Lúc bấy giờ Ba-Giá-Tuần lên dây đàn, đến trước mặt Tôn Giả Tu BồĐề dùng lời ca và tiếng đàn nói lên phương tiện tu hành của cõi Trời Thích Đế Hoàn Nhơn:
Kiết hết thường không sát
Niệm niệm không rối loạn
Thì trần cấu ắt dứt
Mong sớm từ Thiên giác
Tâm bặt qua dòng hữu
Hàng ma độ các kiết
Công đức như biển lớn
Mong chóng từ định dậy
Mắt định như hoa sen
Các hữu thường không dính
Không về làm quây về
Định không kịp thì dậy
Bốn dòng sông vô vi
Khéo hiểu không già bệnh
Đây thoát họa hữu vi
Cúi mong Tôn sớm dậy
Năm trăm Trời ở trên
Thích chủ đích thân đến
Muốn xem Tôn Nhan Thánh
Hiểu không xin mau dậy.
(Tăng Nhất A-Hàm)
Qua bài kệ trên, lời khuyên của Trời Thích Đế Hoàn Nhơn dạy chúng ta phải dứt trừ sát sanh. Nhờ không sát sanh mà các kiết (sự ràng buộc) sẽ hết, các kiết dứt thì tâm không rối loạn và trần cấu đều chấm dứt. Bấy giờ nội tâm từ tình thức suy lý đến sự khổđau, phiền lụy, sợ hãi đều vắng bặt, tất cả vạn vạn hữu không còn là chướng ngại của tâm, nghĩa là tâm không dính mắc với vạn vật, dù trong cảnh thuận hay nghịch đều vượt thoát khỏi, tức là hàng phục được các ma chướng bên ngoài cũng như chính trong tâm của mình, vì thế các kiết không còn phá phách nữa. Người tu hành được như vậy, công đức lớn như núi Tu Di, như biển cả không lấy gì so sánh được.
Tâm chúng sanh vốn không dính mắc, không phiền não, chỉ vì vô minh lầm chấp cái Ngã (Ta) và Ngã Sở (của Ta) nên có dính mắc, có phiền não.
Tâm chúng sanh thường sống trong Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, nhưng vì tham, sân, si ở bên ngoài khởi dậy khiến cho tâm mất bình thường, ví nó đang duyên theo sáu trần.
Muốn làm chủ được già bệnh thì phải giữ tâm an vui đừng để phiền não xen vào. Nhờ cố giữ gìn, tức là thì thân dần dần sẽ ít bệnh tật. Kinh Tăng Nhất A-Hàm dạy: Thoát tai nạn hữu vi, nghĩa là tư tưởng không còn bị ảnh hưởng vật chất thế gian, đời sống không còn nô lệ cho vật chất.
Khi nghe xong lời ca tiếng nhạc của Ba Giá Tuần, Tôn Giả Tu BồĐề cất tiếng khen ngợi: Lời ca tiếng nhạc hòa hợp nhau không khác, giọng ca không lìa tiếng đàn và tiếng đàn không lìa giọng ca.
Hành THẬP THIỆN thân, tâm của chúng ta phải hoàn toàn hòa hợp với mọi đối tượng, nghĩa là chúng ta phải tùy thuận với tất cả chúng sanh. Phải hiểu chúng sanh tức là thân và tâm của mình, thân và tâm của mình tức là chúng sanh.
Tu THẬP THIỆN chúng ta phải ý thức sự dung thông với vạn hữu là một việc làm tối quan trọng của sự tu quán. Nếu hành giả không dung thông được thì sự thể hiện THẬP THIỆN chỉ có kết quả năm phần mười chớ không thểđạt được kết quả theo ý muốn.
Kinh Tăng Nhất A-Hàm dạy: Lành thay! Lành thay! Ba Giá Tuần! Nay ông dùng giọng ca và tiếng đàn hòa hợp đàn ca không khác, tiếng đàn không lìa giọng ca, giọng ca không lìa tiếng đàn, hai việc hòa hợp với nhau thành tiếng hay tuyệt.
