(Ngày 14.3.2006)
ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN NHÂN QUẢ
Trong Tu viện này các hệ phái đều có thể đến học. Ở đây mọi hệ phái được xem bình đẳng, không trọng hệ phái này hay hệ phái khác, chỉ mong sao giúp cho những tu sĩ hoàn toàn theo Phật Giáo tu đạt được sự làm chủ 4 chỗ sanh già bệnh chết mà thôi. Mục đích của tu viện là vậy.
Ở đây chúng ta tu tập nhằm mục đích cố gắng dựng lại chánh pháp của Phật; dựng lại nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người của đạo Phật để giúp cho mọi người trên hành tinh này sống được hạnh phúc, chứ không riêng gì dân tộc Việt Nam chúng ta. Đó là mục đích của tu viện.
Cho nên chúng ta không phân biệt hệ phái nào của Phật giáo, cũng như không phân biệt tôn giáo nào, dù Thiên chúa hay Cao Đài, hay một hệ tôn giáo nào. Trong lớp học chúng ta có một linh mục và một người Cao Đài đến học.
Nhưng họ theo chúng ta không nổi vì họ bị hôn trầm thùy miên quá nhiều.
Bên Cao Đài cũng có tri kiến về Phật giáo rất sâu sắc, như chú Tần có tri kiến về tâm từ bi hỉ xả rất sâu sắc. Nếu đứng trên đạo Phật, người được tri kiến như vậy mà quyết tâm tu tập thì cũng được giải thoát, không khó. Tất cả mọi người dù có tôn giáo hay không mà vào đây học đều đem lại lợi ích cho mọi người, chứ không phân biệt tôn giáo nào. Như trong bảng thống kê, chúng ta thấy đầy đủ các hệ phái Phật giáo đều có mặt trong lớp học. Thầy mong rằng đây là nơi chúng ta phối hợp đoàn kết thật sự trên phương pháp tu giải thoát để nói lên tiếng nói của Phật giáo là đem lại sự giải thoát thật sự chứ không phải thành lập riêng rẽ để có ý kình chống, đối kháng hệ thống này hay hệ thống khác. Nhưng có cái sai thì nói sai để cùng nhau sửa, chứ không phải để bằng cách này khác chống đối nhau, dựng riêng cho mình có hệ phái khác.
Thầy không muốn điều đó mà chỉ mong sao có nền đạo đức cho con người, dựng được nền đạo đức mà thôi, chứ không đứng trong góc độ tôn giáo này hay tôn giáo nọ. Thầy cũng không muốn ngay cả cái tên Phật giáo nữa.
Tại sao vậy? Chúng ta biết ơn đức Phật nhưng chúng ta không nên chia rẽ con người trên hành tinh này ra nhiều tôn giáo. Chúng ta không làm điều đó vì nó không đúng tinh thần đạo đức nhân bản nhân quả của loài người, bởi vì càng có nhiều tôn giáo, có nhiều hệ phái khác nhau thì nạn chia rẽ càng trầm trọng.
Chúng ta chỉ mong đem lại nền đạo đức chung cho loài người. Nền đạo đức đó có con người đề xuất ra cách đây 2550, đó là đức Phật Thích ca Mâu ni. Người đời sau tôn xưng ngài là đức Phật và thành lập giáo lí đạo đức của ngài thành giáo lí tôn giáo Phật giáo. Thật sự trong thời đức Phật ngài chỉ tự xưng mình là một Bà la môn đúng, khác với Bà la môn sai mà thôi. Đúng là đúng trên đạo đức, sai là thiếu đạo đức. Đó là mục đích của đạo Phật mà chúng ta thấy trong kinh Pháp cú, đức Phật đã nói rất nhiều về vấn đề này. Không tự xưng mình là Phật, nhưng người đời sau gán cho đức Phật bằng 10 danh hiệu. Thầy mong rằng ý rất tuyệt vời này của đức Phật được người đời biến bốn chơn lí của đức Phật thành đạo đức của loài người. Chơn lí của loài người thì trả lại cho loài người. Chơn lí này có sẳn đó chứ đức Phật không tạo ra hay chế biến thêm, mà đây là đức Phật thấy được, hiểu được con người là phải có đạo đức đó.
Đạo đức đó có sẵn nơi con người chứ không có gì mới mẻ cả. Và hôm nay chúng ta cũng mong muốn nền đạo đức đó được duy trì, được phát triển cho con người để đem lại hạnh phúc chung trong xã hội trên hành tinh này.
Và Thầy mong rằng khi Thầy đã thị tịch ở bất cứ nơi đâu, hoặc trong rừng, trong núi trong hang hay không biết ở đâu, nếu các con nhớ Thầy thì phải đem pháp tu học của mình, đạo đức của mình đạt được dạy lại cho người khác. Đó là không phụ lòng Thầy. Còn nếu khi Thầy đã ra đi rồi, các con thấy đời khổ quá mà không hướng dẫn họ, các con bỏ cuộc đầu hàng sự khó khăn thì các con không xứng đáng, các con phụ lòng Thầy đó. Thầy chịu cực khổ dựng lại đường tu học của Phật giáo để sống lại đạo đức của Phật giáo mà các con lại bỏ thì rất uổng. Dù gian khổ bao nhiêu mà nền đạo đức đó được chấn chỉnh lại cho con người trên hành tinh này có đường lối tu tập thì Thầy cũng vui lòng. Nhưng nếu duyên không đủ, Thầy phải ra đi thì các con phải tiếp tục chấn chỉnh lại con đường này của Phật giáo, làm sáng tỏ lại nền đạo đức nhân bản nhân quả sống không làm khổ mình khổ người, thì mới là xứng đáng theo Thầy, làm đệ tử của Thầy, của Phật. Đạo Phật là chơn lí của loài người. Hãy làm sống lại đường lối của đạo Phật, đừng nên để đạo Phật mất đi.
Đạo Phật mất là sự thiệt thòi lớn cho loài người, chúng ta không có quyền bỏ nó. Cho nên khi tu tập được, Thầy thấy rằng là con người, chúng ta không có quyền bỏ giáo lí này, chơn pháp này, nó đem lại lợi ích thiết thực.
Thầy mong rằng các con nhớ kĩ lời Thầy hôm nay và hôm nay Thầy trao cho các con những điều cần thiết cho sự tu tập của các con. Sau giờ phút này dù ở bất cứ chỗ nào các con cũng tu được hết. Khi các con tu thành công được là các con nối tiếp ngọn đuốc làm sáng tỏ lại đạo đức của Phật giáo. Đừng nghĩ rằng tôi là người này, tôi là người kia. Đừng nghĩ vậy mà chỉ nghĩ rằng tôi là con người, mà con người thì phải sống có đạo đức. Là con người có học 8 chánh đạo thì chúng ta phải sống cho xứng đáng với 8 chánh đạo, với đức Phật là người cha đã thương các con đã để lại cách thức tu tập, để lại đường lối để các con của mình sống được an ổn, được yên vui, được làm chủ 4 sự đau khổ của kiếp người. Có làm được vậy thì chúng ta mới không phụ lòng đức Phật, người đã bỏ hết cuộc đời của mình, bỏ hết dục lạc thế gian đem cả thân mạng của mình để đi tìm chơn lí của loài người.
Phật đã tìm được và để lại cho chúng ta những cái thiết thực như qua bằng chứng bản thân Thầy, Thầy thấy Thầy đã làm được giống như Phật và được giải thoát giống như Phật. Thầy rất tiếc nếu một mai các con để chơn lí mất đi là các con có lỗi với con người, với các thế hệ hậu sinh của chúng ta.
Nếu các con không làm mất chơn lí thì các con đã xứng đáng không phụ lòng đức Phật, cũng như cuộc đời của Thầy.
Thầy quyết định dựng lại nền đạo đức chơn lí của loài người mà sức khoẻ của Thầy đã suy yếu đành phải ra đi trước khi hoàn thành sứ mạng này.
Nhưng Thầy cũng mãn nguyện là mình đã đem hết sức lực của mình ra làm để dựng lại nền đạo đức, chơn lí của đạo Phật, không để mất. Đó là Thầy đã hết bổn phận.
Các con cũng vậy, hãy nỗ lực làm cho tận cùng thì mới không phụ lòng tin của Thầy và Thầy nghĩ rằng mỗi người nối tiếp nhau để cùng nhau dựng lại thì nền đạo đức này không thể mất. Hôm nay các con đã hiểu rõ rồi thì hãy cố gắng trên bước đường tu tập.
QUAN HỆ THẦY – TRÒ
Từ chỗ Thầy gần gũi các đệ tử của mình mới biết họ tu như thế nào để đào tạo họ trở thành những người tu chứng. Nếu không gần gũi làm sao biết họ tu sai; không gần gũi thì làm sao lắng nghe họ tu tập cách thức này cách thức kia. Muốn đào tạo họ thì phải gần gũi.
Thầy nhớ trong thời đức Phật, khi ông Mục Kiền Liên xin đức Phật vào một khu rừng vắng để tu tập, đức Phật chấp nhận và đồng thời lúc nào cũng có sự hiện diện của đức Phật, dù là buổi tối, buổi khuya, giờ nào cũng có đức Phật.
Khi ông Mục Kiền Liên tu sai thì ngay đó đức Phật bảo hãy im lặng như Thánh, không cho ông khởi niệm về điều kiện ông đang tu.
Các con đã đọc bài kinh Khu Rừng Sừng Bò chưa? Ba vị tôn giả ở tu, đức Phật tới thăm, ba vị trình bày cho đức Phật nghe sự tu tập của họ. Họ sống độc cư mà tuỳ thuận theo ý của người bạn, không phải do ý của mình. Các con thấy thấm thía không. Ở trong kinh chỉ nói đức Phật tới thăm một lần chứ đâu biết thật sự đức Phật đã tới nhiều lần. Nếu các con có 3 Minh mới biết lòng thương của đức Phật đối với đệ tử của mình. Khi ba vị tôn giả này vào Khu Rừng Sừng Bò để tu tập, các con mới thấy thương đức Phật vô cùng.
Người không để học trò của mình tu tập một mình vì sợ lạc đường, các con nên nhớ điều đó. Cho nên khi chúng ta đọc trong kinh đó chúng ta đừng nghĩ đức Phật đến thăm chỉ một lần mà nhiều lần. Hướng dẫn cho ba vị này chứng đạo không phải là chuyện dễ. Cả ba vị này đều chứng đạt 3 Minh trọn vẹn. Nếu đức Phật không chăm sóc đệ tử của mình thì đến Khu Rừng Sừng Bò để làm gì.
Ở đây Thầy muốn nhắc lại để các con thấy khi gặp một bài kinh như vậy, nếu chưa thấu rõ mà muốn thấu rõ thì phải sử dụng trí 3 Minh trở về xem đức Phật đã đến Khu Rừng Sừng Bò bao nhiêu lần. Nhiều lần lắm. Còn ông Mục Kiền Liên vào khu rừng yên tịnh một mình, lúc nào ông có những niệm gì không hợp thì đức Phật đã ra lịnh im lặng như thánh ngay liền, không để cho ông bị lầm trên niệm đó.
Thầy nghĩ đức Phật là một người cha thương yêu các đệ tử của mình hơn là con. Khi nhận một người tu theo mình rồi thì có trách nhiệm rất lớn cho nên luôn luôn chăm sóc. Khi có đệ tử ngồi tu thì đức Phật đâu có ở trong thất của ngài để nghỉ ngơi. Thương đệ tử của mình, ngài chăm sóc rất kĩ. Ngài đâu dùng thần thông mà luôn luôn trực tiếp, nhưng người ta cứ nghĩ ngài dùng.
Ngài cũng có thể dùng thần thông, nhưng lúc nào ngài cũng trực tiếp đến giúp đỡ chứ không phải quan sát để xem coi rồi chỉ đến khi đệ tử gặp khó khăn mà thôi.
Đó là cách thức của đức Phật ngày xưa, còn Thầy hôm nay dù quá nhiều công việc nhưng Thầy cũng không bỏ các con. Các con tu không nghe lời Thầy, tu theo ý riêng. Cho nên từ những cái tu sai đó mà lần lượt có những bài Thầy giảng để các con tu đúng. Nếu các con tu không sai thì chắc không có những bài này, vì tu sai nên mới có. Nhờ Thầy đọc lại, nói lại những cái sai của các con, bên nữ cũng như bên nam, có thầy TQ. thu băng và đánh vi tính ra chứ Thầy không có nhiều thì giờ để viết ra. Khi Từ Quang đến gặp Thầy thưa thỉnh vấn đề tu tập sai đúng như thế nào và đồng thời Thầy thấy sự nhiếp tâm của các con trên 4 Niệm Xứ sai. Thầy đã dạy rất cụ thể, rõ ràng và trước đó Thầy đã chuẩn bị cho các con từng chút trước khi Thầy dạy tu 4 Niệm Xứ. Thế mà các con không hiểu, tưởng là pháp này tu như vậy, pháp kia tu như vậy chứ không ngờ đó là kinh nghiệm của Thầy đem ra dạy cho các con để các con tu thực tế và cụ thể hơn.
