giải riêng của mình, thường chạy theo dục lạc thế gian, nên phải đẻ ra Bồ Tát đạo, hành Bồ Tát hạnh, làm tấm bình phong để che mắt mọi người, khiến không ai biết mình chạy theo dục lạc. Những tu sĩ nầy thường dạy: "Phật pháp bất ly thế gian pháp", nghĩa là pháp Phật không lìa pháp thế gian, như vậy đâu có thể gọi là đạo Phật yếm thế.
Phật giáo Nam Tông và bắc Tông, xưa và nay đã và đang có những kiến trúc Phật giáo rất đẹp, rất nổi tiếng, trở thành những kỳ quan thế giới (như Đế Thiên Đế Thích), những nơi được xem là có phong cảnh đẹp cho nhiều người tham quan du lịch. Phật giáo Đại Thừa luôn luôn đã và đang tiếp tục làm việc từ thiện, cứu trợ đồng bào bất hạnh, thiên tai, hoả hoạn, bão lụt, v.v... như vậy đâu có thể gọi là yếm thế.
Những bậc chân tu của Phật giáo đang âm thầm triển khai đạo đức nhân bản nhân quả để loài người không còn tự làm khổ đau cho nhau nữa, để biến cảnh thế gian nầy thành cảnh Thiên đàng, Cực Lạc và Niết Bàn trong cuộc sống nầy, như vậy sao gọi là đạo Phật yếm thế?
Xưa Đức phật đã dạy: "Trắng trăm trận không bằng thắng tâm mình, thắng tâm mình mới là chiến công oanh liệt". Người chiến thắng tâm mình đâu phải là người yếm thế. Phải từng chung sống với mọi người mà không làm khổ mình, khổ người thì mới là người chiến thắng tâm mình. Đạo Phật như vậy có giống nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đang hưởng nhàn không?
Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn xôn xao.
Tinh thần đạo Phật không phải là tinh thần yếm thế như vậy, nên thường xông pha vào thế tục, lấy các đối tượng của thế gian mà tu tập tâm mình "Ly dục ly ác pháp". Nếu bảo rằng Phật giáo yếm thế vào ở nơi am thanh vắng để cho yên thân của mình tức là tránh cảnh thì sao gọi là ly dục ly ác pháp?
Vả lại, giới luật của Đức Phật dạy đạo đức làm người rất rõ ràng và cụ thể. Người tu sĩ mà yếm thế thì làm sao có thể dạy cho người cư sĩ những hành động đạo đức gần gủi và thiết thực cho đời sống con người được? Xin quý vị suy gẫm kỹ, đừng vội phê phán đạo Phật là đạo yếm thế. Đó là một nhận xét thiếu chính chắn, còn nông cạn. Chúng tôi xác quyết là đạo Phật không bao giờ bi quan, yếm thế. Người nào tu theo Phật mà không đi khất thực, cứ ngồi ỳ trong thất (nhập thất), hoặc ở trong rừng sâu, núi thẳm, không theo hạnh Phật ngày xưa là người tu sai đạo Phật, là người yếm thế, chứ không phải đạo Phật yếm thế.
Tu theo đạo Phật thì không nên cầu phước hữu lậu, vì phước hữu lậu là phước về danh và lợi mà danh lợi là ác pháp. Thế nên, người tu theo đạo Phật phải xa lià danh lợi là ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp là phước vô lậu, phước vô lậu là giải thoát. Vì thế nên người tu sĩ đạo Phật khước từ phước hữu lậu như chùa to, Phật lớn, tiền bạc, danh lợi. Đức phật dạy:
"Có danh có lợi thì nên ẩn bóng".
Người có phước hữu lậu giàu sang, quyền tước mà không từ bỏ, xa lià thì khó mà ngăn ác, diệt ác pháp, và không thể nào ly dục ly ác pháp được. Ta phải hiểu rằng phước hữu lậu là phước báo trong đau khổ. Cho nên người càng có phước báo nầy thì càng đau khổ nhiều. Cứ nghiệm cuộc đời của các Tổng Thống Mỹ, và người có hàng tỷ bạc như Minh Phụng, Trần Đàm v.v... thì thấy họ đang khổ hơn chúng ta nhiều. Có khổ đau là có ác pháp. Người giàu sang, quyền quí cũng có ác pháp, người tu hành không đúng chánh pháp cũng là ác pháp (tu khổ hạnh, hành thân, hoại thể, ráng ngồi thiền thật lâu chân đau nhức như ai bẽ giò, tức ngực, v.v...).
Phước báo hữu lậu và phước vô lậu không thể nào đi chung với nhau được. Người chấp nhận phước hữu lậu thì không thể nào có phước vô lậu được, ngược lại, người chấp nhận phước vô lậu thì từ khước phước báo hữu lậu. Các nhà học gỉa chỉ nghiên cứu chứ không có kinh nghiệm tu chứng nên đã hiểu sai lệch về Phật giáo. Vì vậy các ngài hướng dẫn người tu làm những điều lành như: trai tăng, cúng dường, xây tháp, đúc chuông, và làm những việc từ thiện khác nữa v.v... Đó là tạo phước hữu lậu, cho nên cuộc sống họ không giải thoát. Họ (các thí chủ) chỉ được tiếng khen và vô tình trở thành người cho vay để lấy nặng lãi. "vay một, trả mười". Ngược lại, Phật giáo không làm từ thiện, mà chỉ sống đúng đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Cho nên khi thấy ai khổ là thấy nhân quả của họ, chứ không phải ta làm khổ họ, mà chính họ tự làm khổ họ. Chúng ta có duyên gặp họ trong cảnh khổ, đó là nhân duyên nhân quả của ta đối với họ nên mới có sự gặp gỡ nầy thì chúng ta giúp đỡ và an ủi họ tùy theo nhân quả của họ.
Chúng ta không làm từ thiện như các nhà Đại Thừa vì chúng ta không làm sao cho họ hết khổđược, tại họ tạo ra nhân ác thì họ phải gánh chịu lấy quả khổ. Chúng ta cũng không làm từ thiện (theo lời dạy của một số tu sĩ)... làm thiện để mong cầu được lên Thiên Đàng, Cực Lạc, đểđược làm quan, giàu sang, sung sướng, v.v...). Chúng ta chỉ biết làm theo đạo đức làm người mà Đức Phật đã dạy: "Không làm khổ mình, khổ người".
Người không hiểu Phật pháp, tuyên dương "phước huệ song tu" là một sự sai lầm lớn. Có phước hữu lậu làm sao tu huệđược? Huệ là giới luật, là đức hạnh của con người và của các bậc Thánh Tăng. Đối với các vị Thánh Tăng thì chỉ có ba y và một bình bát, đi xin ăn mỗi ngày thì làm sao có phước hữu lậu cho được? Trong kinh Nguyên Thủy, Đức Phật đã xác định rõ ràng: "Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ".
Người có phước hữu lậu thì không bao giờ có trí tuệ; người có phước hữu lậu thì không bao giờ giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật; người có phước hữu lậu thì không bao giờ được gọi là Trưởng Lão, nghĩa là không chứng quả giải thoát, vì chẳng bao giờ ly dục ly ác pháp. Chẳng ly dục y ác pháp thì chẳng bao giờ ngăn ác diệt ác pháp, do đó tu hành chỉ uổng phí một đời mà thôi.
Trong kinh Sonadanda, Đức Phật đã xác định rằng tu về trí tuệ tức là phải tu về giới luật. Giới luật là đức hạnh của người tu sĩ, nếu không tu về giới luật thì chúng ta không có trí tuệ. Cho nên tu về trí tuệ tức là tu tập sống một đời sống phạm hạnh của một vị Thánh Tăng. Tu về trí tuệ không phải là ở chỗ học hỏi thông suốt Tam Tạng Thánh Điển hay có cấp bằng Tiến Sĩ Phật Học.
Người nhập Sơ Thiền là người sống đúng phạm hạnh của một vị tỳ kheo đệ tử Phật. Người ấy không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật. Người ấy sống ba y một bát, ngày một bữa đi xin ăn, cuộc sống trầm lặng, độc cư, an tĩnh như mặt nước hồ thu. Người ấy là người phạm hạnh, là bậc Trưởng Lão, Thánh Tăng. Người ấy là người đức hạnh, thánh thiện vì đã ly dục ly ác pháp. Người ấy xứng đáng là Thầy của chúng ta, vì Đức Phật đã xác định: "Giới luật là Thầy của các vị tỳ khưu". Thế nên, người nào sống đúng giới luật là Thầy của chúng ta, dù người đó chỉ là một Sa Di, một cư sĩ. Còn ngược lại dù vịđó là một vị Tỳ Kheo, Thượng Toạ, Hoà Thượng, có hạ lạp cao, có học thức rộng, có thông suốt Tam Tạng Thánh Điển mà giới luật không nghiêm chỉnh thì không phải là Thầy của chúng ta.
Như trên đã nói, tu về trí tuệ tức là tu về giới luật, tu về giới luật tức là tu về Thiền Định. Vậy tu về thiền định tức là tu về trí tuệ, chứ không phải là thứ thiền định chăn trâu, kiến tánh thành Phật, đốn ngộ tiệm tu, hay là tham công án, thoại đầu hoặc luyện bùa, niệm chú, tụng kinh, niệm Lục Tự Di Đà, v.v... mà có thiền định.
Giới hạnh là trí tuệ, trí tuệ là giới hạnh. Đó là giai đoạn tu tập trí tuệ thứ nhất về giới luật của đạo Phật mà tất cả các vị tu sĩ Phật giáo, không phân biệt tỳ kheo tăng, Ni, và cư sĩ. Tất cả đều phải lấy giới luật làm Thầy, vì giới luật là trí tuệ của người tu sĩ Phật giáo.