Muốn giải thoát tâm hồn đau khổ phiền lụy, hành giả phải nhận thức rõ ràng THẬP THIỆN và DUNG THÔNG là một, nghĩa là phải tùy thuận lại đối tượng để giải quyết tâm lý mình một cách rất tế nhị và phi thường. Đó là một pháp môn mầu nhiệm và cần thiết cho những ai muốn hưởng được hạnh phúc chơn thật trong cõi thế gian này.
THẬP THIỆN là pháp môn dung thông vạn hữu với tâm mình. Nhờ pháp môn này mà vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ mới tùy thuận lẫn nhau, mới chung sống với nhau, mới hoàn mãn sự giải thoát nơi tâm hồn mình. Thể hiện như vậy, vạn hữu không còn là chướng ngại, nó là tâm mình, tâm mình là vạn hữu; THẬP THIỆN là tâm mình, tâm mình là THẬP THIỆN.
Ởđây chúng ta phải hiểu THẬP THIỆN, TÂM MÌNH và VẠN HỮU đều là ĐỊNH và DỤNG của một thể tánh vũ trụ. Thế nên từđộng đến định, từ tịch đến chiếu thảy đều là nguồn giải thoát trong lòng hỗ tương nhân ái của mỗi chúng sanh.
Có người hỏi: Tu Thập Thiện làm sao biết được thân không còn bệnh?
Đáp: Như chúng ta đã biết, có thân là có nghiệp, nghiệp thân phải ăn uống mới sống. Có nghiệp thân là có sanh tử, già yếu, bệnh tật ốm đau,...
Nghiệp căn bản của thân thường xảy ra trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Do tư tưởng hoạt động tác dụng mạnh tạo nên nghiệp thân ấy.
Tâm không sáng suốt tức là vô minh tạo ra những duyên hợp nên có thân. Vì vô minh nên tất cả chúng sanh đều mang thân nghiệp; thân nghiệp là biểu tượng vật chất, chịu nhiều thứ bệnh tật. Tâm là phần tinh thần cũng chịu ảnh hưởng của thân; chấp có thân nên khi thân đau ốm thì tinh thần khổ sở, lo lắng sợ hãi...
Muốn thoát khỏi bệnh tật của thân và sựđau khổ của tinh thần thì phải tu Thập Thiện, vì Thập Thiện là pháp môn buông xả những hành vi ác của thân, khẩu, ý. Nếu nghiệp ác dần dần buông xuống thì nghiệp thiện dần dần hiện lên.
Lúc hành Thập Thiện phải ý thức được nghiệp thiện đang bao trùm tất cả bệnh khổ và luôn cả sanh tử. Nếu từ thân, khẩu, ý xuất phát những điều thiện thì ngay đó có giải thoát bệnh tật, tai nạn, phiền não, khổđau từ thân và tâm hồn mình một cách rõ rệt.
Ngược lại, khi thân, khẩu, ý xuất phát những điều ác thì liền đó có sự khổđau, sân hận, âu sầu, lo lắng và bệnh tật.
Thân, khẩu, ý hành Thập Thiện thì từ khổ đau biến thành an vui; từ bệnh tật, đau ốm trở thành mạnh khỏe sống lâu. Bởi vì nghiệp thiện luôn luôn che chở, giải thoát cho chúng sanh khỏi cảnh đau khổ. Ví như có người chửi mắng mình, mình hành pháp nhẫn nhục không chửi mắng lại, thì cảnh đang động biến thành cảnh tịnh, cảnh khổ biến thành cảnh an vui.
Trời Thích Đề Hoàn Nhơn hỏi ông Tu BồĐề: Thế nào là nghiệp THIỆN bao trùm tăng giảm? Câu hỏi này có nghĩa là: Hành động Thiện có đem lại cho chúng sanh thoát khỏi bệnh tật, khổđau hay không?
Chúng ta phải quan sát cho kỹ xem nguyên nhân nào sanh ra bệnh tật?