Hôm nay nếu các con nỗ lực tu tập đúng và Thầy duyệt lại thấy các con tu đúng thì Thầy yên bụng lắm. Những người này sẽ chứng đạt, nghĩa là trên thân quán thân các con quán được thì các con sẽ là người chứng đạt, không làm sao không chứng, bởi pháp của Phật như thật.
Còn các con quán trật thì các con không chứng đạo đâu.
Các con nào xả tâm thì cần biết cách để xả. Có 4 pháp dùng để xả tâm tức là Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở. Các con vững vàng trong 4 pháp đó thì các con tu tâm xả.
Ngồi chơi mà xả tâm. Nhưng phải rành 4 pháp đó. Nếu chưa rành, chưa thuần thục thì phải tập cho rành, cho thuần thục mới đi vào tâm xả. Còn chưa rành mà đi vào tâm xả thì khi gặp chướng pháp các con không biết phải dùng pháp nào để xả. Xả không đúng cách thì các con sẽ bị lạc trong tưởng càng nguy hiểm. Đó là những điều cần thiết mà Thầy muốn nói.
PHÁP 4 NIỆM XỨ
Những điều thầy làm hôm nay mong quý thầy nghiên cứ kĩ vì chúng ta có sự hiểu biết lệch lạc từ khi tu tập. Buộc lòng có những bài cô đọng lại như vầy được phát ra cho quý thầy hôm nay. Pháp Thân Hành Niệm là pháp độc nhất của đạo Phật. Nó là hòn đảo, là phao để chúng ta vượt qua những khổ đau của kiếp người. Cho nên đức Phật, trước khi thị tịch, đã di chúc lại cho chúng ta hãy lấy giáo pháp Phật để làm hòn đảo nương tựa vững chắc để tu hành. Giáo pháp của đức Phật tức là 4 Niệm Xứ. Nếu hôm nay chúng ta tu tập 4 Niệm Xứ sai thì chẳng bao giờ chúng ta chứng đạt được. Đã bao lần bên Nam tông và Đại thừa cũng nói đến 4 Niệm Xứ nhưng vì không biết cách tu cho nên đã tu trật, tu sai làm cho người đời sau không giải thoát được. Chỉ bằng trên ngôn từ, lời nói suông mà không kết quả thực tế thực sự. Hôm nay Thầy dựng lại pháp 4 Niệm Xứ không phải nó là của Thầy mà của Phật. Dựng lại đúng cách tu, đúng nghĩa của nó. Do đó những tập sách này nói rằng chúng ta sẽ tập đúng.
Trước khi trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu, ưu phiền trên thân thọ tâm pháp của chúng ta thì chúng ta phải hiểu quán như thế nào đúng, quán như thế nào sai. Đức Phật biết rằng quán rất khó cho nên trong Định Niệm Hơi Thở, Ngài đã dạy: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân, tôi biết tôi thở ra”, nghĩa là nương vào hơi thở mà cảm nhận thân của mình gọi là trên thân quán thân.
Pháp của Phật là một chân rít (BBT: móc xích), từ pháp này nối với pháp kia rất chặt chẽ, không rời ra, cho nên trong kinh đức Phật thường nói pháp này là thực phẩm của pháp kia. Thí dụ 4 Niệm Xứ là thực phẩm của 7 Giác Chi mà 7 Giác Chi là thực phẩm của 3 Minh. Nếu hằng ngày chúng ta tu tập cũng như hằng ngày chúng ta ăn để sống. Chúng ta tu tập pháp của Phật đúng thì chúng ta đạt được, chúng ta có được pháp kia. Thí dụ như bây giờ chúng ta tu 4 Niệm Xứ đạt được. Mà 4 Niệm Xứ là thực phẩm của 7 Giác Chi thì chúng ta sẽ có 7 Giác Chi. 7 Giác Chi hiện tiền rõ ràng cụ thể thì sẽ có 3 Minh vì 7 Giác Chi là thực phẩm của 3 Minh. Đó là những thực phẩm, những món ăn. Như vậy thì chúng ta làm sao sai được. Cũng như chúng ta thực hiện Định Niệm Hơi Thở. Định Niệm Hơi Thở có chân rít với 4 Niệm Xứ cho nên “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, thì đó là trên thân quán thân, là thực phẩm của 4 Niệm Xứ, bởi vì chúng ta nương vào hơi thở mà quán được toàn thân của mình. Mà hễ quán thân được thì nhiếp phục được tham ưu.
Còn đằng này các con quán 4 Niệm Xứ nhiếp phục tham ưu mà lại có niệm khởi, có mõi mệt, có hôn trầm thùy miên... như vậy là các con quán 4 Niệm Xứ không đúng. Hễ quán 4 Niệm Xứ đúng thì nó nhiếp phục, mà không đúng thì làm sao nó nhiếp phục được. Không đúng trong nhiều cách.
Các con quán 4 Niệm Xứ cảm nhận được thân mà tại sao lại còn niệm khởi? Tức là các con tu quá sức. Sức của các con chỉ có hạn, chỉ quán được một thời gian 5 phút hay 10 phút mà các con lại quán 1 giờ thì chắc chắn các con sẽ bị mỏi mệt bởi vì các con quán chứ các con đâu phải ngồi chơi. Khi bị mỏi mệt, các con không đủ sức quán vì vậy mà có niệm khác đánh vô. Các con tu có mục đích rèn luyện tâm cho nó thành thục, nhu nhuyến từ đó các con tiến dần lên nhờ vậy sức quán các con càng ngày càng quen. Chẳng khác gì sức của các con vác được 20 kg, rồi mỗi ngày các con tập vác thêm 3 kg hay 5 kg thành 23 kg hay 25 kg. Một thời gian sau thì các con sẽ vác được 30, 40 hay 50 kg theo sự cố gắng luyện tập của các con. Đó là các con có luyện tập chuyên cần hằng ngày. Chứ hiện giờ các con chỉ đủ sức vác 20 kg mà các con cố vác vật 30, 40 kg thì phải có sự cố thôi. Các con thấy những người phu khuân vác nhờ sự luyện tập trong công việc mà họ có thể khuân vác những kiện nặng 50, 70 hay cả 100 kg dễ dàng, chứ bề ngoài trông họ chẳng khác gì chúng ta.
Tập quán trên thân cũng vậy, mới tập quán thì các con chỉ nên quán vừa sức mà thôi, và Thầy còn chuẩn bị cho các con có cách thức rất cụ thể đó là nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở chỉ một phút thôi. Nếu nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở một phút được hẳn hòi hoàn toàn, thì trong một phút đó ở trên chòi canh nhìn lại thân của các con thì quán quá dễ dàng chứ gì.
Nhưng vì các con tu tập không căn bản, coi thường căn bản một phút, do đó trong một phút nhiếp tâm và an trú tâm không trọn vẹn.
Các con có thói quen vừa thấy không niệm thì cứ tăng thời gian tu lên, rồi đến khi có niệm mới dừng lại. Đó là cách tu tập sai, không đúng. Cho nên cần phải tu tập đúng, đừng tu tập sai vì nó rất tai hại cho con đường tu. Khi đã bị xẩy ra những hiện tượng tưởng là cả một vấn đề khó tu vì mỗi khi các con nhiếp tâm và an trú tâm thì hiện tượng tưởng đó xẩy ra, các con không còn tu gì được nữa, chỉ còn cách phải xả cái tưởng đó thôi. Nếu các con tu đúng, ngay từ đầu không để xẩy ra tưởng thì sự tu tập được tiến bộ nhanh hơn.
Thầy mong rằng các con đọc kĩ tập sách mỏng này thì dù các con ở đâu tu cũng chứng đạt chứ không cần phải ở đây đâu. Chỉ có điều kiện là phải tạo được môi trường yên tịnh thanh vắng để sống độc cư cho được, còn nơi động, nơi ồn náo quá thì các con không thể nhiếp tâm được. Cho nên dù bất cứ ở đâu, khi các con nắm được pháp rồi thì tìm nơi yên lặng thanh vắng mà tu thì Thầy tin rằng các con không thể bị sai, sẽ tới nơi cuối cùng, vẫn chứng đạt được chơn lí, vẫn làm chủ được 4 sự đau khổ, khi các con đọc bài thứ nhất “Quán thân trên thân theo 4 Niệm Xứ”.
Nhưng ở đây có người quán thân trên thân mà quán không được, cứ bị ức chế hay bị sanh tưởng, thì người đó tu tâm xả hơn là tu 4 Niệm Xứ. Tu xả tâm vô lượng thì người đó ngồi chơi chứ không tu một pháp nào cả, mọi chướng ngại, mọi tâm niệm xẩy ra trên thân tâm thì dùng pháp xả để xả. Khi đó dùng pháp Như Lí Tác Ý mà xả, dùng tri kiến giải thoát mà xả, dùng Định Niệm Hơi Thở mà xả; tất cả những bịnh khổ nơi thân các con đều có pháp xả hết. Khi xả xong thì tâm các con sẽ thanh thản an lạc vô sự. Tâm thanh thản an lạc vô sự thì tâm ở đâu? Rõ ràng nó phải ở trên thân, biết thân nó chứ không thể nào ở ngoài được, tức là nó thấy thân nó một cách cụ thể rõ ràng.
Các con lưu ý vấn đề trên thân quán thân có nhiều sai lạc nghĩa là khi quán sát, xem xét thân từ đầu tới chân mà quán không được; lúc thì chỉ thấy cái đầu, lúc thì chỉ thầy có hơi thở, lúc thì chỉ thấy có cái ngực, lúc thì chỉ thấy có cái bụng... Những người quán mà bị như vậy là quán không trọn vẹn thì không thể tu quán thân trên thân. Đức Phật đã gợi ý cho chúng ta qua Định Niệm Hơi Thở rất rõ ràng “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân, tôi biết tôi thở ra”, là quán toàn diện cơ thể chúng ta chứ không phải chỉ một phần nào của cơ thể; nhưng không khéo rồi các con thấy từng phần, thấy có cái đầu, rồi có cái bụng rồi có hai bắp chân, rồi hai bàn chân, rồi 10 ngón chân; rồi lần lượt từ dưới đi lên cũng cái kiểu đó thì đó là Chuyển Pháp Luân rồi. Quán mà chạy từng chút như vậy là tu sai, không đúng pháp. Bởi vì quán thân trên thân như một ngọn đèn pha soi vào một vật thì vật đó phải được các con thấy rõ ràng từ đầu chí chân cùng một lúc chứ không thể chạy từng chút từng chút như thế được. Các con phải tập đúng chứ đừng lẫn lộn qua chuyển pháp luân của ngoại đạo là không đúng.
Trong vấn đề tu tập, Thầy nhắc lại để các con thấy sự tu tập của pháp trên thân quán thân của 4 Niệm Xứ rất rõ ràng và rất dễ dàng khi các con bước đi, bởi khi bước đi thì thân các con rung động. Khi một chân dở lên thì chân kia đứng lại chịu trọng lượng cơ thể, coi như nó gồng lên chịu đựng, còn một chân các con dở lên đưa tới thì nó sẽ động và thân hình các con khi đưa tới thì nó phải nghiêng, khi nó đứng trụ lại thì nó phải nghiêng qua bên đứng trụ. Cho nên nó nghiêng qua, rồi đưa chân tới thì nó nghiêng tới nên thân các con dao động. Vì vậy người tu 4 Niệm Xứ quán được thân của mình, thấy rất rõ ràng toàn diện trên sự đi các con.
Đi nhanh các con cũng cảm nhận được, đi chậm các con cũng cảm nhận được. Nhưng đi chậm có lợi hơn vì khi các con thay đổi qua oai nghi ngồi thì không mất sự quan sát trên thân. Đi nhanh thì buộc lòng các con phải đứng lại rồi mới ngồi. Do đó các con bị trên ba hành động đi, đứng rồi ngồi phải liên tục làm các con quan sát thân khó khăn hơn.
Còn đi chậm, muốn đổi sang oai nghi ngồi, khi các con vừa để chân này xuống cho bằng ngang với chân kia xong thì hai gối chân co lại và từ từ ngồi xuống giống như trong pháp Thân hành niệm các con đã tu tập; chỉ khác nhau ở chỗ pháp thân hành niệm phải có tác ý đi kèm mỗi hành động, trong khi ở trên pháp 4 Niệm Xứ thì không có tác ý mà chỉ có sự chú ý cái thân. Trong khi chuyển từ thế đứng sang thế ngồi thì toàn thân rung động chuyển động như thế nào, rồi cách thức tréo chân như thế nào, các con lúc nào cũng quan sát toàn thân chứ không phải chỉ quan sát hành động thôi.
Ở đây các con tập luyện trên thân quán thân chứ chưa phải tu 4 Niệm Xứ đâu. Tập quán trong khi đi cho đến chừng nào thuần thục các con mới tập qua một oai nghi khác và cũng luyện quán cho được thuần thục. Và lần lượt tập luyện đủ cả 4 oai nghi cho được thuần thục hết, lúc đó các con cứ mỗi 5 phút tu tập một oai nghi, liên tục thay đổi đủ hết cả 4 oai nghi.
Khi các con tu tập trên thân quán thân liên tục suốt đêm ngày thì sẽ nhiếp phục được toàn bộ ưu phiền trên thân thọ tâm các con. Suốt một đêm mà không có ưu phiền chướng ngại gì trên thân thì các con đã chứng đạo rồi.