Trí tuệ là thiền định, thiền định là trí tuệ. Đây là giai đoạn tu tập trí tuệ thứ hai về giới, định, tuệ của đạo Phật. Trong kinh Sonadanda,Đức Phật đã dạy: "Vịấy chứng và trú Sơ Thiền...
chứng và trú Nhị Thiền... đệ Tam Thiền... này Bà la môn, như vậy là trí tuệ". (Trường Bộ Kinh, tập I, trang 223) Ởđây chúng ta thấy Đức Phật đã xác định rõ ràng giới luật là trí tuệ, là thiền định; thiền định là giới luật, là trí tuệ. Người có trí tuệ, nhất định có giới luật, có thiền định; người có giới luật, nhất định có trí tuệ, có thiền định; người có thiền định, nhất định có giới luật, có trí tuệ. Từđó chúng ta suy ra lời dạy của Đức Phật trên đây, chúng ta biết mình phải tu trí tuệ, tức là tu giới luật và Tứ Thánh Định, Tứ Thánh Định là trí tuệ của đạo Phật, nếu người nào không nhập Tứ Thánh Định được thì không thể gọi là trí tuệ về thiền định được.
Chúng ta đã học được những điều rất hay về trí tuệ của đạo Phật. Mới vào đạo, chúng ta học trí tuệ về giới luật. Sau khi trí tuệ về giới luật thành tựu, ta làm chủđược tâm ta, tức là ta đã ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp là tâm ta bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Khi tâm ta ly dục ly ác pháp là tâm ta đã thanh tịnh, ta tiếp tục tu tập trí tuệ về thiền định. Sau khi trí tuệ về thiền định đã thành tựu, ta làm chủđược thân ta, tức là ta làm chủđược sanh, già, bệnh, chết do ta tịnh chỉ các hành trong thân.
Khi ta thành tựu trí tuệ thiền định xong, ta tiếp tục tu tập về trí tuệ Tam Minh. Sau khi trí tuệ Tam Minh thành tựu chúng ta chấm dứt tái sanh luân hồi, tức là ta chỉ còn có một đời sống nầy mà thôi.
Trong kinh Sonadanda dạy: "Tâm hướng đến tri kiến ? Này Bà la Môn, như vậy là trí tuệ" (Trường Bộ kinh, tập I, trang 223). Đoạn kinh nầy đức Phật dạy: "Tam Minh là trí tuệ, trí tuệ là Tam minh. Người có trí tuệ tức là có Tam Minh, người có Tam Minh tức là có trí tuệ". Đây là trí tuệ vô lậu, người có trí tuệ nầy là người đã đi suốt quãng đường của Phật "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". (Trường Bộ kinh tập I, kinh Sa Môn Quả, trang 155) Đây là ba giai đoạn tu tập trí tuệ của đạo Phật bằng lộ trình Giới, Định, Tuệ. Ngoài lộ trình này không bao giờ còn có một lộ trình nào khác nữa để tìm tu có trí tuệ giải thoát. (VIII / 128- 133)
1/. Y cứ tướng nào, tác ý tướng đó, liên hệ đến thiện, phải khác tướng ác bất thiện thì sẽ diệt trừ, ly dục và ly ác pháp, nội tâm sẽđược an trú, an tịnh, nhất tâm định tĩnh.
Đây là phương pháp thứ nhất dạy về cách thức chọn lựa một pháp hướng tâm để nhập Sơ Thiền. Y nơi pháp thiện tức là trạch pháp giác chi, tức là chọn lựa một câu pháp hướng tâm cho phù hợp với đặc tướng của mình để hằng ngày dùng câu đó như lý tác ý (tự kỷ ám thị). Thí dụ như câu: "Tâm phải ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền đi", hoặc "Tâm như cục đất, không còn tham, sân, mạn, nghi nữa", v.v...
2/. Nhờ quán xét sự nguy hiểm của các tầm ác, bất thiện liên hệ dục thì sẽ diệt trừ và ly dục ly ác pháp, nội tâm sẽđược an trú, an tịnh, nhất tâm định tĩnh.
Đây là phương pháp thứ hai dạy về quán xét trên thân, thọ, tâm, pháp tu tập diệt các pháp ác nhập Sơ Thiền.
Sự nguy hại của tầm ác tức là một niệm khởi lên trong tâm của mình khiến cho tâm mình bất an, bất toại nguyện, phiền não, đau khổ, lo lắng, sợ hãi, giận hờn, phiền muộn, thương nhớ, hối tiếc, hối hận, lo sợ, lo lắng, bất an ,v.v... Khi có một tầm ác khởi lên như vậy, tức là ác pháp tăng trưởng thì mau mau dùng định vô lậu quán xét xả tâm, lìa cho thật sạch tầm ác. Nhờ có quán xét, xả ly tâm ác thì mới diệt được pháp ác, tâm mới trở lại thanh thản, an lạc và vô sự.
3/. Nhờ không nhớ niệm ác của kẻ khác, không tác ý niệm ác, nên tâm ly dục ly ác pháp, nội tâm định tĩnh, an trú, an tịnh, nhất tâm.
Đây là phương pháp thứ ba để ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền. Nếu tâm có nhớđến niệm ác của kẻ khác thì phải trở về phương pháp thứ hai, quán xét niệm ác đó trong nhân quảđể diệt nó. Theo phương pháp nầy nên thường tu Định Sáng Suốt giữ tâm thanh thản để không nhớ đến niệm ác của kẻ khác. Tốt nhất là nên tránh tác ý niệm ác kẻ khác. Phương pháp nầy có hai cách:
a/. Không nên nhớđến niệm ác của người khác (niệm ác từ trong tâm khởi ra ngoài ý muốn của chúng ta).
b/. Không nên tác ý niệm ác của người khác (tác ý niệm ác là chúng ta tự khởi niệm ra, có ý muốn khởi ra).
Có tu tập như vậy thì tâm diệt ngã, xả tham, sân, si, mạn nghi.
4/. Nhờ tác ý các tướng tầm thiện, các tầm ác bất thiện liên hệđến dục được đoạn trừ nên tâm ly dục ly ác pháp, nội tâm định tĩnh, nhất tâm an trú, an tịnh.
Đây là phương pháp thứ tư để tâm ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền. Đức Phật dạy muốn ly dục ly ác pháp thì phải thường tác ý các hành tướng thiện (thân hành niệm nội, ngoại). Luôn luôn tác ý về hơi thở ( tác ý hành tướng tầm thiện nội), cũng như tác ý tất cả oai nghi, tế hạnh, đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả mọi việc (hành tướng tầm thiện ngoại) thì các tầm ác liên hệđến dục được loại trừ.
5/. Nhờ nghiến răng dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, đánh bại tâm, các ác, bất thiện pháp liên hệ đến dục đều được đoạn trừ, nên tâm ly dục ly ác pháp, nội tâm định tĩnh, nhất tâm an trú, an tịnh.
Đây là phương pháp thứ năm Đức Phật dạy để ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Khi gặp các ác pháp tấn công dữ dội thì phải cố gắng nhẫn nhục. Ở đây, Phật dùng hình ảnh “cắn chặt răng và dán chặt lưỡi lên nóc họng” ý nói cố gắng nén tâm, hết sức kham nhẫn chịu đựng để vượt qua cơn thử thách của ác pháp. Nhờ tận lực như vậy ta mới có thể vượt qua cơn sóng gió bão bùng của tâm. "Thắng trăm trận không bằng tự thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt". Cuộc đời tu hành của chúng ta là một cuộc chiến đấu không ngừng, trường kỳ gian khổ chứ không phải tụng kinh, niệm chú, ngồi thiền mà chiến thắng được tham, sân, si, mạn, nghi, v.v... Đây là phương pháp ít khi dùng, vì cuộc đời người tu sĩ của đạo Phật sống trầm lặng một mình nên ít xảy ra các ác pháp. Tuy nhiên, nếu thiếu sự phòng hộ sáu căn, khi tiếp duyên bên ngoài, cũng có thể xảy ra dữ dội. (VIII / 92-100)
1. Thích giản dị.
2. Ưa yên lặng.
3. Ít ngủ nghỉ.
4. Không kết bè bạn.
5. Không tự khoe khoang.
6. Không kết bạn với người xấu.
7. Thích ở một mình.
1/. Thích giản dị:
Người tu sĩ đệ tửĐức Phật sống giản dị sẽ làm cho Phật giáo hưng thịnh. Vì đời sống giản dị là đời sống thiểu dục tri túc. Sống giản dị là sống không ham thích, ít dục, rất phù hợp với pháp tu hành của Đức Phật là ly dục. Nhìn vào một người tu sĩ sống giản dị người ta mến phục và có cảm tình ngay liền. Sống giản dị là đạo hạnh của người tu sĩ giải thoát. Người tu sĩ sống giản dị sẽ làm cho Phật giáo hưng thịnh, chứ không phải có thần thông, phép tắc, ngồi thiền tốt, thuyết giảng lung tung, v.v...
2/. Ưa yên lặng:
Sự yên lặng nói lên được tâm hồn giải thoát của người tu theo đạo Phật. Sự yên lặng nói lên được đức hạnh Thánh thiện của bậc chân tu, sống với nội tâm của mình. Sự yên lặng còn là pháp môn độc cư tuyệt vời. Nếu người tu hành mà không sống độc cư thì chẳng bao giờ tìm được sự giải thoát, vì giáo pháp "Độc Cư" là bí quyết thành tựu thiền định. Nếu người tu sĩ sống chẳng độc cư thì chẳng bao giờ nhập định được.
3/. Ít ngủ nghỉ:
Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật thường tu tập tỉnh thức, không ưa ngủ nghỉ, vì ưa ngủ nghỉ sẽ làm cho Phật giáo suy đồi. Người ưa ngủ nghỉ sẽ sanh tâm lười biếng làm tâm u mê. Từ đó, họ sống không có giới luật nghiêm chỉnh, và dễ sanh phạm giới.