Khi rõ nguồn gốc của bệnh tật, tức là thông suốt nhân quả thì ta càng tin sâu Thập Thiện. Bắt đầu từ nay ta phải tích cực hành Thập Thiện bằng cách:
1. Tất cả mọi sự kiện, sự vật dù lớn hay nhỏ mà đang ở trong hành động ác phải đình chỉ ngay tức khắc.
2. Hành Thập Thiện là phải biết nhẫn nhục, phải biết lấy ân báo oán, lấy tâm từ bi mà tha thứ mọi sự lầm lạc của kẻ khác.
Do sự việc này nên Thích Đế Hoàn Nhơn nói: Thập Thiện bao trùm bệnh khổ.
Lại nữa Thích Đế Hoàn Nhơn còn hỏi:Thân bệnh này từđâu sanh ra?
Thích Đế Hoàn Nhơn hé mở thêm cánh cửa giải thoát, giúp cho chúng sanh tư duy quán xét sâu hơn về thân nghiệp của mình. Chúng tôi xin nhường lại cho quý vị tự quán xét lấy thân bệnh của mình, do từ đâu sanh ra? Cái gì tạo nên bệnh? Ai làm thân bệnh? Thân bệnh hay tâm bệnh?
Bao nhiêu câu hỏi này chúng ta lần lượt quán xem. Nếu thân không có tâm thì thân không biết đau (như thây ma) lấy gì gọi là thân bệnh? Nếu có tâm mà không có thân thì lấy đâu có bệnh, vì tâm vốn vô hình. Vậy cái bệnh này từđâu đến?
Thích Đề Hoàn Nhơn còn hỏi Tôn Giả Tu BồĐề :Bệnh này do thân sanh hay ý sanh?
Thích Đề Hoàn Nhơn đã mở thêm cánh cửa cõi Trời để chúng sanh được bước vào. Nếu chúng sanh không chịu khó đem hết ý chí quán sâu và thể hiện Thập Thiện ngay trong đời sống hằng ngày của mình thì làm sao hưởng được phước báu và sanh vào cõi Trời.
Câu hỏi này rất hợp lúc, khiến cho những ai đang hành Thập Thiện đều phải nhìn nhận thực trạng vạn hữu trong vũ trụ vây quanh chúng ta là một chướng ngại to lớn.
Hành Thập Thiện chúng ta phải quán xét cho tường tận nguồn gốc của phiền não.
Đọc những đoạn kinh trong Tăng Nhất A-Hàm, chúng ta phải nhìn nhận đức Phật dạy chúng sanh đi theo con đường quán quá rõ rệt. Nhờ quán chiếu, chúng ta nâng trình độ hiểu biết về Phật pháp càng lúc càng thâm sâu.
Quán không phải là sự học tập theo kiểu học trò, QUÁN là sự tham cứu, là sự tự tri tự giác, tự mình khám phá và nhận đúng vạn hữu với mình không phải là hai. Khi hiểu được như vậy chúng ta mới có thể hòa mình với vạn vật thiên nhiên mà không còn thấy chướng ngại.
Những câu hỏi trên đây đức Phật biết rằng chúng sanh không đủ trí năng để tự khám phá, tìm tòi và khảo cứu về sanh, gìa, bệnh, chết. Tôn giả Tu BồĐề thay lời Phật trả lời những câu hỏi trên, khiến cho chúng sanh dễ hiểu, nhờđó làm điểm tựa nghiên cứu và khám phá tới. Nhưng dù sao những câu trả lời này cũng là của đức Phật, của ông Tu BồĐề chớ không phải của chúng ta. Vì vậy chúng ta đừng lấy đó làm của mình, nhẩm đi nhẩm lại lối mòn của người xưa. Đó là lối tu lấy đá đè cỏ, đưa đến sự thể hiện Thập Thiện sẽ không Thiện. Tu hành như vậy dù cho đến một ngàn năm sau cũng không bao giờ tìm đến chơn hạnh phúc.
Điều quan trọng nhất trong việc tu quán, đầu tiên chúng ta phải mượn ý Phật, ý Tổ làm nơi nương tựa để rồi tự mình quán xét, tự mình mở cửa vũ trụ. Khi Quán đã thuần thục thì nguồn giải thoát hiện tiền nơi tâm hồn mình, bấy giờ chúng ta mới thật sự tự vươn cánh chim bằng thênh thang bay vút tận trời xa.