Vì thế đức Phật xác định pháp môn 4 Niệm Xứ tu 7 ngày, 7 tháng, 7 năm.
Nếu thật sự các con tu tập đúng thì thời gian không tới 7 năm cũng không phải 7 tháng mà chỉ trong vòng 7 ngày bởi vì nỗ lực tu đúng quán đúng. Thời gian các con tu tập trên thân quán thân là thời gian tập đúng.
Khi tập đúng rồi các con kết hợp 4 oai nghi này lại thì nội trong 7 ngày các con sẽ chứng được đạo quả, tức là chứng được trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc vô sự, không bị chướng ngại nào tác động vào thân thọ tâm của các con được. Đó là tu để đạt được sự giải thoát hoàn toàn, nhưng các con phải tập kĩ và tập cho đúng trên thân quán thân.
Hôm nay có tập sách mỏng này ra đời nói rõ cho các con biết quán như thế nào đúng, như thế nào sai. Thầy mong các con đọc kĩ. Nếu các con thấy quán thân không được thì nên trở về tu xả tâm vô lượng chứ đừng thấy 4 Niệm Xứ hay rồi cứ cố gắng tập để bị rơi vào ức chế thì không đúng, không được ích lợi. Thấy mình quán không được, không thể tu 4 Niệm Xứ được, cứ vào quán là bị cái này hay bị cái kia thì hãy nhanh chóng trở về pháp xả đừng để bị phí thời giờ.
Trở về tâm xả thì ngồi chơi. Không có chỗ nương tựa mà chỉ ngồi chơi.
Ngồi chơi mà luôn luôn phải tỉnh thức, luôn luôn quan sát có niệm nào, có cảm thọ gì xẩy ra trên thân tâm của các con thì mau mau dùng các pháp khác mà diệt trừ, không được để nó kéo dài tác động trên thân thọ tâm của các con.
Nếu bị hôn trầm thùy miên thì đứng dậy đi kinh hành. Thầy mong các con đọc kĩ lưỡng tập sách này để tu tập cho trọn vẹn.
NGƯỜI TU XONG NÊN LÀM
Mục đích lớp học là phải có thời gian theo học. Thí dụ các con về đây học 3 tháng, hoặc 6 tháng, hay một năm. Các con được hướng dẫn học đúng pháp, tu đúng cách thức; sau khi học được rồi thì các con rời khỏi nơi này về nơi trú xứ của các con mà nỗ lực tu tập. Rồi có một số người khác tiếp tục vào đây học tu nữa. Lớp học cũng như trường học. Khoá học lớp này xong, lên lớp trên thì những người khác tiếp tục vào học lớp này. Đến khi có lớp cuối cùng mãn khoá tốt nghiệp ra trường thì tất cả các lớp từ lớp đầu đến lớp chót đều có người đang theo học.
Chương trình lớp 8 Chánh đạo của chúng ta cũng như vậy. Không phải các con vô đây học rồi ở hoài đây, chứng đạo rồi cũng ở đây. Không phải như từ xưa tới giờ ở các nơi khác. Không phải vậy. Ở Tu Viện chúng ta, khi các con tốt nghiệp chứng đạo xong sẽ được giới thiệu về những cơ sở để các con đứng lớp đem nền đạo đức của Phật giáo phổ biến rộng rãi ra hơn để giúp cho mọi người hiểu cách sống đạo đức không làm khổ mình khổ người. Không phải các con tu chứng đạo xong cũng ở trong Tu Viện, không đi chỗ khác, ở miết một chỗ này. Không phải vậy. Các con phải ra đi để làm lợi ích cho mọi người.
Tốt nghiệp xong thì các con là những giáo sư rồi, những thầy giáo rồi thì các con phải đi ra dạy cho mọi người. Dù là một vị thầy hơn 80 tuổi nếu thấy mình còn sống trong một ngày, hay một tháng, một năm đều nên đem lợi ích cho con người. Khi mọi người đang cần mình thì mình chưa ra đi, mặc dù sức khoẻ mình rất kém nhưng mình không bỏ loài người đang đau khổ. Mình phải đến dự vào lớp làm một người thầy dạy đạo đức không làm khổ mình khổ người. Một ông thầy giáo dạy cho người khác làm chủ 4 sự đau khổ sanh già bịnh chết. Ông thầy giáo 80 lưng còm mà vẫn đứng lớp dạy cho nhiều người khác, trong đó có những thanh niên và người già. Trong lớp học đạo đức học làm chủ sự sống chết thì có nhiều hạng tuổi. Thầy mong các con khi tu xong sẽ làm những người thầy giáo để dạy cho người khác, cho đến ngày các con ra đi. Chừng đó các con thấy các con đã làm được những việc có lợi ích cho con người. Hiện giờ thì các con lo làm lợi ích cho chính mình nhưng khi tu xong thì các con làm lợi ích cho người khác. Đó là điều Thầy mong muốn. Không phải khi tu xong rồi nói: “Đời khổ quá khó dạy quá, thôi tu xong rồi thời tôi đi cho khoẻ, ai sao mặc họ, tu được hay không được đâu can hệ gì chứ đứng ra dạy rồi bị nói này nói kia làm cho tôi khổ nữa”. Đừng làm vậy. Các con lấy nên lấy sự cực nhọc của các con nhìn sự đau khổ của người mà không nỡ bỏ.
Thầy mong quý thầy nghĩ đến mục đích của đường tu là đem lại lợi ích lớn như vậy cho đời để càng cố gắng tu. Có như vậy thì vừa lợi ích cho mình mà cũng vừa lợi ích cho người. Như trong lớp này hiện có hai bác lớn tuổi, nếu khi tu xong hai bác đừng nghĩ rằng mình già rồi, thôi tu xong thì chết cho rồi.
Đừng nghĩ vậy. Đừng nghĩ tôi già rồi, không nên cực mệt với những học viên như thế này. Mà khi tu xong, hai bác hãy vui vẻ làm công việc lợi ích lớn đó trong những năm tháng hai bác còn sống.
Thầy mong các con nỗ lực tu vì pháp 4 Niệm Xứ các con nắm vững được thì con đường tu của các con rất nhanh, không còn lâu đâu.
Nhưng nếu tu 4 Niệm Xứ không được thì các con trở về tu tâm xả. Như Mật Hạnh chỉ biết tu tâm xả thôi, mọi cái gì khởi niệm ham muốn đều xả hết.
Hôm nay Thầy rất mong những người còn trẻ, sức trẻ như Phước Tồn, Thiện Thảo nghe lời Thầy dạy, nỗ lực tu đúng, thì sẽ đạt được kết quả. Thầy đang chú ý đến tuổi trẻ. Các con còn thời gian dài, sức khoẻ nhiều mà các con tu tập xong, các con sẽ đứng lớp dạy, đem lại lợi ích lớn cho đời.
Thầy nghĩ phải đào tạo những người tuổi trẻ và đồng thời Thầy nhìn thấy cần cho tương lai. Cho nên khi quý Thầy đến đây còn tuổi trẻ đều được Thầy chú ý hướng dẫn rất nhiều, mong sẽ đào tạo được quý thầy, mặc dù đào tạo cho được quý thầy rất vất vả và khó khăn, nhưng đó là mục đích Thầy quyết tâm.
Từ lâu nay Thầy chú ý đến Mật Hạnh rất nhiều tuy rằng gặp khó khăn.
Những lúc nó ra đời Thầy vẫn theo dõi từng chút. Thầy mong dù ra như vậy Mật Hạnh không đến nổi bị nhiễm ô đời, không bị đời lôi cuốn. Hôm nay Mật Hạnh trở lại tu. Thầy mong rằng lần trở lại con đường tu này thì Mật Hạnh sẽ làm xong nhiệm vụ của một người tu tập.
Khi Thầy cố gắng để đào tạo Mật Hạnh, Thầy đã có nhiều khó khăn.
Người nào mà Thầy chú ý để đào tạo họ trở thành những bậc Alahan sau này để giúp đời thì Thầy đều gặp khó khăn cả nhưng Thầy luôn luôn đứng trên đầu sóng chứ không phải dưới sóng. Lúc nào giờ nào Thầy cũng không được yên ổn, nghĩa là lúc nào Thầy cũng đang bị dồi dập sóng gió. Như các con thấy Thầy ngồi đây bình an nhưng thật sự sóng gió cũng dồi dập chứ không phải an bình, các con không hiểu được đâu. Nếu Thầy không đứng trên đầu sóng thì các con không yên mà ngồi tu đâu. Nhờ Thầy biết cách ngồi trên đầu sóng, vượt qua tất cả các đợt sóng mà hôm nay các con được yên ổn để lớp học được kéo dài cho tới giờ phút các con học 4 Niệm Xứ.
Bây giờ các con một số tu tập 4 Niệm Xứ, và một số các con tu tập xả tâm, tức là tới giai đoạn cần thực hành thì càng khó khăn hơn. Hiện giờ tâm các con còn yếu lắm, nếu có gì động thì tâm các con sẽ bị dao động, mất kết quả. Thầy mong rằng lớp này khi có điều kiện yên ổn thì các con cùng nhau sống ở đây mà tu tập. Nếu không yên ổn thì dù bất cứ ở đâu các con cũng ôm pháp 4 Niệm Xứ là hòn đảo, là cái phao cho các con đi tới nơi cứu cánh giải thoát cuối cùng. Vậy các con nhớ lời Thầy: một là các con ôm pháp 4 Niệm Xứ, hai là các con ôm pháp xả tâm vô lượng. Các con nên nhớ kĩ: xả tâm vô lượng nghĩa là vô lượng tâm xả, cái gì cũng xả hết thì mới đạt được cứu cánh.
Thầy dạy lớp Chánh Kiến cho các con thấy được hai lộ trình mà các con phải đi. Lộ trình thứ nhất là lộ trình một số các con mới bắt đầu đi đó là 4 Niệm Xứ trên thân quán thân; lộ trình thứ hai là Xả Tâm Vô Lượng. Tâm các con có nhiều lắm, quá nhiều, cho nên gọi là vô lượng mà lúc nào các con cũng phải xả thì nó mới đem lại cứu cánh cho những gì sau này.
TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI
Nhiều khi các con nói “Quán thân trên thân để nhiếp phục mọi tham ưu, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”, rồi “Quán thọ trên thọ để nhiếp phục mọi tham ưu, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”, rồi “Quán tâm trên tâm để nhiếp phục mọi tham ưu, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”. Các con đọc như thần chú mất rồi. Không phải thế, mà như thế này, Thầy sẽ chỉ cho các con cách thức quán thân, chứ như thế này là các con đọc bài kinh mất, không đúng đâu.
Trước tiên muốn quán thân trên thân thì các con phải tập quán thân trên thân bằng pháp đi kinh hành trước, bởi thân hành trong khi đi thô còn hơi thở thuộc thân hành nội, vi tế hơn nhiều cho nên nhiều khi các con ngồi hít thở các con chỉ cảm nhận có phần trên thân, từ bụng trở lên chứ phần chân không cảm thấy rung động. Nếu cảm nhận được ở chân thì chỉ là cái tưởng thôi. Tưởng là trật. Thực sự là vậy, vì hai chân các con ngồi kẹp như vậy thì thấy nó rung động như thế nào? Nếu thấy rung thì tưởng thôi chứ chạy đâu khỏi. Cái thô thì các con nhận được chứ cái vi tế thì bây giờ sức tỉnh của các con không có, làm sao các con nhận ra được sự rung động của hơi thở dưới chân các con. Các con có nhận thấy điều đó không? Sức tỉnh của các con chưa có thì làm sao nhận ra được cái vi tế của rung động.
Sức tỉnh của các con hiện giờ là tỉnh còn trong cái mê. Nếu tỉnh không mê thì sao các con còn ham ngủ, còn hôn trầm thùy miên. Khi các con tỉnh thật sự thì không làm sao còn buồn ngủ. Lúc đó ngồi như thế này, hơi thở hít vô có sự rung động để nó nuôi hai chân, chứ nếu hơi thở không rung động thì làm sao nó nuôi hai chân các con được. Hơi thở là để nuôi dưỡng cơ thể bằng không khí, cho nên khi hít vô nó phải có sự rung động thấm nhuần tới dưới chân các con. Nhưng vì bây giờ các con chưa nghe nó được cho nên các con phải tập quán từ cái thô trên thân quán thân trong khi đi trước.
Ai cũng nói giỏi hết chứ thật ra chỉ là giỏi tưởng thôi. Trong cái tưởng, các con tưởng cả hơi thở luồn(g) trong thân các con nữa. Hơi thở thì tới phổi là hết mức chứ làm sao đi luồn(g) trong thân được, làm như có lỗ trong đó vậy! Chỉ có tưởng mới làm được những việc như vậy. Còn không thì các con cũng giống như trẻ con nhảy kiến chậu, nhảy từ đầu xuống ngực, xuống bụng rồi đi tới chân, nhảy từng bậc như vậy rồi nói quán. Đó là nhảy thôi chứ quán gì. Cho nên các con phải biết cách làm sao để các con quán cho được trọn vẹn.