Muốn giảm thiểu sự ngủ nghỉ thì cần phải kinh hành nhiều. Người tu sĩ đệ tử Phật không đi kinh, hoặc đi kinh hành ít là người tu sĩ lười biếng, là người tu sĩ ham ngủ. Kinh hành là một pháp môn tỉnh thức tối cần thiết để phá sạch tâm ưa thích ngủ nghỉ. Nhờ siêng năng kinh hành nhiều nên đường tu hành mau có kết quả. Phật pháp hưng thịnh là nhờ các tỳ kheo ít ưa ngủ nghỉ, thường siêng năng kinh hành.
4/. Không kết bè bạn:
Người tu sĩ đệ tửĐức Phật muốn tu hành được giải thoát và Phật pháp hưng thịnh thì sống không nên kết giao bè bạn. Kết giao bè bạn thì sự tu hành chẳng đi đến đâu cả, chỉ uổng phí một đời người. Đừng nghe người ta nói: "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Trong đạo Phật, tu hành rất cấm kỵ sự kết bạn; vì sự kết bạn sẽ là cho: thứ nhất là mất thì giờ tu tập; thứ hai là ái kiết sử không đoạn dứt được; thứ ba, thường xảy ra chuyện rầy rà, đôi chối, tranh chấp; thứ tư, sống không hoà hợp (chia ra phe, nhóm), khiến cho Tăng đoàn bị phân hoá, chia rẻ, thiếu đoàn kết; thứ năm, Phật giáo suy thoái.
5/. Không tự khoe khoang:
Khoe khoang chính là mục đích cầu danh, cầu lợi. Ngày nay các tu sĩ muốn cầu danh thì học để có bằng cấp Tiến Sĩ, làm giảng sư; chưa có lợi thì làm quen cho có nhiều Phật tửđểđược cúng dường, và soạn viết nhiều kinh sách. Thường những tu sĩ tu hành chưa tới nơi, tới chốn, mà muốn làm danh lợi thì chỉ là nhai lại "bã mía" của người xưa để thực hiện "Bồ Tát đạo", hành "Bồ Tát hạnh". Những loại kinh sách nầy đã giết hại biết bao nhiêu thế hệ con người từ xưa đến giờ.
Người tu sĩ Phật giáo sống không thích khoe khoang, không cầu danh lợi thì mới có thể làm cho Phật pháp hưng thạnh.
6/. Không kết bạn với người xấu:
Không nên kết bè bạn, dù là bạn tốt. Muốn làm cho Phật giáo hưng thạnh thì người tu sĩ đạo Phật phải "độc bộ, độc hành, độc cư", nếu không sống như vậy thì chẳng bao giờ tu đến đích. Đức Phật khuyên người tu không nên kết bạn với người xấu, vì bạn xấu sẽ làm cho Phật giáo suy thoái. Bạn bè xấu sẽ lôi cuốn vào chỗ phạm giới, phá giới, bẽ vụn giới (thích vui chơi, thích ngủ nghỉ, thích nói chuyện, thích tranh luận, thích nghe ca hát và ca hát, thích trang điểm làm dáng, làm đẹp, thích vật chất, quần áo, giày dép, xe cộ, máy móc, chùa cao, Phật lớn, phong cảnh đẹp v.v...) và đi đến chỗ phi oai nghi, tế hạnh, thường sống phi đạo hạnh và đạo đức của bậc Thánh Tăng.
Người tu sĩ chân chánh thì nên tránh xa những người bạn xấu ấy, nếu kết bạn với họ thì Phật pháp không hưng thịnh. Những người bạn ấy sẽ lôi cuốn chúng ta vào đường danh, nẽo lợi.
7/. Thích sống một mình:
Người tu sĩ sống độc cư một mình là làm hưng thịnh Phật giáo. Vì sao? Tại vì người ấy sống một mình thì tâm mới ly dục ly ác pháp trọn vẹn. Tâm ly dục ly ác pháp trọn vẹn thì tâm không phóng dật, là tâm định trên thân. Tâm định trên thân là tâm ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền. Sơ Thiền là thứ thiền giải thoát của đạo Phật rất rõ ràng và cụ thể. Người tu hành nhập được Sơ Thiền thì giới luật phải sống nghiêm túc, không hề vi phạm, dù một giới luật nhỏ nhặt nào. Giới luật không hề vi phạm thì đức hạnh người nầy đã đầy đủ. Nhờ sống đức hạnh đầy đủ, làm người, làm Thánh thì làm sao mà Phật giáo không hưng thịnh?
Người an vui thích sống một mình là người đã giải thoát rồi. Sống một mình khó lắm qúy vị, chứ không phải là lời nói suông. (VIII / 102-110)
Trong thời khóa mà thường bị thất niệm là do những yếu tố sau đây:
1. Tu tập quá sức của mình.
2. Ham tu nhiều mà tu không đúng cách. Thí dụ người mới tu Thiền nên đi kinh hành nhiều mà lại ngồi nhiều thì không đúng.
3. Lười biếng không đi kinh hành.
4. Chưa tập luyện ổn định hơi thở bình thường.
5. Chưa tập hơi thở gom tâm.
6. Thay vì tu 5 hơi thở lại tu 10 hơi thở.
7. Không phòng hộ sáu căn, thường để tâm phóng dật.
8. Sống không đúng giới luật của Phật.
9. Không sống độc cư trọn vẹn.
10. Nên trực tiếp với thiện hữu tri thức hướng dẫn.
Trên đây là 10 diều cần phải lưu ý trong khi tu tập Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Hành giả phải hết sức nhiệt tâm. Nếu thiếu nhiệt tâm thì tu tập vẫn bị thất niệm. Bị thất niệm tức là thiếu nhiệt tâm và tu tập quá sức của mình. (VIII / 204-205)
a/. Quán bất tịnh trừ tham dục:
Kinh A Hàm dạy: "Bịnh sắc dục, dùng bất tịnh trị". Thật vậy, đứng trước sắc, khi tâm tham dục khởi, phải dùng quán bất tịnh đểđối trị; nghĩa là phải suy tư quán xét cho thấu đáo tất cả vạn hữu đều có sắc tướng bất tịnh, dễ bị nhiễm ô, sinh ra mùi hôi thúi, ghê tởm, mặc dù chúng có những sắc tướng khêu gợi khiến cho tâm tham sắc dục dễ nổi lên.
Muốn làm chủđược tâm tham sắc dục, không có pháp môn nào chế ngự bằng những kinh nghiệm bản thân, phải trực tiếp, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi mùi, tay sờ mó vào sắc tướng của đối tượng đang phơi bày trước mắt những uế trược, những mùi hôi thúi, những hình ảnh ghê tởm, và nhiều thứ bất tịnh khác nữa. Nhờ có trực tiếp như vậy, vừa thấy sắc là ghê tởm ngay.
Muốn chế ngự và hàng phục tâm sắc dục, điều tối ư quan trọng là phải thông suốt: ởđâu có khoái lạc, ở đó có đau khổ. Sự đau khổ nhắc cho chúng ta thức tỉnh trong sự mong cầu khoái lạc.
Xét về thân và tâm của mình, từ xương, răng, da, tóc, đờm, nhớt, máu, mủ, thảy đều bất tịnh. Về tinh thần, ta dễ bị ô nhiễm, dính mắc các sắc tướng vạn hữu. Vì thế, chúng ta càng khởi tâm tham dục lạc, thì càng thọ vô lượng đau khổ.
Người tu Thập Thiện, phải thể hiện đúng mười điều lành của Phật dạy, và còn phải nhìn thấu suốt thực chất sắc tướng của vạn hữu đang vây quanh chúng ta.
b/. Quán từ bi trừ sân hận:
Người mang bệnh sân hận nặng, muốn đối trị, phải dùng từ tâm, nghĩa là chúng ta phải biết đem lòng từ bi tha thứ và thương xót những kẻ lầm lỗi, những người hung ác, gian tham, tật đố, v.v... Tại sao? Vì họ là người thiếu giáo dục đạo đức, không được ánh sáng chân lý soi chiếu vào tâm tư họ, nên đời sống họ luôn bám chặt vào vật chất, chịu nhiều thứđau khổ.
Chúng ta là người hành Thập Thiện phải thấu rõ lý nhân quả, thường dùng chánh kiến, và luôn luôn thực hiện lòng từ bi đối với mọi người. Nhờ vậy, lòng đau khổ, sự giận hờn mới chấm dứt.
Ý thức được sự ích kỷ, nhỏ mọn của mình là thuốc độc giết chết tâm hồn, chỉ có lòng từ bi mới cứu sống chúng ta.
c/. Học giáo lý, và quán nhân duyên để trừ ngu si:
Muốn trừ bệnh ngu si mà không chịu học Phật pháp thì không làm sao có trí tuệ giải thoát, không thể làm chủđược tư tưởng của mình và thấu suốt được vạn hữu. Vả lại người ngu si không thể nào áp dụng phương tiện của Đức Phật dạy. Kẻ ngu si không đủ trí hiểu biết, luôn sống một cuộc đời đầy đau khổ, sân hận, lúc nào cũng nô lệ cho vật chất.
Người hành Thập Thiện phải biết dùng pháp môn quán của Đức Phật đã giảng dạy suốt con đường "A Hàm", tức là "Nhị Thừa". Pháp môn nầy dùng đểđối trị tất cả phiền não. Khi thấu suốt con đường quán của Nhị Thừa, chúng ta mới rõ lẽ tất cả hiện tượng vạn vật thiên nhiên trong vũ trụđều do duyên hợp tạo thành chớ không do một đấng vạn năng nào biến hoá ra.