Khi mới bắt đầu tu tập, Thầy sẽ đi kinh hành không chậm cũng không nhanh để các con thấy sự rung động của thân cách thức như thế nào. Các con nên lưu ý khi mới vào thì hai tay nên bắt chéo trước ngực hoặc chấp tay sau lưng mà đi cho thân của mình nghiêng tới nghiêng qua nghiêng lại mà nhận ra được dễ dàng. Thí dụ như khi dở chân trái lên thì thấy độ rung của thân, dở chân lên thì thân phải nghiêng, Thầy đang đứng hai chân giờ Thầy dở lên thì có phải thân nghiêng qua phía này không? Khi đưa chân tới, chân động thì thân theo chân đẩy tới. Do đó toàn diện thân theo thân hành mà rung động, phải không?
Bây giờ Thầy đi từng bước cho các con quan sát, có phải khi Thầy đi thì toàn bộ thân Thầy từ đầu tới chân đều rung động theo bước chân, chân này rồi chân kia, chân bước tới thì thân Thầy nghiêng qua bên đó đồng thời toàn thân đẩy tới, khi chân kia bước tới thì thân Thầy lại nghiêng qua bên chân kia rồi cũng toàn thân đưa tới, thành ra thân Thầy nghiêng qua nghiêng lại như vậy.
Thầy thấy thân Thầy rung động toàn diện. Bước đi là động tác làm thân Thầy rung động nhưng Thầy đâu có chú ý bước đi mà chú ý cái thân của Thầy. Thầy nhìn cái thân của Thầy nghiêng qua nghiêng lại thôi.
Đó là quán thân trên thân “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi đi kinh hành”. Thân của mình từ chân lên đầu lắc qua lắc lại, rung động toàn thân.
Đó là đi bước chân hơi chậm hơn bình thường, chứ các con đi chậm hơn nữa sẽ cảm nhận được vi tế hơn, hay hơn nữa.
Trong lớp có một người đi chậm, Thầy đã quan sát thấy đi rất đúng, vậy Thầy nhờ thầy đó đi cho các con quan sát cách thức đi độ chậm quan sát thân hành. Trong khi đi chậm như thế các con phải chú ý toàn bộ từ đầu xuống chân chứ đừng chỉ chú ý vào động tác của hai nhân như trong Thân Hành Niệm. Có thể nói về độ chậm thì hai cách đi gần giống nhau nhưng trong Thân Hành Niệm thì các con tác ý ra lệnh từng động tác của chân, còn ở đây các con không ra lệnh gì hết mà tâm ý theo dõi sát chuyển động rung động toàn cơ thể từ đầu xuống chân trong khi đi.
Đó là cách thức đi chậm. Từ đi chậm, các con thay đổi qua oai nghi ngồi dễ dàng lắm. Vậy các con cố gắng tập luyện trên thân quán thân cho đúng cách. Đó là pháp môn rất quan trọng. Nếu các con trên thân quán thân được rồi và khi đi rất chậm thì không có một niệm nào xen vô được trong khi nghe rõ ràng sự rung động toàn thân. Đi như bình thường là để các con nhận ra được sự rung động của thân. Mới đầu các con tu như vậy, sau đó các con thay đổi đi chậm cho sự quan sát vi tế hơn, nhẹ hàng hơn cho đến khi rất là vi tế rồi các con mới bắt đầu quán thân ngồi hít thở.
Từ chỗ tập luyện quán thân trên thân được rồi thì con đường tu không còn khó khăn nữa. Bảo đảm các con sẽ chứng đạo vì đó là pháp độc nhất của đức Phật. Pháp 4 Niệm Xứ là pháp mà đức Phật trước khi nhập diệt đã di chúc lại chúng ta. Giới luật và pháp nhưng không phải toàn bộ giáo pháp đâu mà chính chỉ là pháp 4 Niệm Xứ. Đó là lời cuối cùng của đức Phật.
Khi chúng ta nghe 37 phẩm trợ đạo, chúng ta không biết pháp nào là chánh để tu tập. Nhưng muốn tu tập 4 Niệm Xứ thì 4 Chánh Cần phải tu tập xong rồi mới tu 4 Niệm Xứ được. Khi chúng ta sống giữ tròn giới luật và tu tập pháp 4 Niệm Xứ được viên mãn thì chúng ta sẽ đạt được cứu cánh của con đường tu. Cho nên các con cố gắng tập. Có tập quán mới quán được chứ không phải mới vào là quán được đâu. Nhiều khi các con quán sai là bị ức chế. Các con gom tập trung về một điểm nào trên thân của các con là ức chế.
Đầu tiên muốn quán thân được thì chỉ có pháp đi kinh hành mới dễ quán thôi, chứ đầu tiên mà vào ngồi quán thân theo hơi thở thì rất khó. Sau khi các con quán được sự rung động nhỏ nhặt vi tế của thân rồi, chừng đó các con ngồi quán thân rung động nhẹ nhàng theo hơi thở mới được dễ dàng. Các con đã có sức tỉnh thức trên pháp đi kinh hành. Tập từ cái thô được rồi thì qua cái vi tế trong hơi thở, quán mới đúng, chứ không khéo nói quán mà thực sự lại ức chế thì các con đã tu sai.
Lúc đầu các con có thể đi trong 5, 10 phút. Sau khi 5, 10 phút đã quán được rồi thì tăng lên 20 phút. 20 phút được rồi thì tăng lên 30 phút. 30 phút được rồi thì dừng lại, tập qua oai nghi đứng. Nhưng các con phải nhớ tập quán trong khi đi theo cách thức rất chậm như vừa thấy mà quán được thân không dứt đoạn trong thời gian 30 phút đó cho được thì chuyển qua tập trong oai nghi đứng được.
Tập quán thân trong oai nghi đứng cũng theo thời gian và điều kiện quán thân không dứt đoạn như trong khi đi chậm được 30 phút rồi, không tăng thêm lên mà chuyển qua tập trong oai nghi ngồi. Tập quán thân trong khi ngồi cũng theo các điều kiện như thế cho đến khi đạt được quán không dứt đoạn trong 30 phút thì chuyển qua tập quán thân trong oai nghi nằm cũng đạt được 30 phút không gián đoạn quán thì lúc đó các con tu kết hợp các oai nghi lại. Mỗi oai nghi các con tu trong 5 phút xong chuyển qua oai nghi khác. Thí dụ các con đi 5 phút, rồi đứng 5 phút, rồi ngồi 5 phút, rồi nằm 5 phút.
Cứ tập kết hợp như vậy và tập suốt ngày đêm. Lúc đã kết hợp thì không còn tính giờ tập nữa. Mỗi thời 3 giờ thì tu suốt 3 giờ liên tục thay đổi từ oai nghi này sang oai nghi khác, đủ cả 4 oai nghi. Khi thấy sức của các con tăng lên được thì tăng lên. Nghĩa là bây giờ thời tu của các con từ 7 giờ đến 10 giờ, từ 2 giờ đến 5 giờ thì các con tu y thời gian đó, không có khoảng nghỉ xả trong suốt 3 giờ được rồi thì tăng giờ thời khoá lên, thay vì 10 giờ thì bây giờ 11 giờ các con mới nghỉ, và 2 giờ mới bắt đầu thì bây giờ bắt đầu vào tập lúc 1 giờ.
Sức tỉnh của các con lúc này cao nên không còn buồn ngủ nhiều đâu, cho đến khi nào các con thấy liên tục thay đổi 4 oai nghi suốt ngày đêm được thì các con đánh rốc suốt ngày đêm không còn ngủ nghỉ nữa và cuối cùng thì các con chứng đạo.
Phải thấy liên tục thay đổi 4 oai nghi được mới nên tăng giờ chứ chưa được thì chưa nên. Nghĩa là bây giờ các con tu từ 7 giờ đến 10 giờ nghỉ đi khất thực. 2 giờ chiều vào tu cho đến 5 giờ. 7 giờ tối vào tu cho đến 10 giờ đi ngủ.
2 giờ dậy tu đến 5 giờ sáng nghỉ. Tu như vậy từ nửa tháng đến một tháng được thuần thục rồi thì tăng lên 11 giờ nghỉ ngủ rồi 1 giờ dậy tu. Tu như vậy cho đến khi thấy thuần thục được rồi, ít nhất cũng phải vài tháng chứ mới thấy hơi thuần thì chưa được đâu. Phải cho thật thuần thục thực sự, phải có đủ thời gian cho nó ổn định sự thuần thục, thì lúc đó các con đi suốt đêm ngày liên tục.
Lúc bấy giờ chỉ còn chờ chứng đạo thôi, chứ không còn gì làm chướng ngại các con được nữa. Hễ nhiếp phục vô thì tất cả mọi tham ưu đều bị nhiếp phục hết, không còn gì có thể hiện ra, bởi vì con tu có 5 phút là đổi oai nghi rồi.
Nếu thấy khả năng các con được 10 phút quán trên thân oai nghi này rồi 10 phút oai nghi khác, thì cứ 10 phút như vậy mà thay phiên. Thầy thấy khó vì như 10 phút trong khi nằm chưa biết chừng các con thiếp vào giấc ngủ mà không hay, cho nên Thầy lấy 5 phút thôi. 5 phút thì thời gian ngắn, các con vừa nằm một lúc là đủ 5 phút các con đứng dậy đi rồi, đâu có kịp lặn vào giấc ngủ đâu, cho nên tu dễ dàng.
Nhưng nếu sức tỉnh các con nhiều thì 10 phút càng tốt chứ có hại gì đâu.
Nếu sức tỉnh của các con cao hơn nữa thì cho dài tới 15 phút mỗi oai nghi: 15 phút đi, 15 phút đứng, 15 phút ngồi, 15 phút nằm thì càng tốt. Tùy theo sức tỉnh thức của các con mà chọn thời gian tu mỗi oai nghi cho thích hợp, nếu các con thấy dễ bị hôn trầm thì lấy thời gian tối thiểu 5 phút. Đấy, sự tu tập như vậy thì bảo đảm sự chứng đạt chơn lí không còn xa nữa.
4 Niệm Xứ là phương pháp nhiếp phục, đâu còn chướng ngại nữa và suốt thời gian đó tâm quay vô không phóng dật. Quay vô mới quan sát chứ quay ra làm sao quan sát được. Nó quay vô quan sát thì nó phải ở trên thân, mà ở trên thân thì nó không phóng dật. Nó không phóng dật trong 12 tiếng đồng hồ thì không phải chứng đạo sao các con? Đâu có dễ để tâm quay vô kéo dài 12 tiếng đồng hồ. Chính nhờ phương pháp đó buộc lòng nó phải quay trở vô ở trên thân. Nó quay vô kéo dài như vậy thì các con có đủ 7 năng lực Giác Chi, đủ 4 Thần Túc, các con chứng đạo rồi. Lúc bấy giờ các con thấy các con có đủ thần lực làm chủ sự sanh tử thì còn tu nữa để làm gì. Hằng ngày sống trong bất động tâm, không ai làm cho con buồn phiền được, không ai làm cho con nhớ thương đau khổ nữa, các con xả hết rồi thì con đường tu của các con tới đây là xong, nhiệm vụ Thầy dẫn dắt các con tới đó là hết. Bây giờ nhiệm vụ của các con là tiếp tục thay thế Thầy để dạy lại cho người, cho đời.
Sau khi các con tu chứng rồi thì lấy kinh nghiệm của các con dạy lại cho người khác thì làm sao sai được, cũng như Thầy đã theo dõi quan sát cách thức đi chậm của TQ. Thầy thấy đúng, vì vậy hôm nay Thầy cho TQ trình bày đi chậm để các con nương vào đó tu tập cho đúng. Thầy đang lo cho Trung Tâm An Dưỡng ra đời để có cơ sở cho những đệ tử của Thầy sau khi tu xong các con ra đó đem những kinh nghiệm tu hành của các con truyền đạt lại cho người đi sau. Cho nên các con vì lợi ích cho nhiều người, các con phải ráng tu.
Khi con ngồi tu mà cảm thấy một cảm giác rần rần toàn người thì đó là cảm giác tưởng. Còn cảm nhận thân hành trong khi hít thở thì giống như khi có một ngọn đèn soi vào một vật thì thấy vật đó rõ ràng hay con nhìn ngón tay Thầy thì con thấy ngay liền toàn bộ ngón tay từ đầu ngón đến chân ngón tay.