Xét cho thấu đáo về cuộc sống, chúng ta mới thấy ngã không, người không, và vạn hữu đều không. Kinh A Hàm dạy: "Này Thích Đề Hoàn Nhơn! Như vậy tất cả hiện tượng đều quy về không, không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tượng, không nam nữ".
Ởđây chúng ta nghe Đức Phật dạy tất cả hiện tượng trong thế gian đều quy về không, không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ, thế mà mọi vật trước mắt sờ sờ bảo là không thì hoá ra lời dạy kia phi lý và mâu thuẫn với chính nó.
Muốn rõ lý sắc không, chúng ta phải có sự suy tư cho tường tận mới thấy vạn hữu là không. Ví dụ, muốn dựng một cái nhà, cần phải có nhiều thứ hợp lại, như kèo, cột, vách, lá, phên, cửa, đòn tay, đòn dông hợp lại tạo nên một cái nhà. Nếu lấy một cây cột, bảo đó là cái nhà thì không đúng.
Sau đây là câu chuyện vua Milinda hỏi tỳ kheo Magasena trong kinh Milinda:
- Thưa đại đức! Quý danh ngài là gì?
- Tâu bệ hạ! Người ta gọi tôi là Magasena, nhưng không có thật tôi.
Nhà vua hỏi:
Nếu không có thật ngã thì ai cúng dường, ai truyền giáo, ai tham thiền, ai thực hành giáo lý và ai tu chứng niết bàn? Vậy cái gì mới thật là Magasena? Hay tóc trên đầu là Magasena chăng?
Tâu bệ hạ! Không phải tóc là tôi.
Lông nơi thân là Magasena chăng?
Tâu bệ hạ, cũng không.
Vậy thì sự cảm xúc, sự nhận biết vui buồn là Magasena chăng?
Tâu bệ hạ cũng không.
Như thế, ngoài thân còn cái gì là Magasena nào chăng?
Tâu bệ hạ cũng không có thân nào khác ngoài Magasena.
Vua Milinda hỏi xong, Magasena hỏi lại:
Vậy, tâu bệ hạ! Ngài đến đây bằng gì?
Bạch đại đức! Trẩm đến đây bằng xe.
Vậy bệ hạ có thể giải thích xe là gì chăng?
Có phải gọng là xe chăng?
Không phải thế.
Cái trục lăn có phải là xe chăng?
Bạch đại đức, không.
Hai cái bánh có phải là xe không?
Cũng không.
Vậy nhà vua nói các thứđó cái gì là xe không?
Cũng không.
Câu chuyện của vua Milnda cho chúng ta thấy rõ ràng Phật giáo chủ trương con người không có bản ngã. Sinh mạng con người chiû kết hợp do tứ đại và tâm thức. Hay nói một cách khác hơn, con người do duyên hợp bởi đời sống vật chất và tâm lý. Đời sống vật chất gọi là sắc uẩn, đời sống tâm lý gọi là thọ, tưởng, hành , thức uẩn, gọi chung là ngũ uẩn.
Đứng về phương diện không gian, vạn hữu trong vũ trụ vốn giả hợp, còn về phương diện thời gian, vạn hữu vốn sanh diệt không ngừng. Cho nên thân ngũ uẩn tạm có gọi là sanh mạng chúng sanh, khi ngũ uẩn tan rã thì gọi là sanh mạng chúng sanh chấm dứt, hay chết.
Vạn hữu mượn danh mà đặt tên, chớ không thực có tên. Thí dụ như cái mà chúng ta gọi là xe thì nó đâu có một bản thể chính yếu ngoài các bộ phận như bánh, bi, căm, v.v... Nếu không có các thứấy thì xe không thành hình được. Xe chỉ là một danh từđể chỉ sự kết hợp của các bộ phận ấy mà thôi. Tôn giả Tu BồĐề còn giảng những ví dụ giải thích cho chúng ta thấy vạn hữu do duyên hợp tạo nên, và khi hết duyên thì duyên tan, rồi hoại diệt. Ví như cây cổ thụ xum xuê tàn lá, một cơn gió to cành lá phải xác xơ. Một vườn cây đang kết hoa, nẩy nụ làm quả. một trận mưa đá, tuyết rơi làm hư hoại tất cả. Đó là duyên tan. Một cơn mưa to trút xuống, các cây cành đang héo uá, gặp mưa liền đâm chồi, nẩy tược. Đó là duyên hợp. Khéo quán xét, đào sâu vào tự thể của vạn hữu, ta mới thấy rằng bệnh tật không từ đâu sanh, chẳng phải thân sanh, mà cũng chẳng phải ý sanh. Vì thế bệnh tật không phải do thân, do ý, mà chính là do duyên hợp tạo nên. Pháp pháp do duyên mà có, duyên hợp là động, động thì pháp sanh.
Pháp pháp tự diệt, nghĩa là hết duyên thì pháp tự hoại diệt, trở về bản thể của nó. Kinh A Hàm dạy: Này Thích Đề Hoàn Nhơn! Pháp pháp loạn động, pháp pháp tự diệt. Ta trước mắc bệnh đau đớn khổ sở, ngày nay đã trừ, không còn bệnh khổ. Lời dạy này của Tôn Giả Tu BồĐe,à chúng ta phải nhận thức như thế nào?
Có phải chăng khi suy tư quán xét thấu rõ cội nguồn của bệnh tật là hết bệnh chăng? Hay là do một duyên cớ gì mà Õng Tu BồĐề bảo bệnh ông đã hết?
Khi dùng QUÁN ta sẽ thấu suốt cội nguồn của bệnh tật chỉ là do duyên hợp nhiều đời cũng như ngay trong đời hiện tại mà ta đang tạo tác. Vì thấu rõ cội nguồn của bệnh tật, nên tâm tư không còn lo ngại, sợ sệ, bệnh tật, mà thường nhìn thẳng vào bệnh tật, lòng không chút sợ hãi, lo lắng.
Đủ duyên ác hợp lại thành bệnh tật, khổđau, vui buồn, thương ghét, giận hờn ? Hết duyên, tất cả phiền lụy đều tan hết. Thấu suốt được lý nầy, hành giả phải chấp nhận bệnh tật, hoặc tai nạn, không bao giờ biết sợ, biết trốn tránh, lúc nào cũng vui vẻ trả nghiệp và luôn luôn tạo nghiệp thiện.
Do lòng an vui, chấp nhận các nghiệp khổ, tinh thần sẽ dũng mãnh, can đảm chịu đựng những thử thách để rồi vượt qua, nghiệp khổ dần dần tan biến.
Nói đến duyên hợp, duyên tan mà không nói đến nhân quả là một điều thiếu sót quá lớn. Nhơn quả là do nghiệp lành, ác mà có. Muốn đối trị quả khổ thì phải thấu lý nhân quả, tức là biết rõ quã thiện ác đang chủđộng tác động vào đời sống con người, khiến cho khổ cực, thất điên bát đảo.
Vì vậy chúng ta phải thường hành Thập Thiện. Đó là gieo nhân lành, khi đầy đủ nhân lành thì sự phiền não, đau khổ chấm dứt.
Muốn cứu nguy bệnh tật của thân, và tìm chơn hạnh phúc cho gia đình, thì phải hành Thập Thiện. Hành Thập Thiện là chuyển từ nghiệp ác thành nghiệp thiện, chuyển điều dữ thành điều lành, khiến cho đời sống chúng ta hoàn toàn được thuận duyên. Nhờ thế, bước tiến trên cuộc hành trình về xứ Phật không còn chút gì trở ngại.
Muốn hành Thập Thiện mà thiếu trí tuệ thì không bao giờ thực hiện được việc này. Muốn có trí tuệ, chúng ta phải học Phật pháp. Nhờ học Phật pháp mới thắm nhuần, trí sáng suốt, đạt chánh kiến giải thoát của Phật. Nhờ đó tâm hồn xuất sanh lòng từ bi, nhờ lòng từ bi mới nhẫn nhục dễ dàng, nhờ nhẫn nhục chúng ta thể hiện Thập Thiện dễ dàng.
Chỉ có hành Thập Thiện, quả ác mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc. Con người muốn thoát khỏi bệnh tật, khổ đau, tai nạn hiểm nghèo thì không có phương tiện hay pháp môn nào mau thoát khỏi những điều đã nói ở trên bằng pháp môn Thập Thiện. Dù thuốc hay, thầy giỏi cũng không tránh khỏi thân bệnh, dù các vua chúa hay bậc y sư giỏi nhất cũng phải bệnh tật, và chịu chung luật sanh tử.
Cho nên nếu chúng ta học Phật pháp và áp dụng hàng ngày, thì thân bệnh sẽ không còn nữa. Chúng ta hãy nghe bài kệ của Tôn giả Tu BồĐề để gắng công thể hiện Thập Thiện, vì nó mang lại cho đời sống chúng ta một sự an vui, hạnh phúc chân thật. Đây là bài kệ:
Hãy nói như lời nầy, Căn bản thấy đầy đủ.
Người trí được an ổn, Nghe pháp dứt các bệnh.
Kinh Tăng Nhất A Hàm (HTT / 54-77)
Những giới luật đầu tiên của đạo Phật mà quý vị tỳ kheo tăng, tỳ kheo ni, cũng như quý vị nam nữ cư sĩ cần phải tu học. Đó là một trăm giới chúng học. Các giới nầy không phải chỉ dành riêng cho hàng xuất gia, mà cho tất cả mọi người. Không những hàng cư sĩ Phật tử, mà bất cứ tín đồ của tôn giáo nào cũng cần phải học, vì nó có lợi ích thiết thực cho đời sống của mọi người trên hành tinh nầy.
Giới luật Phật gồm chung có: ngũ giới, thâp thiện, thập giới sa di, sa di ni, 250 giới tỳ kheo tăng và 348 giới tỳ kheo ni. Với tất cả giới luật mà Đức phật đã dạy, ai biết lấy đó làm tiêu chuẩn sửa sai những hành động thân, miệng, ý của mình, lần lần sẽ trở thành những hành động hiền lành, ôn tồn, hòa nhã, thương yêu và đầy lòng bác ái, từ bi, v.v...
Những hành động đạo đức sẽ tiến dần lên những hành động cao thượng hơn của bậc Hiền, Thánh, của những bậc chơn tu. Nó còn gọi là đạo đức Phạm Hạnh trong Phật giáo. Nó hoàn toàn không còn mang những bản chất và hành động hung ác của loài cầm thú và ác quỷ nữa. Nhờ đó con người sống tronh hạnh phúc, an vui, tâm hồn thanh thản và an lạc, v.v... mà con người thường mơ ước. Những ai đã thực hiện được những hành động đức hạnh nầy thì người ấy đang sống trong cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc tại thế gian.
Trong đạo Phật, những hành động đạo đức nầy còn gọi là oai nghi, tế hạnh, là phạm hạnh, là đạo đức giải thoát của người tu sĩ (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni). Nó chính là pháp môn tam vô lậu học "Giới, Định, Tuệ" mà giới luật làp háp môn dạy đạo đức đầu tiên làm người của Đức Phật.
Hành động của một người sống thật là người, thì không không còn mang bản chất hung ác của loài cầm thú nữa. Con vật không có trí tuệ như con người, cho nên hành động của con vật thường xâu xé lẫn nhau vì miếng ăn, chỗ ở, vì ghen tương, ganh tị, thù hận, v.v... Con người thì không lẽ như vậy? Con người sống trong đạo đức nhân quả "không làm khổ mình, khổ người". Giới luật của Đức Phật là những pháp môn dạy cho chúng ta tu tập, rèn luyện những hành động đạo đức làm người cho xứng đáng làm người, và còn tiến lên làm những bậc Thánh hiền.
Thế nên, làm người phải có những hành động của một con người, nghĩa là có sự HIỂU BIẾT. Hiểu biết cái gì? Hiểu biết những hành động đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Ngược lại, có những người hiểu biết rất nhiều, có bằng Tiến Sĩ, thông hiểu Tam Tạng Kinh điển mà vẫn thiếu đạo đức, thường mang tự ngã, xem mình là trên hết. Họ thường làm khổ mình, khổ người bằng cách nói xấu người khác, đổ tội cho người khác khi mình làm sai, làm lỗi, nhất là rất hèn hạ, khi làm lỗi mà không can đảm nhận lỗi. Sống mà còn tham ăn, tham ngủ như loài cầm thú thì những người ấy chưa được gọi là những người hiểu biết. Họ vẫn là những người còn vô minh, mang đầy bản chất của loài cầm thú.
Một con vật nhờ có bộ lông, nhưng lại sống hở hang, không kín đáo, bày da, bày thịt, gợi dâm dục, không biết xấu hổ, nên gọi là con vật. Con người thì khác, vì con người biết xấu hổ, biết anh, chị, em, cha mẹ, ông bà, biết mặc quần áo cho kín đáo, không bày da, bày thịt, khêu gợi dâm dục. Thời nay, có rất nhiều phụ nữ bịảnh hưởng của Tây phương, ăn mặc hở hang, bày da, bày thịt, khiêu dâm, gợi dục. Người Tây phương sống theo vật chất nên thiếu đạo đức. Bây giờ mà chúng ta bắt chước theo họ thì đủ biết là đạo đức của con người đang xuống dốc và đang trở vềđời sống của loài thú vật. Thế nên, không phải nhìn ở hình tướng bên ngoài của con người mà đánh giá họ được, mà phải nhìn những hành động thiện ác là biết ngay người ấy là người, hay thú, Thánh nhân, hay loài ác quỷ.
Đọc lại phần giới luật mà Đức Phật đã dạy cách đây 2543 năm về đạo đức làm người, làm Thánh nhân, chúng ta mới thấy lời dạy ấy là một kho tàng đạo đức vô giá. Bằng chứng cụ thể là mười ba năm đầu khi đạo Phật xuất hiện trên hành tinh nầy thì chúng tỳ kheo giữ gìn giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ, rất xứng đáng là bậc Thánh Tăng và Thánh Ni. Còn bây giờ những lời dạy nầy trở nên quá tầm thường, chẳng mấy ai quan tâm. Các tín đồ Phật giáo, tỳ kheo tăng, và tỳ kheo ni đã quên đi và coi nhẹ những pháp bảo đạo đức này. Họ xem thường giới luật, và chỉ chú trọng pháp môn thiền định. Nhưng thiền định nào có ích lợi gì cho bản thân họ và cho những người khác đâu. Bằng chứng quý vịđã thấy rõ ràng, có những người ngồi thiền hai, ba tiếng đồng hồ, hoặc một, hai ngày mà chẳng có ích lợi gì cho mọi người và cho xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày họ đều vi phạm giới luật. Họ dùng đủ mánh khoé, lừa đảo, lường gạt những người khác bằng những thủ đoạn gian xảo, bên ngoài phủ lớp áo đạo đức giả khéo che đậy với những danh từ "BỒ TÁT ĐẠO", hành "BỒ TÁT HẠNH". Chúng ta tu theo đạo Phật, không phải cầu thiền định, không phải cầu thần thông, phép tắc, hoặc cầu chết đi được về Niết bàn, Cực lạc. Chúng ta cũng không cầu danh, cầu lợi, hoặc cầu cơm ăn, áo mặc, có chùa to, Phật lớn, hoặc mong làm chức Hoà Thựơng, Thượng Toạ, Viện Trưởng, Viện Chủ ,v.v... Chúng ta đến với đạo Phật cũng không phải cầu kiến tánh, thành Phật, Thánh, Tiên, hiền nhân, quân tử, v.v... Chúng ta đến với đạo chỉ cầu tu tập, trao dồi, sửa tâm tánh mình có những hành động đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, để chúng ta thoát khỏi những hành động của loài cầm thú và ác qủy. Nếu được như vậy là chúng ta mãn nguyện lắm rồi. Chúng ta không ưóc nguyện một điều gì ngoài tầm sức của mình, không dám mơ tưởng những gì cao siêu, huyền bí. Chúng ta cũng không dám mơ làm Bồ Tát độ hết chúng sanh, vì độ hết chúng sanh, sức của chúng ta không sao làm nổi. Chỉ tuỳ duyên mà thôi, ai có duyên với mình thì mình độ, không duyên thì thôi, chúng ta chẳng dám ước vọng,vì ước vọng như Phật và Bồ Tát của Đại Thừa sẽ không thực hiện được, thiếu thực tế và còn mơ hồ, trừu tượng, khiến cho chúng sanh nghi ngờ, mất niềm tin với đạo Phật. Tóm lại, một trăm giới học chúng là một trăm hành động đạo đức dạy làm người. Người không đạo đức lần lần sẽ nhiễm ác pháp, trở thành những con thú hung dữ, và tệ hơn nữa, là loài ác quỷ. Muốn thoát khỏi bản chất loài cầm thú chúng ta cần phải thực hiện đạo đức nhân quả làm người. Không nên làm khổ mình, khổ người, và luôn luôn phải biết thương yêu nhau, tha thứ cho nhau những lỗi lầm của mình; và còn biết đùm bọc lẫn nhau trong những lúc hoạn nạn, tai ương, những khi tối lửa, tắt đèn, cũng như những khó khăn trên đường tu hành để cùng nhau chia xẻ ngọt bùi, cay đắng, v.v....
(Trích Lời Nói Đầu, Giới Đức Làm Người, tập II)
Trong kinh Phật dạy: "Cạo bỏ râu, tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ nhà cửa, sống không gia đình". Đây là giai đọan thứ hai trên đường tu tập của đạo Phật. Người cư sĩ muốn tiến tới giai đoạn nầy thì phải thấu hiểu rõ đời sống xuất gia, và tự hỏi liệu mình có thể sống được hay không.
Qua lời dạy trong đoạn kinh nầy: "Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa". Đây là lời dạy dứt bỏđể cắt các duyên bên ngoài, không trang điểm làm đẹp, phải làm cho mình xấu xí, ăn mặc thì không chải chuốt, chỉ dùng những vải thô xấu. Hình ảnh bên ngoài phải phá và dẹp bỏ cái đẹp của trần gian, khiến cho mọi người không còn để ý đến thì mới dễ tu hành. Trong chuyện "Góp Nhặt Cát Đá" có kể câu chuyện một cô thiện nữ rất đẹp đến xin với một vị thiền sư cho cô tu hành. Vị thiền sư bảo: "Cô tu không được". Cô ngạc nhiên hỏi vị thiền sư: "Tại sao con lại tu không được? Xin thiền sư chỉ dạy cho". Vị thiền sưđáp: "Tại vì cô quá đẹp!" Nghe xong cô trở về nhà tìm cách phá huỷ sắc đẹp của mình. Sau khi vết thương trên mặt đã lành, để lại một vết thẹo trên mặt khiến cho cô như giống ác quỷ. Bấy giờ cô trở lại gặp vị thiền sư. Vừa trông thấy mặt, vị thiền sưđã nhận ra cô và chấp nhận cho cô ở tu.
Câu kế, kinh dạy: "Từ bỏ tài sản, của cải, nhà cửa, sự nghiệp" ý Phật khuyên chúng ta phải buông xả vật chất thế gian, không còn một thứ gì ngoài ba y một bát, để tâm trí không còn lo lắng, hối tiếc, sợ hư hao, sợ mất mát, v.v...
Cũng bài kinh đó, câu cuối cùng, Phật dạy: "Sống không gia đình", nghĩa là đoạn dứt tình cảm cha mẹ, anh em, chị em ruột thịt, vợ con, bè bạn, người thân quyến thuộc, v.v....