Con nhìn thân con bằng mắt và cảm nhận nữa thì thấy toàn thân con từ đầu tới chân đó là quán thân. Dùng mắt thì thấy cái thân thôi chứ không có cảm giác gì khác hết. Khi các con không dùng mắt để thấy thì cảm nhận sự rung động của cái thân. Thấy bằng mắt thì không thấy thân rung động gì hết nhưng khi cảm nhận thì phải nương vào hơi thở mà hơi thở thì có sự rung động của thân nhưng không phải cảm thấy cảm giác rần rần. Thầy muốn nói sao cho con hiểu cũng như con muốn diễn tả sao cho Thầy hiểu thì đó là cái khó của cảm nhận cái thân. Bây giờ con đừng nghĩ đến cảm giác rần rần nữa thì con sẽ thấy toàn thân con. Tại vì con có cái tưởng rần rần rồi. Nếu con có cảm nhận như vậy chăng nữa thì con cũng tác ý không có cảm nhận đó, chỉ quán thân thôi thì lần lần sẽ bình an trên sự quán, tức tâm không phóng dật, chỉ nhìn thân nó thôi. Tất cả những hiện tượng khác lạ đều là bị tưởng, tức là trật. Cho nên trong sự quán thân con phải tập quán, nếu có sự gì khác lạ ngoài cái quán thấy thân thì xả bỏ nó đi. Các con thấy được từ trên đầu tới dưới chân với một cách bình thường thôi, làm sao thấy được toàn thân của các con thì đó là thấy đúng, còn tất cả những hiện tượng gì khác thì xả bỏ. Nếu con tập luyện một thời gian mà những hiện tượng khác lạ đó không hết thì con phải đổi qua tu tập tâm xả thôi, chứ không thì mỗi khi nhiếp tâm hiện tượng tưởng đó xuất hiện, con sẽ không tu 4 Niệm Xứ được.
-Trường hợp con đã tu tập theo pháp xuất hồn đến mức con thấy con có hai phần, một phần đứng bên ngoài nhìn trở lại phần kia đến độ con có thể thấy được những cái thẹo trên mặt con, con cục cựa thân thì con cũng thấy sự cục cựa này đúng như người thứ hai nhìn vào con. Thưa Thầy đó có đúng là quán thân của 4 Niệm Xứ hay là pháp xuất hồn?
- Đó là pháp xuất hồn trở lại với con. Đó là trạng thái của tưởng. Nếu con đã bị trạng thái của tưởng do con tập luyện trước đây thì phải xả bỏ hết.
Bây giờ con chỉ nên tu tập tâm xả thôi mới được. Nếu con quyết tu 4 Niệm Xứ thì con chỉ có thể đi kinh hành thôi may ra trừ được trạng thái tưởng của con.
Đây là pháp của Phật lấy ý thức mà tu, không dùng cái nào khác hết.
Khi tu 4 Niệm Xứ, nếu tu không đúng thì thứ nhất các con bị ức chế, thứ hai là bị tưởng.
- Kính thưa Thầy, trường hợp con thì bị ảo ảnh những mặt người xuất hiện ngày càng nhiều. Vậy xả bỏ đi bằng cách nào.
Trong thời gian 3 ngày đầu con tu tập tốt nghĩa là trong suốt thời gian 30 phút con ngồi không có niệm khởi, sau đó thì hôn trầm nặng nề suốt ngày trong vài ngày thì hết nhưng hiện tượng ảo ảnh lại hiện ra trong những ngày kế. Cứ như vậy trở đi trở lại. Bạch Thầy, như vậy làm sao?
Câu tác ý trước đây trong pháp tu (Định Niệm Hơi Thở) 4 Niệm Xứ là “Cảm giác toàn thân, tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”.
Như vậy trong một câu tác ý có hai lần quan sát về thân: lúc hít vô thì quan sát từ chân lên đầu, lúc thở ra thì quan sát từ đầu xuống chân. Chỉ thấy cảm giác đi lướt thôi, nhưng có khác biệt nhau trong tư thế ngồi. Con chọn tư thế ngồi nào thấy cảm giác rõ để ngồi tu.
-Còn trong khi đi, câu tác ý (Định Niệm Hơi Thở) là “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi đang đi”, vậy sự quan sát thân xẩy ra lúc nào, chỉ có một lần quan sát thân từ chân lên đầu hoặc chỉ một lần quan sát từ đầu xuống chân, có phải vậy không.
Trong khi đi khất thực con có tu tập quan sát thì thấy mỗi bước chân, trọng lượng cơ thể khi thì dồn qua chân này, khi thì dồn qua chân kia cho nên thân con cứ đẩy đưa qua lại. Như vậy có đúng cách quán thân không?
Cảm nhận quán thân trong khi con đi khất thực là đúng. Cảm nhận dưới chân cảm nhận lên, theo hai chân bước mà cảm nhận sự rung động, chứ không như hơi thở ra hơi thở vô. Cảm nhận quán thân trong khi kinh hành thì con cảm nhận trong bước chân mà không cảm nhận lên xuống như trong hơi thở. Mỗi lần bước thì con cảm nhận thân con có rung động.
Còn với hơi thở thì mỗi lần hít vô con cảm nhận sự rung động của thân từ đầu xuống chân theo luồng hơi đi vô, khi thở ra thì cảm nhận thân rung động theo hơi thở ra từ chân lên đầu. Nhưng nhiều khi các con có cảm nhận ngược lại, hít vô thì cảm nhận rung động từ chân lên đầu, thở ra thì sự rung động chạy từ đầu xuống chân. Sự rung động chạy như thế nào cũng được, miễn sao các con cảm nhận được là đúng.
Còn những hình dáng con thấy thì tác ý sẽ hết. Tất cả những ảo ảnh và hôn trầm đều do sự tu quá sức con. Thầy bảo các con tu chỉ 5 phút thôi rồi nghỉ, xong tu lại 5 phút khác, làm sao cho trong khoảng thời gian đó được nhuần nhuyễn. Vì con tu nhiều quá cho nên bị hôn trầm thùy miên đánh gục lên gục xuống trong mấy ngày rồi mới tỉnh lại. Đó là con sử dụng quá sức tu tập, thấy quán thân được rồi nên cứ tăng dần lên quá nhiều làm hao năng lực trong người con do vậy mà con bị hôn trầm thùy miên tới tấn công.
Pháp 4 Niệm Xứ trên thân quán thân hết giờ tu tập, xả ra thì các con dùng 4 Niệm Xứ trên 4 Chánh Cần để các con ngăn ác diệt ác tức là trong khi các con xả ra có ác pháp gì thì các con dùng nó mà ngăn mà diệt.
Khi các con tập 4 Niệm Xứ thì các con phải tập quán cho chính xác cho nó không niệm, không có gì xen vô trong khoảng thời gian các con tu 4 Niệm Xứ. Nếu trong khi tu 4 Niệm Xứ mà con để có niệm thì coi như con chỉ tu 4 Chánh Cần chứ không còn là 4 Niệm Xứ. Cho nên 4 Niệm Xứ tự bản thân nó khi các con quán trên thân quán thân thì nó nhiếp phục tất cả mọi ưu phiền, không còn hôn trầm thùy miên nữa, cho nên các con tu tập ít để các con nhiếp phục cho được trong khoảng thời gian này. Chứ các con tu nhiều quá thì nó hiện ra hôn trầm thùy miên, lúc bấy giờ con không còn đủ sức ở trên cái quán của thân đâu và quán cũng không đủ sức để hàng phục ưu phiền. Do đó, các con tu tập cho đúng với sức của các con, đừng tu quá dài thì không được, phải tu ít lại. Nghĩa là các con tu để cho nhuần nhuyễn.
Thời gian 5 tháng, 3 tháng các con chỉ tu trong khoảng thời gian 5 phút đó rồi xả nghỉ 10 phút, 20 phút cũng được, nhưng đìều cần là trong thời gian tu đó nhiếp cho kĩ, cảm nhận cho kĩ, không một niệm vọng nào xen vô.
Như lúc đầu Thầy dạy cho các con nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở một phút là để cho các con có căn bản, và bây giờ các con dùng nó cho nhiếp tâm trong 5 phút hay 10 phút quán thân trên hơi thở, nghĩa là không bao giờ để một sự việc xẩy ra trên thân tâm các con được. Như vậy mới là tập quán thân trên thân.
Lúc này các con chỉ mới tập quán thân thì đừng kéo dài đến 30 phút như vậy là không phải tập. Các con tập luyện dưỡng sức cho các con mà các con tập như vậy là quá hơn sức của các con. Các con tập luyện mà niệm cứ xẹt ra xẹt vô thì không phải, không đúng 4 Niệm Xứ. Bởi vì pháp tu 4 Niệm Xứ trên thân quán thân là cái pháp khi các con tự quán được thân của các con là nó nhiếp phục được tham ưu hết rồi. Cho nên cần biết sức của các con nhiếp được trên thân quán thân là bao lâu. Các con căn cứ vào sự tu tập mà biết. Thí dụ 5 phút thì không niệm nhưng qua 10 phút hay 7 phút thì có, thì các con chỉ tu 5 phút thôi, xả nghỉ 5, 10 phút rồi tu lại. Tu cho bảo đảm, tu cho chắc chắn nghĩa là sức của các con quán kĩ lưỡng trong 5 phút là tu trong 5 phút. Đến chừng chỉ tu trong 5 phút thôi mà các con được định tỉnh, tâm các con ở trên thân các con thì lúc bấy giờ kéo dài ra, lúc đó sẽ không bao giờ có một niệm nào xen vô vì nó đã định tỉnh rồi. Tâm bám vào thân như cây mọc rễ trong đất rồi, gió bão không lật gốc được.
Còn khi có niệm thì gió bão hất các con té nhào hết, tức là sức định tỉnh các con chưa có, chỉ mới tỉnh giác thôi. Ngay cả tỉnh giác các con vẫn còn hơ hỏng nữa, nghĩa là các con tăng lên là các con hơ hỏng sức tỉnh giác của các con. Chừng nào tâm thật sự bám chặt trên thân nghĩa là khi nó quay vô mới được.
Mới đầu các con tu tập cảm nhận vậy, nhưng sau khi tỉnh thức rồi thì nó khác với lúc đầu, nó tỉnh một cách rất vi tế. Trong thân các con cái nhỏ nhiệm cách gì nó cũng thấy được hết, nó tỉnh được đến mức độ đó. Cho nên bây giờ các con tập cho được tỉnh giác trong 5 phút đã, rồi các con lấy sự tỉnh giác đó tập cho nó định tỉnh được cũng trong 5 phút đã. Sau khi định tỉnh được rồi thì các con muốn tăng bao nhiêu thì tăng.
Thầy đã bảo các con tập tu 4 Niệm Xứ, chưa phải lúc các con ôm 4 Niệm Xứ để chứng đạo. Các con hiểu sai. Đâu phải lúc này các con ôm 4 Niệm Xứ để chứng đạo đâu. Tập quán thân trên thân thôi. Tập quán còn chưa được mà đòi nhiếp phục tâm thì làm sao được. Có quán được thì mới tỉnh giác, mới tỉnh thức trên thân của nó. Nó có quay vô mới tỉnh thức được. Tỉnh thức được mới định tỉnh được trên thân của nó. Mà nó định tỉnh được 5 phút thì mới kéo dài 12 tiếng đồng hồ, mới nhu nhuyến dễ sử dụng, mới thành tựu. Các con hiểu chứ? Chỉ cần nó định tỉnh 5 phút trên thân của nó thôi là đã thấy đường đi của các con rõ ràng rồi, chiến thắng được rồi. Có định tỉnh trên thân được thì mới kéo dài được dễ dàng, còn nó chưa định tỉnh, tỉnh thức cũng chưa được nữa, mà kéo dài ra, thì sức các con chưa đủ lực như vậy. Đừng cố lướt tới cho được. Không thể được.
Thầy bảo đây là tu tập 4 Niệm Xứ, phải tập định tỉnh. Chừng nào các con định tỉnh 5 phút được thì báo cho Thầy trạng thái đó như thế nào. Thầy thấy đúng trạng thái đó mới được. Còn các con đang ở trong trạng thái tỉnh giác, mới tỉnh giác thôi thì khoan tăng đã. Hãy tập nữa. Thầy có bổn phận ngồi lắng nghe thôi. Thầy đã biết trạng thái đó rồi nhưng không có diễn tả nó. Chừng khi các con tu tới đó mà nói ra thì Thầy biết đúng sai liền. Lúc đó Thầy mới bảo các con kéo dài ra. Còn khi Thầy bảo chưa được, hãy tập nhiều nữa thì tập thêm nữa. Nghe lời mới bảo đảm. Mặc dù các con chịu khó 3 tháng, 5 tháng, 7 tháng các con tập, mà trong thời gian 7 tháng đó các con định tỉnh được thì chỉ cần thêm trong vòng một đêm là các con làm xong công chuyện. Đức Phật nói 7 tháng chứng đạo chứ đâu lâu dài hơn. Khi các con 6 tháng định tỉnh được rồi thì Thầy bảo “Đây được rồi, đi vô đi!” thì một đêm Dạ Hiền. Nó định tỉnh rồi thì Nhứt dạ hiền được. Còn chưa định tỉnh thì các con còn tu tập. Còn tu tập thì làm sao Nhứt Dạ Hiền được. Các con gấp quá. Mới tu tập chưa tỉnh thức, chưa định tỉnh; mới quán trên thân thấy có rung động chút chút, chưa có chút gì định tỉnh hết mà muốn nhảy, muốn kéo dài thì phải hổng chân thôi. Thí dụ ở đây thầy Chơn Thành hay người nào trình bày mà Thầy nói “Được rồi! Cứ tới” thì tăng lên; còn Thầy nói “Chưa được, hãy lùi trở lại” thì phải nghe lời Thầy. Vừa rồi thầy Chơn Thành trình bày mỗi oai nghi tu 15 phút, Thầy bảo “Không được! Hãy lui lại 10 phút”. Nghe lời Thầy lùi lại 10 thì Thầy bảo đảm. Chỉ có vậy thôi.