Khi hiểu rõ từng đoạn kinh nầy, ta thấy Đức Phật đã chỉ dạy thật rõ ràng. Người cư sĩ quyết tâm đi theo con đường giải thoát của đạo Phật thì bắt đầu chuyển mình qua cuộc sống mới:
cuộc sống đạo. Đoạn kinh nầy tuy ngắn, nhưng ta thấy sự chỉ dạycủa Đức Phật thay đổi vĩ đại cuộc sống con người:
1/. Người tu mà còn trang điểm, làm đẹp, làm dáng là không thể theo đạo Phật tu hành đến nơi, đến chốn được.
2/. Người tu mà không dứt bỏ tài sản, của cải vật chất, vàng bạc, của báu thì không thể nào theo đạo Phật tu hành đến nơi đến chốn được.
3/. Người tu mà không dứt bỏ tình cảm, không cắt đứt lòng luyến ái đối với người thân thì không thể nào theo đạo Phật tu hành đến nơi, đến chốn được.
Cái khó của người tu đạo Phật đầu tiên là ở ba trường hợp nầy: nếu dứt một, còn hai thì đi tu cũng vô ích, nếu dứt hai, còn một thì đi tu cũng chẳng có kết quả gì. Chỉ khi nào dứt trọn vẹn ba trường hợp nầy thì xuất gia tu hành mới đạt kết quả giải thoát. Nếu không dứt được ba trường hợp nầy thì quý vị có tu hành cũng chỉ là một cư sĩ trọc đầu mà thôi.
Xét qua ba trường hợp này, trước tiên ta phải bỏ trang điểm, làm dáng, làm đẹp, tập ăn mặc vải thật xấu. Kếđó tập bố thí, xả bỏ của cải tài sản, buông xả cho thật sạch. Đừng nghĩ rằng để dành, cất chùa, cất am cho thật đẹp, độ người tu. Điều nầy là lập luận của thế gian qua ngõ tôn giáo, và bị tâm mình lừa gạt. Tu để cứu mình thoát khỏi trầm luân. Chưa cứu mình được mà lo cứu người, đó là si mê, dại dột. Đó cũng là tâm danh lợi.
Ta phải xả bỏ hết của cải như ông Bàng long Uẩn, đem tài sản của cải, châu báu đổ hết xuống sông. Khi xả bỏ được hết của cải, tài sản, châu báu, vàng bạc thì ta giải quyết tình cảm như thế nào để không còn bị trói buôc, nhớ thương? Đây là một giai đoạn rất khó trong đạo Phật. Nghe thì dễ, nhưng thực hiện thì khó vô cùng. Muốn vượt thoát cuộc sống thế gian đâu phải ai cũng làm được. Phải là người gan dạ, đầy đủ nghi lực, cương quyết, dũng cảm thì mới vượt thoát được.
Một người như các cư sĩ đang ngồi đây, nghe thầy thuyết giảng, thử hỏi quý vị có thể bỏ gia đình đi tu ngay liền được hay không? Quý vị muốn đi tu, nhưng vợ con có đồng ý hay không? Nếu quý vịđoạn dứt, bỏ đi, thì quý vịđã làm trái với lời Phật dạy: "Không làm khổ mình, khổ người".
Quý vị sẽ hỏi thầy: "Sao Đức Phật đi tu bỏ cả gia đình, vợ con thương nhớđược?". Quý vị quên rằng khi Đức Phật đi tu thì đạo Phật chưa có. Do đạo Phật chưa có, nên chưa ai dạy điều này (đạo đức nhân quả). Còn bây giờ chúng ta đã có đạo Phật, nên có "đạo đức không làm khổ mình, khổ người". Vì thế bà Dhamar phải chờ chồng chết mới đi tu.
Hai chữ bổn phận trói buộc ta chắc hơn cả dây xích sắt. Bổn phận làm người, đối với cha mẹ, đối với vợ con, liệu chúng ta có dứt bỏđược không? Điều đó ít có ai làm được, đâu phải dễ. Một người làm được điều nầy ví như một bầy cá đang mắc trong lưới, chỉ có một con vượt thoát ra khỏi lưới, đó là một điều hy hữu ít có. Chúng ta là những người bị lưới gia đình, lưới vật chất, lưới danh, lưới lợi bao vây khắp cùng, không thể vượt thoát ra được. Thầy Minh Tông là một cư sĩ có vợ, con còn nhỏ, mẹ già đang bệnh tật. Nhưng đứng trước sự chết sống, bệnh khổ và tái sanh luân hồi của kiếp người, Thầy không chần chờ được nữa, mạnh dạn quyết tâm vượt ra khỏi mạng lưới, để thưcï hiện con đường giải thoát, cứu mình và cứu mọi người, trong đó có gia đình mình, cha mẹ và vợ con.
Không phải ai cũng có thể làm như cư sĩ Minh Tông được. Hầu hết quý vịđang có mặt ởđây, đang nghe thầy thuyết giảng, chẳng qua chỉ để nghe cho hiểu biết, chớ không đủ can đảm vượt qua những mạng lưới của gia đình, cạo bỏ râu tóc xuất gia, thay đổi cuộc sống hoàn toàn, cắt đứt dây mơ rễ má, tình cảm gia đình để thực hiện đời sống cao quý của đạo Phật. "Không làm khổ mình, khổ người", và đi sâu hơn nữa trên con đường của đạo Phật. Đó là thực hiện thiền định, tịnh chỉ các hành trong thân, làm chủ sự sống chết, quét sạch luật nhân quả, luân hồi. Những việc làm nầy, người cư sĩ tại gia, còn sống trong gia đình, không thể làm được. Con đường tu tập của đạo Phật không phải đơn giản như mọi người nghĩ, mà phải thực hiện từng bước. Ban đầu phải có bậc minh sư hướng dẫn tu tập đúng cách, đúng pháp.
Quý thầy và các con thử nghĩ xem các hành trong thân của chúng ta đang tự hoạt động như:
tim đập, phổi hô hấp, bao tử nhồi bóp thực phẩm, ruột non, ruột gìa và da đang bài tiết, óc, thần kinh đang hoạt động, hơi thở ra vô liên tục. Thế mà người ta tập điều khiển làm cho các hành đều ngưng hoạt động, thì quý thầy và các con tự suy nghĩ đây không phải là việc dễ làm, dễ tu tập.
Nếu tâm quý vị còn đắm nhiễm mùi tục lụy thế gian, còn thương ,còn ghét, còn giận hờn, còn ham muốn vật nầy, vật kia, còn ham thích nói chuyện đời, chuyện đạo, tranh luận hơn thua, chưa từ bỏ viễn ly, chắc chắn quý thầy và các con không thể làm được những chuyện vĩ đại nầy.
Giáo lý của Đức Phật đã vạch cho chúng ta thấy con đường tu tập rất rõ ràng. Bắt đầu phải diệt trừ ác pháp, lià tâm ham muốn, lấy nhân quả làm nòng cốt tu tập thiện pháp, khiến cho tâm xa lià và đoạn dứt thất kiết sử, ngũ triền cái. Lần lượt tu tập buông thả, lập hạnh bố thí, cúng dường, và còn trau dồi những đức nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh. Nếu bước đầu tu tập đúng như vậy, quý thầy và các con sẽ ly dục, ly ác pháp một cách dễ dàng. Mà đã ly dục, ly ác pháp được thì tâm của quý vị sống trong gia đình được yên vui, hạnh phúc, chẳng ai làm gì động tâm được cả, luôn luôn lúc nào tâm của quý vị lúc nào cũng thanh thản, an lạc.
Khi thực hiện được giai đoạn ly dục, ly ác pháp, quý vị sẽ có được một tâm hồn giải thoát, an lạc, và một cuộc sống an vui, hạnh phúc. Nếu quý vị mãn nguyện nơi đây thì con đường tu hành của quý vị mới đi một phần ba đường. Quý vị muốn đi quãng đường còn lại của đạo Phật trong chiếc áo người cư sĩ, chắc chắn quý vị khó mà thực hiện được.
Giai đoạn chuyển tiếp từ chiếc áo người cư sĩ đến chiếc áo của người tu sĩ, quý vị phải xả bỏ hết tài sản của cải như ông Bàng Long Uẩn. Khi xả bỏ hết tài sản, của cải thì ta mới giải quyết tình cảm như thế nào để không còn bị trói buộc, thương nhớ. Đây là giai đoạn rất khó. Nếu cha mẹ, anh, chị em, vợ con đều thông suốt Phật pháp thì dễ dàng dứt áo ra đi bằng ngược lại thì khó khăn vô vàn. Đó là phần hình thức, đồng ý hay không đồng ý, còn về tình cảm của ta đối với những người này, liệu ta có thể dứt bỏ dễ dàng không? Muốn tìm con đường tu hành giải thoát mà không mạnh dạn dứt bỏ, không đủ nghị lực xa lìa những người thân thương, thì dù tu ngàn kiếp cũng chẳng tới đâu....
Có xa lìa được tài sản, có dứt khoác được tình cảm thì mới nhập được chánh định, bằng không thì chỉ là tu hình thức, chẳng bao giờ nếm được mùi vị của giải thoát. Từ cuộc sống đời bước sang cuộc sống đạo, toàn bộđều khác hẳn. Thế nên người tu muốn giải thoát mà không chuẩn bị sẵn sàng sẽ bị một cơn sốc nặng. Từđó về sau cuộc sống "đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo", sự tu hành cũng chẳng đi tới đâu, phí uổng một đời người, chẳng ích lợi gì cho mình, cho người.
Người nào vượt qua đoạn đường này, ví như cá vượt vũ môn. Xưa Trang Tử cùng một người bạn đứng xem người chài lưới cá. Có một con cá từ trong lưới đang kéo lên vọt thoát ra ngoài, Trang tử vỗ tay ca ngợi: "Hay! Một con cá khôn thật!" Người bạn hỏi: "Sao anh lại biết nó khôn?" Đáp: Tất cả những con cá khác đồng chung số phận sa lưới, mà không thấy mình sa lưới, không thấy sự nguy hiểm, tai hoạ, không thấy sự đau khổ mất mạng, không thấy trên dao, dưới nước sôi lửa bỏng, không thấy mất mạng như chỉ mành treo chuông. Chỉ trong chốc lác, thì than ôi, còn chi là sự sống. Cả một bầy cá mà chỉ có một con vượt ra khỏi, không phải là khôn sao?
Ai là người khôn, thấy được thân này là vô thường, là khổ, là vô ngã, thấy thân này là bất tịnh, uế nhiễm, hôi thúi bệnh tật, khổ đau, thấy những người thân quyến thuộc là nhân quả, là những vay nợ với nhau. Người ấy hiểu rằng không có chi là thường còn, vĩnh viễn, các pháp trong thế gian này không phải là của mình nữa, mà là do duyên hợp, là đau khổ, là trói buộc.
Người tu theo đạo Phật mà không thấy ba trường hợp quyết định số phận tu hành của mình thì dù có tu đến đâu cũng chẳng ra gì, chỉ là hình thức tu sĩ mà thôi.
Bài "Vượt thoát Cuộc Sống Thế gian" là bài pháp dạy về "dứt bỏ". Muốn vượt thoát cuộc sống thế gian để trở thành người tu sĩ chân chánh, để trở thành bậc thánh nhân, bậc chân nhân, bậc giải thoát thì phải gan dạ đoạn dứt, dứt bỏ, từ giả, xa lìa, viễn ly tất cả các pháp thế gian:
1/. Xa lìa, từ bỏ, không trang điểm làm cho thân thểđẹp sang.
2/. Xa lìa, từ bỏ của cải, tài sản vật chất thế gian.
3/. Xa lìa, đoạn dứt tình cảm cha mẹ, vợ con, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc...
Muốn dứt bỏđược ba trường hợp n ầy, quý vị phải trạch pháp, dùng pháp hướng như lý tác ý hàng ngày, phải đặt niệm trước mặt quán xét, suy tư:
Thân nầy là bất tịnh hôi thúi, có gì sang đẹp mà trang điểm. Hãy từ bỏ, viễn ly, không làm đẹp nữa.
Của cải, tài sản, vàng bạc, châu báu là những thứ làm ta đau khổ nhiều nhất, tai họa cũng từ đó mà sanh ra. Ta hãy xa lìa, tránh xa, khước từ, viễn ly như xa lìa loài rắn độc.
Cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thân bằng, quyến thuộc, bạn bè đều do duyên nhân quả, nợ vay, vay nợ với nhau, chớ đâu có gì mà phải thương nhớ, phải ghét giận, phải khổ đau, phải mong ngóng. Ta hãy xả bỏ, đoạn dứt hết. (I/ 48-56)
Trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên, Đức Phật đã dạy người mới vào tu , phải tu tập đoạn dứt duyên "sanh". Mười hai nhân duyên nối liền nhau như mắt xích sắt, duyên nầy có thì duyên có, duyên nầy diệt thì duyên kia diệt. Kinh nầy bắt đầu từ duyên Vô Minh.
1. Vì vô minh, không thấu rõ các pháp thế gian, lầm chấp chúng là thật có nên mới hành động chạy theo tâm ham muốn, sanh ra các pháp. Kinh dạy "Vô minh sanh hành" là như vậy.
2. Hành động theo lòng ham muốn dục lạc, chạy theo ái dục sanh ra thức, nên kinh dạy "Hành sanh ra thức".
3. Thức kết hợp noãn châu và tinh trùng sanh ra danh sắc, nện kinh gọi là "Thức sanh danh sắc".
4. Danh sắc là thân và tâm của con người, lần lần phát triển đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; nên kinh gọi "Danh sắc sanh lục nhập".
5. Lục nhập giao tiếp với lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên kinh dạy "Lục nhập sanh ra xúc".
6. Xúc tạo ra sự va chạm êm ấm, ngọt bùi, khả hỷ, khả lạc, nên kinh dạy "Xúc sang ra thọ".
7. Thọ sanh ra cảm giác thích thú, cảm mến, giận hờn, nên kinh dạy "Thọ sanh ra ái".
8. Ái là yêu mến nên cố giữ lại, bảo thủ không muốn xa lìa; nên kinh dạy "Ái sanh ra thủ".
9. Thủ là giữ lại, không để cho mấy mát, nên kinh dạy "Thủ sanh ra hữu".
10. Hữu là có, có vật nầy, vật kia, có thân tứđại, thân ngũ uẩn, nên kinh dạy "Hữu sanh ra sanh".
11. Sanh phải nói đủ là sanh y. Sanh là của cải, tài sản vật chất, sự nghiệp, cha mẹ, vợ con, anh em, chị em,thân bằng quyến thuộc, bạn bè. Do đó, khi tài sản, của cải bị mất thì sanh ra buồn rầu, bệnh, khổ, và chết. Cha mẹ, vợ con chết cũng sanh ra buồn rầu, đau khổ, nên kinh dạy "SANH sanh ra ưu bi, sầu khổ, bệnh chết".
12. Ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết là duyên cuối cùng của mười hai duyên nầy, và thế giới khổđau hợp thành.
Sau khi quán xét mười hai nhân duyên, (cái nầy có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia diệt), và đã hiểu mười hai duyên này hợp lại thành thế giới đau khổ. Vậy nếu mười hai nhân duyên này rã tan thì thế giới hết khổ (hoại diệt). Muốn tránh khổ thì phải làm rã tan duyên nào trước?
Kinh điển Phát Triển và Thiền Đông Độ nhắm vào vô minh phá trước. Minh là Trí Tuệ. Muốn triển khai "Minh" Trí Tuệ, các nhà Đại Thừa và Thiền Đông Độ dùng pháp hành ức chế niệm thiện, niệm ác (Chẳng niệm thiện, niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền). Do những pháp hành để triển khai trí tuệ như vậy, không ngờ đường tu tập ấy lại khai mở tưởng tuệ. Khi tưởng tuệđược khai mở thì lý luận các nhà Đại Thừa siêu việt, không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã.
Do lý luận siêu việt, nó lại phá hoại Phật giáo chính gốc (Vô khổ, tập, diệt, đạo). Vì vậy Phật giáo chính gốc, không lý luận, tranh chấp, hơn thua, không có lý luận siêu việt. Chỉ dạy thẳng đời người là khổ, nguyên nhân sanh ra đau khổ, trạng thái tâm hết khổđau, và tám cách thức tu tập để diệt khổ. Những pháp hành nầy cụ thể để mọi người ai cũng tu được, cũng thực hiện được sự giải thoát, hết khổ.
Vì thế nên kinh điển Nguyên Thuỷ nhắm vào duyên "sanh" đểđoạn dứt ưu bi, sầu khổ, bệnh chết, nên kinh thường dạy: "Sanh đã tận, phạm hạnh mới xong".
Nếu một người tu tập quyết tìm đường giải thoát ra khỏi cuộc sống trần lao này thì phải buông xả như Phật và các bậc thánh tăng: không trang điểm, làm đẹp, của cải tài sãn bỏ sạch, cha mẹ, anh em, chị em, vợ con đều bỏ xuống hết như trong bài "Vượt Thoát" đã dạy. Đó là bứt tất cả sợi dây xiềng xích đang trói rất chặt mọi người. Chỉ có những bậc chân tu, thấy được nhân quả nên họđã mạnh dạn dứt bỏ sạch để vượt thoát cảnh đời thế tục.
Sự dứt bỏ, vượt thoát này không phải ai cũng làm được. Nói thì rất dễ, nhưng làm thì rất khó, người tầm thường không thể làm được. Trong kinh dạy rất đơn giản: "Sanh đã tận, phạm hạnh mới xong", hoặc "Duyên sanh dứt thì bệnh, tử, sầu khổ ưu bi dứt". Những danh từ nghe thì dễ dàng, nhưng đứng trước tài sản, của cải, châu báu, ngọc ngà, cùng cha mẹ, anh chị em, vợ con, mà xả bỏ, hay đoạn tận là một việc không phải dễ làm. Nếu không đoạn tận thì không thể thực hiện được con đường giải thoát của đạo Phật. Tại sao vậy?
Tại vì đạo Phật là đạo giải thoát mà không bứt được những sợi dây xiềng xích vô hình đó đang trói buộc thì làm sao gọi là giải thoát được?
Hiện giờ có những người đang tu theo đạo Phật, đời chẳng muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm, hai tay đều nắm hết. Do đó cuộc sống tu hành, Đời chẳng ra Đời, Đạo chẳng ra Đạo. Các thầy và các cư sĩ tu hành như thế chẳng đi đến đâu, chỉ uổng công cho một đời tu, lấy Phật giáo làm danh, làm lợi cho cuộc sống thế tục.
Tu theo Phật giáo thì người tu phải dứt "Sanh Y". Có đoạn sanh y thì tâm mới dứt đau khổ. Tâm có giải thoát đau khổ thì tâm mới thanh tịnh. Tâm có thanh tịnh thì tâm mới nhập thiền định. Tâm nhập thiền định thì tâm mới làm chủđược sự sống chết.
Người không đoạn dứt sanh y không thể nào ly dục, ly ác pháp và nhập tứ thánh định được. Nếu không ly dục, ly ác pháp và nhập tứ thánh định được thì không còn pháp nào tu tập để tu tập làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi.