Thầy theo dõi các con từng chút như thế. Chỉ các con hay quá, tu mà không cần hỏi Thầy, các con là sư rồi thì thôi. Khi các con chịu khó thì Thầy cũng chịu khó với các con. Nếu không gặp trực tiếp Thầy thì các con viết giấy hỏi Thầy. Nếu Thầy thấy cần thiết gặp trực tiếp thì Thầy kêu lên. Chừng đó Thầy kiểm điểm lại sự tu tập của các con cho thực tế cụ thể giúp các con.
Đừng nghĩ rằng tôi giỏi. Không giỏi đâu. Tới 4 Niệm Xứ này Thầy báo trước các con sẽ rớt xuống lại nhiều. Thầy cho các con lên lớp nhưng Thầy biết các con sẽ rơi rớt trở lại, mà nếu không tu nữa thì chẳng biết đường đâu hết, nghĩa là các con không tu mà tới nói thì Thầy biết ngay chỉ là nói dốc. Tu hay không, các con quán như thế nào nói ra thì Thầy biết liền. Các con nhận nó bằng cách nào. Cho nên các con nói sai là lòi liền. Bởi các con nhận qua sự rung động của thân các con mới đúng, còn các con tưởng mà nói ra thì làm sao Thầy không biết được. Bởi sự tu tập này là cái thực nên không thể dối được.
Các con bị tưởng, Thầy cũng biết; các con bịa ra, Thầy cũng biết; các con bắt chước người khác mà nói như là các con có thì Thầy cũng biết. Không cách nào các con dấu được.
Trước kia Thầy dạy chung chung, không đi vào những chi tiết kĩ lưỡng như thế này. Đó không phải là lớp học mà chỉ là lớp tu cho nên dạy chung chung. Thầy nghĩ rằng ai cũng như các con, nghĩa là nhiếp tâm thì không vọng tưởng rồi sẽ đi tới chỗ xả tâm. Nhưng không ngờ người ta đi tới chỗ tạo thành tưởng. Người ta ức chế tâm quá nhiều. Bây giờ đây là lớp 4 Niệm Xứ không khéo thì các con cũng bị ức chế. Cho nên các con cẩn thận kĩ lưỡng từng phút từng giây thì các con sẽ tránh thoát được.
- Khi tu tập 4 Niệm Xứ tác ý câu “Cảm giác toàn thân, tôi biết tôi hít vô; Cảm giác toàn thân, tôi biết tôi thở ra” con thấy sự rung động từ đầu tới chân lúc đầu thì thô, đến khoảng nửa giờ thì sự rung động vi tế nhỏ lần. Kính bạch Thầy vậy có đúng không?
Con tu tập nên lượng với sức của các con theo thời gian mà tu. Đầu tiên con thấy cái rung động thô, sau đó kéo dài, thì trong khoảng thời gian tu có niệm gì xen vô không. Nếu không niệm thì được, còn nếu có niệm thì lùi thời gian lại. Bởi vì quán 4 Niệm Xứ là phải nhiếp phục tham ưu, không còn có niệm gì xen vô nữa. bây giờ đây các con tu có mục đích là trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu.
Trong câu tác ý có hai pháp nối liền nhau mà bây giờ con nói chung chung con cảm nhận toàn thân con. Con hít vô thấy sự rung động toàn thân thô, lần lượt vi tế nhỏ nhiệm hơn. Nhưng trong khoảng thời gian đó con có còn bị niệm nào xen vô trong tâm con không. Còn niệm thì con phải lui lại bởi vì 4 Niệm Xứ phải nhiếp phục được niệm, nếu không nhiếp phục được niệm thì không phải là 4 Niệm Xứ, nó là 4 Chánh Cần vì còn niệm. Còn 4 Niệm Xứ là phải nhiếp phục không niệm, không còn trạng thái hôn trầm thùy miên chen vô. Nếu còn thì lùi thời gian lại. Rồi từ cảm nhận thô đến cảm nhận vi tế mà hoàn toàn không có niệm khởi thì con lấy mốc thời gian đó mà tu tập. Giờ nào con cũng chủ động trên pháp trên thân quán thân thì sau một thời gian nó mới tỉnh thức hoàn toàn, nó mới nhiếp phục được, rồi mới đi vào định tỉnh. Khi chưa định tỉnh thì chưa tăng, có vậy mới bảo đảm pháp 4 Niệm Xứ đạt được kết quả.
- Khi có niệm trong lúc con tu 4 Niệm Xứ được tâm thanh thản rồi thì con dùng câu tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết thở ra” thì hết niệm. Vậy con có thể dùng như vậy được không, thưa Thầy?
Không được. Con dùng như vậy là ức chế tâm và con đang ở giai đoạn 4 Chánh Cần, ngăn ác diệt ác pháp, chứ không phải ở giai đoạn 4 Niệm Xứ. Khi có niệm con ngăn bằng câu tác ý đó là đúng. Thầy nhắc lại còn niệm là còn tu 4 Chánh Cần. Còn 4 Niệm Xứ, câu pháp của nó là “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu”. Không có một niệm nào xen được vào trong đó thì mới gọi là 4 Niệm Xứ.
Các con lưu ý vấn đề như vậy, 4 Niệm Xứ là phải không có niệm. Cho nên không khéo là các con bị ức chế. Ức chế không niệm, tức là tập trung cao là sai mà không khéo thì các con bị tưởng, cũng trật. Vì vậy pháp 4 Niệm Xứ này được gọi là trên thân quán thân. Mục đích tập quán là phải quán như thế nào cho nó tỉnh thức được thân của nó tức là tâm không phóng dật. Nó không phóng dật thì nó phải ở trên thân, nó quán. Quán thế nào mà còn niệm thì nó còn ở trên 4 Chánh Cần, không phải trên 4 Niệm Xứ. Chỉ không niệm mới là 4 Niệm Xứ. Cái quán đó nhiếp phục tham ưu thì nó đòi hỏi phải tỉnh thức mà sức tỉnh thức này không phải là cố gắng tập trung. Nó rất bình thường cho nên không bị ức chế.
Do vậy các con phải biết được sức tỉnh thức của các con khoảng 5 hay 10 phút quán trên thân của các con. Các con tu trong khoảng 5, 10 phút đó để cho tỉnh thức trọn vẹn. Khi tỉnh thức được trọn vẹn rồi thì nó sẽ định tỉnh. Chỉ trong vòng 5 phút thôi, không cần nhiều, là đã định tỉnh rồi. Mấy con cần nhiều đến 30 phút thì hổng chân các con rồi.
Các con từ lâu đến giờ có nhiếp tâm được như Thầy 30 phút không vọng tưởng chưa? Nếu các con được 30 phút không vọng tưởng thì các con tu như vậy được. Nếu còn vọng tưởng mà tu như vậy thì sức mới tập tu như các con chắc chắn một là các con ức chế mới không vọng, thứ hai với sức tỉnh của các con làm sao các con được 30 phút không vọng. Các con chỉ là người đang quán trên thân chứ chưa có phải tỉnh thức trên đó được. Mới tập tỉnh thức thôi chứ chưa tỉnh thức cho nên nó phải còn niệm. Mới tập tỉnh thức mà các con kéo dài thời gian quán đến 30 phút thì làm sao sự tỉnh thức đó khỏi mất. Khi mất thì phải có niệm vô.
Đó, các con thấy rõ các con tu 4 Niệm Xứ bị sai ngay từ lúc đầu rồi. Bây giờ các con nói các con tu 4 Niệm Xứ mà thực sự là các con tu 4 Chánh Cần, bởi vì trên thân quán thân mà khi có niệm thì các con dùng pháp này pháp nọ để xả, để đẩy lui; đó là ngăn ác diệt ác trên 4 Niệm Xứ chứ gì? Đúng là vậy, dùng pháp để đẩy lui ác pháp là tu 4 Niệm Xứ trên 4 Chánh Cần, không phải tu 4 Niệm Xứ trên 4 Niệm Xứ đâu. Con đang tu 4 Niệm Xứ ở trên 4 Chánh Cần, vì nó còn có niệm xen ra xen vô, mặc dù con dùng hơi thở để quán thân.
Tu 4 Niệm Xứ trên 4 Niệm Xứ thì khác “trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu”; quán thân thì không còn niệm gì trong thân mới gọi là tu 4 Niệm Xứ. Vậy thì các con phải tu như thế nào để tâm các con tỉnh thức được?
Để tâm các con định tỉnh được? – Cách thức các con cần tu tập là tập quán thân để được tỉnh thức, để được định tỉnh. Hai điều đó là hai điều quan trọng.
Còn dùng hơi thở để quán thân, con tác ý: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra” thì con thấy sự rung động của thân con; thở vô con thấy sự rung động, thở ra con thấy sự rung động, thì đó là con tu 4 Niệm Xứ trên 4 Niệm Xứ, để được tâm tỉnh thức trên 4 Niệm Xứ.
Con dùng hơi thở vô ra để làm mất niệm là con ở trên 4 Chánh Cần, vì có niệm con mới dùng câu tác ý đó để làm nó không niệm, để con giữ được trạng thái đó thì đó là 4 Chánh Cần chứ không phải 4 Niệm Xứ trên 4 Niệm Xứ. Tức là có niệm thì ngăn diệt nó bằng phương cách đó, bằng đề mục đó mà thôi. Thay vì con tu tâm xả con dùng tư duy con quán niệm đó, biết nó là kiết sử thì tác ý: “Đây là kiết sử, hãy đi đi, ta không chấp nhận đâu” hay hoặc là “Đây là tham dục, hãy đi đi”, hay là “Đây là sắc dục. Hãy đi đi!” Nó khởi niệm có mang tính chất tham sân si, do đó con tu tập cũng ở trên 4 Niệm Xứ con quán thân con để thấy sự rung động của từng hơi thở nhưng con tu là theo 4 Chánh Cần, ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện. Tức còn ác tác động. Còn 4 Niệm Xứ thì nó tự nhiếp phục được tất cả các niệm đó. Nó cao hơn 4 Chánh Cần. 4 Chánh Cần là phương pháp đầu tiên còn 4 Niệm Xứ là phưong pháp cuối cùng để chứng đạo. Cho nên các con đừng lầm, lầm là không được. Lầm cho nên các con tu 4 Niệm Xứ mà cứ tu theo 4 Chánh Cần hoài.
Khi tu 4 Chánh Cần các con nương các đối tượng mà cảm giác toàn thân các con. Còn người tu tâm xả không nương chỗ đó đâu. Họ không nương vào chỗ cảm giác toàn thân. Không có cái gì xả thì ngồi chơi, họ không tu cái gì hết vì là xả tâm vô lượng. Có chướng ngại thì họ xả. Xả xong, tâm họ trở lại biết hơi thở và biết thân nó, cũng vô 4 Niệm Xứ, chẳng gì khác.
Mỗi pháp môn phải quan sát được pháp tu, chứ không phải cái nào cũng giống nhau. Không giống đâu. Người tu tâm xả không quan sát 4 Niệm Xứ đâu, khi nó yên tịnh thì để tự nhiên cho nó yên tịnh, rồi nó biết có tâm niệm gì đó thì nó sử dụng pháp của nó để ngăn và diệt, nó xả ra. Khi xả xong rồi thì nó quay vô quán trên thân nó. Các con thấy dù không tu 4 Niệm Xứ nhưng nó lại quán trên thân nó chứ không chạy đi đâu, nó tự nhiên lắm. Đó là tu tâm xả.
Còn như con tu hiện giờ là 4 Chánh Cần trên 4 Niệm Xứ, dùng phương pháp hơi thở để quán thân của nó, có niệm thì con dùng câu tác ý để dừng nó thôi, tức là con đang bị ức chế, là con ngăn và diệt nó bằng các phương pháp của Định Niệm Hơi Thở, không cho nó khởi nệm. Cho nên cách tu của con cần sửa lại một chút, không khéo thì con chỉ tu ở trên 4 Chánh Cần thôi. Nếu bây giờ nó khởi niệm thì một là con trở về tâm xả, hai là con trở về 4 Chánh Cần, con sử dụng 4 pháp tu trong 4 Chánh Cần ngăn và diệt. Bây giờ không có pháp thì con phải tu pháp nào, Định Niệm Hơi Thở đề mục thứ mấy hay tu Chánh Niệm Tỉnh Giác đi kinh hành, hay tu Thân Hành Niệm, tu những pháp Thầy đã dạy.
Con ngồi tu hoặc hít thở mà nó có niệm thì con dùng những phương pháp tác ý để diệt hoặc dùng những pháp đẩy lui các cảm thọ. Đó là tu 4 Chánh Cần. Những gì con trình bày vừa rồi cho thấy con tu 4 Chánh Cần, do đó con không ngồi chơi theo cách người tu xả tâm được. Con tu hết giờ này thì ôm pháp khác tu, có nghĩa là con ngồi tu quán thân con hết giờ đó thì con đứng dậy ôm pháp đi kinh hành con quán bước chân con đi chứ không còn ngồi quán cái thân nữa. Đó là tu 4 Chánh Cần.
Còn người tu 4 Niệm Xứ thì luôn luôn lúc nào cũng quán thân hết. Đi cũng quán, ngồi cũng quán, nằm cũng quán, quán hết. Nhưng quán làm sao cho không có niệm chứ có thì phải trở về 4 Chánh Cần.
-Kính thưa Trưởng lão, hơi thở của 4 Niệm Xứ thì tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra” thì lúc đó hơi thở tự động vô ra chứ không bị ý thức ức chế. Còn nếu có ức chế thì không phải là hơi thở của 4 Niệm Xứ?
Đúng vậy, không vận dụng, không điều khiển, để nó tự động thở ra thì các con cảm nhận ra, hít vô thì cảm nhận vô.
Mình không dùng ý thức thì nó sẽ chìm vào trong và sẽ không có niệm.
Mình sẽ không thấy gì nữa?
Khi không thấy gì nữa, xả hết thì nó sẽ rơi vào trong không tưởng nhưng con vẫn cảm nhận được hơi thở mà cảm nhận đó là cảm nhận bằng cái tưởng chứ không phải bằng ý thức. Bằng ý thức thì nó phải thấy hơi thở của nó rõ ràng bởi vì ý thức phải có đối tượng thật còn con làm mất đối tượng thật mà chỉ còn rung động thôi. Nếu con không để mất ý thức thì được vì ý thức có đối tượng. Mặc dù hơi thở nhẹ hay thế nào thì con cũng đừng vận dụng nó mà chỉ lôi ra để ý thức các con biết mà cảm nhận toàn thân.
Mục đích của tu 4 Niệm Xứ là tập tỉnh thức trên thân, rồi định tỉnh trên thân, đạt được hai cái này các con mới kéo dài ra. Bây giờ các con chưa có được hai cái đó mà kéo dài là trật, nó đi lọt vào cái khác, nó không ở trên thân để nhiếp phục tham ưu đâu. 4 Niệm Xứ phải hoàn toàn tu ở trong ý thức cho nên với sức quán của nó đến khi tỉnh thức cao mới định tỉnh. Chừng đó mới kéo dài Nhất Dạ Hiền. Mục đích nó là chỗ này. Nó ở trong hiện tại ý thức của nó:
“Quá khứ không truy tìm.
Vị lai không ước vọng.
Chỉ có hiện tại thôi”.
Nhất Dạ Hiền thì ở trong hiện tại nhưng hiện tại phải ở trong đối tượng của nó chứ, nhưng nó lại không trụ trên đối tượng mà nó lại quán trên thân tức là nó không phóng dật. Nó hay như vậy mà nếu các con lầm một chút xíu là các con trật đường. Các con chưa có tỉnh thức, chưa có định tỉnh mà kéo dài nó ra thì nó phải rơi vào chỗ khác. 4 Niệm Xứ khi các con tu đúng rồi sẽ thấy hạnh phúc lắm.
Bây giờ Thầy trả lời thêm câu thứ hai “Khi ngồi con không nhìn đồng hồ nên có lúc 45 phút, có lúc 1 giờ rồi con đi kinh hành rồi vào ngồi tập tiếp, khi có niệm ra vô thì con quay về quán thân liền. Kính bạch Thầy như vậy con có thể tu tập 4 Niệm Xứ được không hay cần tu pháp xả?"
Nếu con tu như vậy thì chỉ tu pháp xả thôi. Tu 4 Niệm Xứ mà còn niệm ra vô thì đâu nhiếp phục tham ưu. Các con hiểu câu của đức Phật nói câu “trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu”. Mục đích của quán thân là để nhiếp phục tham ưu chứ đâu phải để nhiếp chơi. Đây con nhiếp chơi để có niệm trong đó thì con xả nữa, như vậy không đúng pháp 4 Niệm Xứ đâu.
Theo Thầy thì con phải tập thanh thản an lạc vô sự rồi giữ tâm của con để xả thôi chứ sức của con không tu 4 Niệm Xứ được đâu, bởi quán trên 4 Niệm Xứ là tập sức tỉnh thức cho đến định tỉnh. Giờ về con tập theo sức của con, con coi có quán thân được chưa, cảm nhận được thân con chưa. Đầu tiên là phải cảm nhận được thân “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, con cảm nhận được thân của con. Con đi kinh hành con cảm nhận được thân trước đã; cảm nhận được rồi mới tập tỉnh thức trên đó, sau đó mới tập định tỉnh trên thân. Có nhiều giai đoạn như vậy trên 4 Niệm Xứ gọi là tập quán thân trên thân. Chứ không phải người nào mới vô rồi muốn quán thân trên là quán ngay. Không phải vậy đâu. Các con quán không được đâu. Thầy nói thực đó. Pháp hay thì phải khó chứ pháp hay mà dễ thì người nào cũng đạt được hết sao.
-Thưa Thầy kì rồi Thầy có dạy con kinh hành 4 Niệm Xứ. Con đã tập.
Thầy dạy thêm con gì nữa không.
Con đi và đã cảm nhận được thân là được nhưng khoảng thời gian con tu chỉ được tu 5 phút thôi, không được tu nhiều bằng không thì sai. Con tập quán cho được, chứ quán chưa được thì đừng hỏi thêm gì khác. Khi con quán được rồi thì Thầy mới dạy cách để con tỉnh thức trên đó, trên chỗ quán thân. Sau khi Thầy kiểm tra xem sức tỉnh thức của như thế nào rồi Thầy mới dạy con định tỉnh trên đó.
Con đang thắc mắc vấn đề dùng từ ngữ tiếng Việt trong khi dịch kinh.
Sự diễn tả trạng thái người tu chứng và người đang tu làm sao đúng được khi người dịch không tự thân có kinh nghiệm chứng đạt?
Sự thật đúng vậy. Những dịch giả phải hiểu nghĩa các từ dùng trong khi dịch bằng kinh nghiệm tu như của các con mới chính xác, còn người chưa có kinh nghiệm tu thì chỉ hiểu nghĩa chung chung thôi chứ họ không rành. Cho nên khi muốn hiểu nghĩa của câu “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Hoà Thượng Minh Châu dịch “Cảm giác” hoặc “Cảm nhận” thì cũng được, không sao vì “cảm giác” và “cảm nhận” không có gì khác xa nhau nhiều. Nhưng “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra” thì không rõ nghĩa bằng câu “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”, Hoà Thượng Minh Châu dịch “Cảm giác thân hành” trong bài kinh Thân Hành Niệm thì đức Phật đã xác định câu đó rõ ràng. Tại sao câu kia thì “Cảm giác toàn thân” mà ở câu này thì “Cảm giác thân hành” vì trong thân hành thì phải “Cảm giác thân hành”. Cho nên ở đây câu “Cảm giác toàn thân” Hoà Thượng Minh Châu dịch từ chữ Pali chỉ nói cảm giác của thân thôi, nhưng qua thân hành niệm thì ngài dịch “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”. Cảm giác thân hành là cả một sự rung động. Bây giờ con muốn hỏi “cảm giác toàn thân” hay “cảm nhận toàn thân” có phải là “cảm giác thân hành” thì ở đây đức Phật đã xác định rồi. Tôi cảm nhận sự rung động tức là cảm nhận thân hành của nó. Vậy các con nhận ra được “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra” là nhận ra được sự rung động của thân các con.
Cho nên từ bài pháp này đến bài pháp khác chúng ta kết hợp, lại chúng ta xác định được nghĩa. Còn sự tu chứng của Thầy, Thầy rất biết nhưng các con không đủ niềm tin vào Thầy nên Thầy đưa những bài kinh của Phật dạy mà Hoà thượng Minh Châu dịch để làm sự xác chứng cho các con có đủ niềm tin. Thầy tu chứng các con đâu biết được sự tu chứng trong lòng Thầy như thế nào. Trong những bài pháp có những câu, những từ làm chúng ta khó hiểu mà chỉ người tu chứng mới hiểu được mới hoá giải được. Thí dụ trong bài kinh Đại Không, bài kinh Tiểu Không, nếu không phải là người tu chứng thì không hiểu nó được, người ta chỉ nghĩ đó là Tánh Không chứ không phải là Không Tánh.
Mà Không Tánh là nghĩa nào, họ cũng chưa hiểu được. Nếu Thầy không giải thích những từ này thì chắc chắn người tu không chứng cũng như người không tu chứng không hiểu, không giải thích nổi. Cho nên các nhà học giả đều không giải thích được nghĩa lí của kinh sách Nguyên Thủy, không biến thành pháp hành cho chúng ta một cách thực tế.
Hôm trước con nghe Thầy dạy những người đang bị bệnh thì phải trị cho thật hết rồi mới nên vào tu?
Những điều Thầy nói liên quan trong sự tu tập, nếu đang có bịnh thì hãy trị cho thật lành rồi vào tu mới dễ. Còn các con bị bịnh là một cái khổ vì bịnh thì làm sao các con được thanh thản an lạc vô sự. Cho nên có bịnh thì phải trị cho thật hết rồi mới tu, chứ không thì vừa ngồi xuống là chướng bịnh nổi lên làm sao tu được. Đức Phật nói có 5 điều khó tu, người có thân bịnh thì tu không tới đâu, dù có ham cũng không tu được. Các con đang bị bịnh, hãy lo trị cho hết bịnh. Lẽ ra phải sắp xếp các con bị bịnh vào một khu riêng để được trị bịnh. Người bịnh ở trong đó không làm động người khác để cho người ta tu.
Hiện giờ cô Út đang chia tu viện ra từng khu nhưng chưa sắp xếp được.
Như lớp chúng ta cũng chia thành nhiều mức độ, hôm nay Thầy đang xem xét coi người tu 4 Niệm Xứ được bao nhiêu người, người tu tâm xả được bao nhiêu và người còn đang ở trong lớp Chánh Kiến để triển khai tri kiến được bao nhiêu người, rồi mới sắp xếp theo khu nào lớp nào trình độ nào. Nhờ vậy sẽ giữ gìn được giới luật đem lại an ổn cho người trong khu và các khu khác.
-Bạch Thầy, con không dùng tưởng tượng từ đầu xuống chân và ngược lại để quán thân mà chỉ để tâm quay vô để cảm nhận thêm trên thân. Như vậy có đúng không thưa Thầy ?
Có thể con cần được kiểm tra lại chứ có thể con muốn quán thân mà không trở thành quán thân.
Con cảm nhận trên thân có chỗ nào khó chịu hoặc là đau ở đầu, ở ngực, ở chân con dùng tâm quân bình.
Đúng nhiếp tâm trong 4 Niệm Xứ thì không có chỗ nào đau hết, tu 4 Niệm Xứ mà có chướng ngại thì không phải 4 Niệm Xứ. Nó không đau mà nếu ngồi quán thấy chỗ này chỗ kia đau thì phải tu 4 Chánh Cần chớ không thể tu 4 Niệm Xứ. 4 Niệm Xứ là phải thanh thản an lạc vô sự, không đau, hoàn toàn bất động. Tâm phải bất động trước ác pháp rồi mới tu 4 Niệm Xứ chứ chưa bất động thì chưa tu 4 Niệm Xứ được. Nó là lớp thứ 7 của 8 Chánh đạo, cho nên tâm các con phải rất thanh tịnh, thân các con cũng phải thanh tịnh, không còn các bịnh lặt vặt trong đó. Thầy đã chuẩn bị cho các con khắc phục bằng giai đoạn 4 Chánh Cần rồi. Thân còn đau tâm còn chướng ngại thì lo mà khắc phục những ưu phiền trên đó, đừng nói tới tu 4 Niệm Xứ. Lo đẩy lui các chướng ngại này thì phải ở trên 4 Chánh Cần chứ đâu phải trên 4 Niệm Xứ. 4 Niệm Xứ là phải bình an để các con đi vào giai đoạn tỉnh thức và định tỉnh để các con đạt được cứu cánh, cho nên ở 4 Niệm Xứ thì phải không còn đau, không còn niệm, không còn chướng ngại. Bởi vì bản thân 4 Niệm Xứ là nó khắc phục tham ưu, không còn cái đau khổ nào nữa. Nếu còn mang sự đau khổ mà tu 4 Niệm Xứ thì làm sao tu được. Bây giờ tôi đang đau mà tôi đi ôm pháp 4 Niệm Xứ để khắc phục thì làm sao khắc phục được. Hãy trở lui 4 Chánh Cần để trong đó có pháp sử dụng để đẩy lui; đẩy lui xong hết rồi mới qua giai đoạn tu 4 Niệm Xứ. Tôi chưa đẩy lui mà qua đây thì đâu dùng pháp 4 Niệm Xứ này đẩy lui chướng ngại pháp được. Các con tu như vậy là không hiểu pháp. Đến đây các con hiểu rồi chứ?
-Thưa Thầy, nếu con tu theo pháp xả thì sau này có trở về tu 4 Niệm Xứ được không?
Không cần phải trở về mà tự nó quay vô quán thân rồi. Nó xả xong thì nó quay vô là nó quán trên 4 Niệm Xứ rồi. Lúc bấy giờ các con mới ôm pháp 4 Niệm Xứ nhiếp phục.