Đường về xứ Phật không khó, nhưng khó cho những ai không muốn dứt bỏđời sống dục lạc và tình cảm thương mến ở thế gian. Pháp tu hành của đạo Phật không có gì huyền bí, kỳ đặc. Chỉ cần hiểu rõ đời sống thế gian là khổ vô vàn và khổ muôn kiếp. Đời sống xuất thế gian là dứt khổ, hết khổ, chỉ một đời sống nầy nữa mà thôi. (I / 114-118)
Duyên "sanh" có, thì duyên "ưu bi sầu khổ, bệnh, chết" có, nếu duyên sanh không thì duyên ưu bi sầu khổ cũng không. Như vậy, dứt duyên sanh thì ưu bi, sầu khổ bệnh chết sẽ dứt. Ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết đoạn dứt là giải thoát, là niết bàn. Vậy muốn chấm dứt ưu bi sầu khổ, sanh tử luân hồi thì không còn cách nào khác hơn là phải đoạn dứt duyên sanh.
Con đường giải thoát duy nhất của đạo Phật bắt đầu tu tập để trở thành một vị tỳ kheo (tu sĩ) thì phải đoạn lìa sanh y. Nếu không đoạn lìa sanh y thì không thể nào thành tỳ kheo được. Vì vị Tỳ kheo là một tu sĩ đệ tử Phật. Sanh ở đây, quý thầy và các con phải hiểu là "sanh y". "Sanh" có nghĩa là sanh sống, cuộc sống, đời sống; "y" là nương tựa vào để sống, chớ không có nghĩa là "sanh đẻ", đản sanh như có một bài kinh Tương Ương đã giải thích. Do đó các nhà học giả theo nghĩa sanh đẻ, đản sanh mà giải thích "có sanh tức có tử" là không đúng nghĩa của kinh Thập Nhị Nhân Duyên. Đức Phật đã dạy duyên "sanh" chỉ là một duyên kết hợp với một duyên khác để tạo thành, sanh ra một con người, một thế giới đau khổ. Vậy làm cách nào để cho cho mười hai duyên nầy tan rã? Đọc hết giáo lý kinh Nguyên Thủy, ta thấy Đức Phật đã chọn duyên "sanh" làm vị trí cho chặng đường đầu tiên mà một vị tỳ kheo phải tu cho bằng được. Tỳ kheo mà không đoạn dứt được sanh y thì chưa phải là tỳ kheo, nghĩa là không phải là đệ tử xuất gia của đạo Phật.
Nếu chúng ta tu hành mà không đoạn dứt sanh y, còn tình cảm thương ghét, ngồi tại chùa mà tâm hướng về cha mẹ, vợ con, bạn bè, quyến thuộc, của cải, tài sản, v.v... nhớ nhung, thương tiếc thì làm sao mà tu hành giải thoát được? Hiện giờ, người nào cũng có hai tay, một tay thì ôm đời, còn một tay thì ôm đạo. Cũng giống như người đi thuyền, hai chân đứng trên hai chiếc thuyền. Đứng như vậy thì làm sao thuyền đi được? Nếu quý vị muốn tìm đường giải thoát ra khỏi cảnh khổ của cuộc đời thì quý vị phải bỏ tay đời, rồi dùng tay đó cùng với tay kia ôm chặt con đường đạo. Lúc bấy giờ quý vị sẽ thấy giải thoát ngay tức khắc. Đức phật đã dạy: "Dứt bỏ sanh y thì phạm hạnh mới xong". Lời dạy này rõ ràng và cụ thể, xác định dứt khoác "Có dứt bỏ thì có giải thoát".
Nếu chọn đạo làm con đường giải thoát kiếp sống lầm than đau khổ của mình, thì đạo có gian khổ cách nào ta cũng không chùn bước. Thà chết, chết trong đạo, chết trên bồ đoàn, chớ không thể chết dưới bồ đoàn. Chết trong sự giải thoát nhân quả, không thể chết trong tình cảm trói buộc gia đình, cha mẹ, vợ con ,anh, chị em, thân bằng quyến thuộc, v.v... Không thể chết vì của cải tài sản, sự nghiệp mà phải chết vì Đạo, vì sự chấm dứt đau khổ của đời người.
Người tu theo đạo Phật không còn làm ra tiền bạc nữa, cũng không còn cày ruộng, trồng rau để mà ăn. Ngày một bữa, đói xin cơm ăn, không xin tiền, khát xin nước uống, hoặc uống nước suối. Không có thuốc thang đành chịu, không than thân trách phận, không bỏ cuộc tu hành. Y áo rách thì xin y, áo mặc. Không có vẫn vui lòng chấp nhận để xả hết mọi pháp thế gian, để thoát ly những vật chất trói buộc làm khổđau con người muôn đời muôn kiếp.
Đời sống đạo phải hoàn toàn đoạn lìa, không còn mang một chút gì của đời trong tâm hồn thì sự tu hành mới dễ dàng. Đừng ngồi đây mà lo đời, nghĩ nhớ cái này, cái kia, hoặc lo toan thứ này thứ nọ.
Đối với Phật tử, họ chỉ là cái nhân để cho quý thầy tạo cái duyên tu hành cho họ về sau. Đừng khuyến khích cho họ xuất gia tu hành ngay liền bây giờ, hoăc bày vẻ, kêu gọi họ cúng dường, làm từ thiện, xây chùa, xây tháp, hoặc trai tăng, tứ sự vv ? Đó là biến họ trở thành sự trói buộc quý thầy. Cũng vì duyên cúng dường, xây chùa tháp, làm từ thiện, v.v...
mà quý thầy đã ngã quỵ trên đường tu hành của mình. Khi quý thầy làm trụ trì một ngôi chùa nào đó, hầu hết quý thầy ít bị gia đình trói buộc, mà bị Phật tử trói buộc. Họ cúng dường quý thầy cái nầy, để quý thầy thoả mãn nguyện vọng làm Phật sự thì họ cũng đòi hỏi quý thầy ở cái kia, mặc dù cái kia không phải là giáo pháp của Phật, quý thầy cũng phải làm theo cho vừa lòng họ.
Người tu sĩ lìa khỏi cuộc sống thế gian thì lại bị sai khiến trong cuộc sống xuất thế gian. Chúng ta lià bỏđời đểđi tìm mục đích giải thoát, nhưng không khéo lại bị người đời sai khiến làm lệch đạo.
Vượt thoát cuộc sống thế gian là một việc làm khó, vượt thoát đời sống không đúng của đạo Phật lại càng khó hơn. Vì những điều lệch lạc và không đúng của đạo Phật đã ăn sâu vào tâm não của mọi người. Nó đã trở thành những phong tục, tập quán truyền thống sâu sắc trong đời sống dân gian (mượn danh là Phật giáo). Kinh sách Nguyên Thủy của Đức Phật dạy chúng ta tu hành rõ ràng, cụ thể bằng giấy trắng, mực đen ghi chép từ ngàn xưa để lại. Thế mà chúng ta lại không vượt qua những tà thiền, tà giáo của ngoại đạo đang mượn danh Phật giáo.
Bởi vậy muốn giải thoát cảnh lầm than thế tục, vượt thoát những tà thiền, tà giáo của ngoại đạo, ta phải noi gương người, buông xuống, buông xuống hết. Còn những pháp nào mà Ngài đã thực hiện và giải thoát được sanh tử thì chúng ta phải giữ lấy mà hành trì, không nên biếng trễ, để trở thành người giải thoát hoàn toàn. (I/119-125) ** Mục đích và đường lối tu hành của đạo Phật là diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp. Cho nên những pháp tu tập đều nhắm vào việc ngăn ác, diệt ác, sanh khởi thiện, tăng trưởng thiện pháp, khiến cho tâm được an vui và thanh thản hoàn toàn. Đó là tâm thanh tịnh, tâm giải thoát, tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi che mờ, và không còn bị thất kiết sử trói buộc nữa. Đó là tâm bất động của đạo Giải Thoát và là thiền định của Đạo Phật. (VIII/218) ** Nếu con không hiểu như vậy mà cứở trong thất tu tập tỉnh thức trong cảnh tịnh, thì tỉnh thức kia là tỉnh thức tưởng sẽ rơi vào trạng thát tỉnh lặng tưởng, thì không thể nào giải thoát tâm con được, mà còn có thể đưa con đến tà thiền, tà định, như các Thầy Tổ của chúng ta đã bị lạc đường theo giáo pháp Đại Thừa từ xưa đến nay.
Con phải tỉnh thức ngay trong các đối tượng, thường sống chánh niệm để tâm con từ bỏ và viễn ly ác pháp... Giáo pháp Đại Thừa chỉ dạy cách thức tu tập không có pháp hành, thường lý luận suông bằng những danh từ, có khi rất trừu tượng, mơ hồ, viễn vông, thiêú thực tế, phi đạo đức khiến cho người tu tưởng mình đã giải thoát theo ngôn ngữ. Nhưng nào ngờ giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy bỏ công lao tu tập, đến khi gặp việc gì thì tâm nào cũng còn tật nấy. Rốt cuộc chỉ bị lừa đảo bằng miệng lưỡi với những danh từ triết lý suông. (VIII/220) ** Người tu hành theo Đạo Phật phải hiểu lý của đạo cho rõ ràng, biết mục đích của đạo phải cụ thể, không được mơ hồ, trừu tượng; và còn phải biết cách tu tập cho đúng, phải nương theo mọi cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc xảy ra, phải biết giữ gìn tâm, phòng hộ tâm, mà còn phải biết tu đức hạnh, tuỳ thuận, nhẫn nhục, bằng lòng trước các đối tượng, hoàn cảnh và mọi sự việc để phòng giữ, xả tâm, diệt tâm, viễn ly và từ khước các ác pháp, v.v...
(VIII/221) ** Tu là buông xả sựưa thích, ham muốn trước cảnh, trước pháp.... Chúng ta phải xa lià ác pháp và lòng ham muốn. Nhờ đó tâm được tịnh và giải thoát ngay liền. Đó chính là thiền định chân chính của Đạo Phật. Còn không tu hành đúng như vậy là tu tập tà thiền ngoại đạo. (VIII/222)