4 Chánh Cần mới ngăn diệt bịnh, không phải 4 Niệm Xứ Khi cảm nhận thân có chỗ nào căng hoặc khó chịu, hoặc đau ở đầu, hay ở ngực, hay ở chân, con dùng tâm quân bình tự nhiên các chỗ trên đều tạm nhẹ yên, khi yên rồi con chỉ cảm nhận trên thân con hơi thở ra hơi thở vô.
Không phải thế, đó là con đang tu ở trên 4 Chánh Cần, khi còn cảm nhận đau đớn trên thân thì 4 Niệm Xứ không tu được. 4 Niệm Xứ phải là con người khoẻ mạnh bình yên mới tu tập tỉnh thức và định tỉnh trên 4 Niệm Xứ tức là quán thân trên thân. Đây là tập quán chứ chưa phải là nhiếp phục đâu.
Tập quán mà cứ bị chướng ngại thì quán sao được, cứ lo đẩy lui bịnh thôi thì làm sao quán. Theo cách trình bày của con thì con đang ở trên 4 Chánh Cần, ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện tức 4 Chánh Cần.
Cho nên các con phải nhận ra cho được pháp tu 4 Niệm Xứ, đừng lầm lộn 4 Chánh Cần ra 4 Niệm Xứ. Người có chướng ngại đau bịnh này kia sẽ bị khó tu là khó tu với 4 Niệm Xứ chứ đâu phải khó tu với 4 Chánh Cần, bởi 4 Chánh Cần chính là pháp ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện. Cho nên 4 Chánh Cần chính là pháp được sử dụng và cần sử dụng trong lúc này, ở giai đoạn đau bịnh này. Còn vị trí đúng của 4 Niệm Xứ là khi thật bình an.
Bây giờ các con mới biết Phật pháp, pháp nào hợp với các con, pháp nào chưa hợp.
Do đặc tướng của con người, mỗi người có những bịnh khác nhau, thì pháp phải hợp với người đó vào lúc đó mới tu tập được. Pháp Phật không bỏ một người nào hết. Người khoẻ mạnh hay người đau bịnh đều tu được, nhưng khó là chọn cho đúng pháp với nó; không thể ở trên pháp này mà tu cho cái khác. Như anh loạn tưởng mà vào pháp 4 Niệm Xứ thì tu sao được, anh chỉ vào 4 Chánh Cần tu, mà phải tu pháp nào của 4 Chánh Cần để hợp với loạn tưởng. Vậy là chỉ Định Niệm Hơi Thở thôi vì trong đó có đề mục nhiếp phục được sự loạn tưởng: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Trong Định Niệm Hơi Thở có những đề mục khắc phục các tình trạng chướng ngại rất rõ ràng. Còn anh bị hôn trầm thùy miên thì cũng có những đề mục giúp khắc phục hôn trầm thùy miên: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”.
Đức Phật trang bị cho chúng ta đủ hết chứ đâu đợi chúng ta đi kinh hành đâu nhưng vì anh tập Định Niệm Hơi Thở chưa đủ căn bản, nghĩa là một phút nhiếp tâm và an trú tâm chưa làm được thì thử hỏi làm sao anh phá được hôn trầm thùy miên, buộc lòng anh phải đi Kinh Hành Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi. Chứ còn anh tu Định Niệm Hơi Thở hẳn hòi kĩ lưỡng thì có chướng ngại pháp nào xen vô trong anh được, bởi Định Niệm Hơi Thở là lợi ích rất lớn, tất cả những chướng ngại gì vào trong thân nó đều đẩy lui ra được hết. Nó có phương pháp đẩy lui, nó có cách thức, đề mục đẩy lui rõ ràng, không phải mơ hồ. Không phải tôi nhiếp tâm vô hơi thở để sổ tức tùy tức để chứng được thiền không vọng tưởng. Không phải. Mọi người hiểu sai, hiểu không đúng Phật pháp cho nên mới đẻ ra Lục Diệu pháp môn, đẻ ra Sổ Tức Tùy Tức,... Đó là những điều sai. Các Tổ không hiểu Phật giáo, không hiểu pháp hơi thở của Phật giáo.
Khi Thầy vạch ra rõ như vậy thì Thầy thấy các Tổ không hiểu Phật giáo.
Các Tổ hiểu qua tưởng của các Tổ, đẻ ra nhiều pháp làm chúng ta lầm lạc đi vào pháp ức chế tâm để không có vọng tưởng. Tu như vậy là vì hiểu sai Phật giáo. Mục đích của đạo Phật là ngăn ác diệt ác, làm cho chúng ta không còn tham sân si. Hết tham sân si là giải thoát, chứ không cần gì nữa.
Cái gì cần làm phải làm xong trước Hôm nay Thầy nói như vậy để các con biết con đường tu của các con.
Người nào thiếu pháp nào thì phải tu pháp đó, mà không hợp với pháp đó thì trở xuống tu pháp thấp hợp với mình hơn. Các con tu để giải thoát chứ tu pháp cao không hợp đó để làm gì. Có danh vị để làm gì. Có lợi ích thiết thực cho các con không hay là mua cấp bằng, khoe với đời tôi cũng tu 4 Niệm Xứ đây! Nhưng sự thực 4 Niệm Xứ của các ông có làm chủ được sanh già bệnh chết chưa? Có chứng đạt chân lí chưa?
Lớp thứ 7 là lớp chứng đạt chân lí mà các con làm được chưa, trong khi các con ngồi đó mà đau bịnh nhức chỗ này chỗ khác mà bảo xuống lớp 4 Chánh Cần để xả những cái đó thì không chịu, coi là lớp thấp; khi tri kiến các con không hiểu những gì cần thông hiểu mà không chịu ở lớp Chánh Kiến để học mà muốn vào những lớp cao hơn thì thử hỏi tri kiến của các con làm sao đủ.
Các con muốn các con cao, muốn làm Hoà thượng, Thượng toạ thôi. Nhưng làm những cái đó để làm gì, có lợi ích gì đâu. Các con phải làm sao làm được những cái gì các con làm được. Thà các con ở lớp 1 mà các con là một tu sinh giỏi thì còn hơn là tu sinh ở lớp 2 mà dở.
Thầy nói vậy để các con hiểu các con tu phải có căn bản. Chính vì không căn bản mà các con vô 4 Niệm Xứ không được. Thầy đã trang bị trước cho các con các pháp rồi. Trước khi các con vào lớp 4 Niệm Xứ này thì Thầy đã trang bị một phút nhiếp tâm và an trú tâm. Thế mà các con muốn tu và đã chỉ tu 5, 10 phút thôi. Các con đâu chịu nghe Thầy. Thầy dạy một phút thì hãy tu một phút cho được. Chừng nào Thầy dạy 2 phút thì tu cho được 2 phút, 3 phút thì tu 3 phút... Thầy chưa cho thì cứ một phút đó mà tu.
Khi một phút mà tu được rồi thì lên 4 Niệm Xứ các con thấy mình ở trên chóp bu của hơi thở mà nhìn lại cái thân. Các con không nhiếp tâm và an trú trong một phút, các con chưa nhiếp tâm và an trú trong một phút, vậy bây giờ các con nhìn lại xem hơi thở quán thân có được không? Thế mà các con không hiểu gì hết, không biết gì hết. Bây giờ tu 4 Niệm Xứ mới thấy được sự quán yếu kém của các con. Nó trật vuột, nó tới lui, không có bám được, không có định tỉnh, không có tỉnh thức được trên đó. Đó là do tu tập thiếu căn bản trong khi Thầy dạy rất căn bản.
Căn bản khác nhau giữa 4 Chánh Cần và 4 Niệm Xứ Hôm nay các con biết sự tu tập của các con như vậy thì phải cố gắng tu tập kĩ hơn. Người nào trên thân quán thân nhiếp được thì nhiếp trong 5 phút rồi tập cho được tỉnh thức rồi định tỉnh trên thân cho Thầy. Trong những giờ phút cần gặp Thầy để kịp kiểm tra chặt chẽ sự quán thân, bởi nó là pháp quán thân để nhiếp phục tham ưu, nó quan trọng vô cùng, nó chỉ cần nhiếp thế mà các ưu phiền không hề có.
Pháp 4 Niệm Xứ tự bản thân nó quán mà nhiếp phục ưu phiền, không cần dùng pháp nào khác nữa, không dùng cái gì khác hết cho nên nó khó. 4 Niệm Xứ thì chỉ ở trên 4 Niệm Xứ thôi. Chính vậy mới nói 4 Niệm Xứ trên 4 Niệm Xứ, trên thân quán thân, trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên pháp quán pháp.
Còn trong 4 Chánh Cần, khi thân các con có chướng ngại gì hay tâm các con có chướng ngại gì thì có phương pháp khác đúng cách để đẩy lui dễ dàng.
Với 4 Chánh Cần các con thấy nó ở trên 4 Chánh Cần nó quan sát thân nó, khi có ác pháp nào tác động đến thân thì nó lấy phương pháp khác đem vào để đẩy ác pháp chứ nó đâu có ở trên 4 Chánh Cần. 4 Chánh Cần đâu có nói trên thân quán thân mà chỉ nói “ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện” thôi.
Pháp nào phải tu đúng theo pháp đó.
-Phải tu chuyên một oai nghi: Thời tu tối từ 7 giờ đến 10 giờ, con ngồi bất động thân kèm theo hơi thở cảm giác toàn thân để ngó thân. Con tu 5 phút nghỉ 10 phút liên tục cho đến hết giờ đầu. Giờ thứ hai có hôn trầm thì con kinh hành ngó thân đi 5 phút xả nghỉ 10 phút, con tu liên tục từ 8 giờ đến 9 giờ. Con tu chuyển sang tư thế nằm kiết tường ngó thân 5 phút, nghỉ 10 phút liên tục tu hết giờ 9 – 10 giờ. Thưa Thầy con tu nhu vậy có sai pháp 4 Niệm Xứ không hay chỉ tu ngồi ngó thân cho thuần mới chuyể sang tư thế khác?
Con tu như vậy đúng, nhưng vì chưa thuần thục trong đi kinh hành mà trong thời tu con tu nhiều oai nghi. Bây giờ con tu từ 7 – 8 giờ đi kinh hành để cảm giác toàn thân thôi. Giờ thứ hai, từ 8 – 9 giờ con cũng tiếp tục đi kinh hành, đừng có nằm ngồi gì. Giờ thứ ba, từ 9 – 10 giờ con cũng đi kinh hành mà không thay thế nằm ngồi gì. Nghĩa là trong suốt thời khoá từ 7 – 10 giờ con chỉ đi kinh hành xen kẽ nghỉ xả như con đã tu trong giờ đầu, để cho nó được định tỉnh trên thân hành của con bằng tỉnh thức trong khi đi trước đã.
Sau khi đi đã tỉnh thức được rồi thì con mới thay đổi qua ngồi hoặc đứng, hoặc nằm thì rất thuận lợi. Từ căn bản này sẽ dẫn dắt tới căn bản khác của oai nghi khác thì nó sẽ rất tiện lợi. Còn lúc thì con ngồi, lúc thì con đi, lúc thì con nằm, nhiều khi bị những ác pháp ngoài tác động vô con mà con không ngờ được.
Khi con tu chỉ một oai nghi đi, chẳng hạn, trong suốt một, hay hai, hay ba tuần lễ cho được thuần thục, cho nhu nhuyến, cho tỉnh thức hoàn toàn trên thân con, chừng đó con mới nên chuyển qua oai nghi khác.
-Ngoài giờ tu để ngó thân, thí dụ như thân đi đứng nằm ngồi tác ý bảo “thân đừng dẫm đạp chúng sanh” hoặc đi khất thực để ý ngó thân suốt từ khi đi đến khi về thất, như vậy có được không? hoặc ăn cơm ngó thân biết ăn, múc cơm biết múc cơm, đưa lên miệng biết đưa lên, nhai biết nhai, mọi thân hành của con phải nhìn ngó quan sát liên tục thường xuyên. Như vậy có phải là 4 Niệm Xứ không, hay là pháp tu Chánh Niệm Tỉh Giác, xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Hiện giờ con tu như vậy là Chánh Niệm Tỉnh Giác chứ không phải 4 Niệm Xứ đâu, bởi vì chính đi kinh hành thôi mà con chưa tỉnh thức, bây giờ tu thêm tất cả các hành động khác rất là khó. Như vậy chỉ tỉnh thức thôi, không thể nào khác hơn được. Trong tỉnh thức này còn khởi tâm từ bi để cho tỉnh thức, con câu hữu được những điều này thì cũng chỉ tỉnh thức thôi, không có gì khác đâu.
Còn tu 4 Niệm Xứ thì con phải tu chuyên phần đó trong các thời tu như từ 7 – 10 giờ sáng hay tối, từ 2 – 5 giờ chiều hay khuya cứ tu chuyên một pháp trên oai nghi đi. Cứ tu chuyên như vậy suốt trong một tháng hay nửa tháng cho nó nhu nhuyến thành thục, lúc nào con đi cũng dễ dàng cảm nhận được thân trong thời giờ tu. Còn trong thời giờ xả ra, con tập cho tỉnh thức bằng pháp này pháp khác thêm được thì tốt, rất tốt cho con, không sao đâu.